Thứ Tư, 16 tháng 1, 2013



TẢN MẠN vềVăn hóa cạn chén! Tác giả Trần Văn Giang
19:53 2 thg 1 2013Công khai7 Lượt xem2
 
Văn hóa cạn chén!
Trần Văn Giang




…Buồn như ly rượu đầy
không có ai cùng cạn;
Buồn như ly rượu cạn
không còn rượu để say…

(“Buồn” – nhạc Y Vân - thơ Tạ Ký)


Ngòai cái tên tựa mà tôi tạm thời chọn cho bài này, “Văn hóa cạn chén” (the ‘bottoms-up’ culture), còn có muôn vàn tên từ phàm tục, bình dân giáo dục cho đến thi vị, bi tráng để gọi một vấn đề (hay một tệ nạn xã hội) - uống rượu: ăn nhậu, nâng ly, cụng ly, cạn ly, nhâm nha, lai rai, tiến tửu, nghinh tửu…

Cạn chén là một “bộ luật bất thành văn” duy nhất của xã hội Việt Nam hôm nay được áp dụng rất “nhất trí.” Từ cấp lãnh đạo nhà nước, cơ quan chính quyền cho đến xí nghiệp tư nhân, tiệc tùng ăn nhậu gần như là một nghi lễ bắt buộc khi tiếp quan khách các cấp bậc nhà nước hoặc tiếp các đối tác thương mại… Không có ăn nhậu được hiểu là “không phải phép,” “không biết điều,” “không rượu không phải lễ (vô tửu bất thành lễ),” “khó chơi,” “chơi không vô…”

Lần đầu về thăm Việt Nam sau gần 30 năm, khi tiếp xúc với thân nhân, bạn bè, người nào cũng than vãn là: “cuộc sống quá khó khăn,” “làm không đủ sống,” “gạo châu củi quế…” nhưng tôi lấy làm ngạc nhiên khi nhìn thấy từ thành phố lớn cho đến thôn quê, từ đường phố lớn đông người chen chúc cho đến ngoại ô xa xôi vắng vẻ, từ nhà hàng sang trọng máy lạnh cho đến quán cóc xiêu vẹo lôi thôi nhếch nhác vỉa hè, khi chiều tối vừa lên đèn là đã đầy nghẹt khách nhậu !!! Tôi có đem chuyện “vô số các quán nhậu đầy khách” ra hỏi một đồng môn cũ hiện đang làm việc cho một ngân hàng ở Sài gòn, thì người bạn này trả lời là:

- “Ông nói đúng. Mỗi buổi chiều tan sở, có ít nhất 5 hay 6 nơi mời tôi đi nhậu. Tôi phải lựa chọn một chỗ ngon lành và tốt nhất để nhậu mỗi ngày. Mà nè! bây giờ, nói không quá, không nhậu không thể làm việc được; bởi vì các vụ làm ăn, trao đổi, ký kết, quyết định của cơ quan chính quyền cũng như cơ sở dân sự thương mại đều ‘xử lý’ không phải ở trong văn phòng; mà trên bàn nhậu!”

Trời đất! Ở Mỹ này, các nhà lãnh đạo chính phủ cũng như xí nghiệp tư họp bàn và quyết định mọi chuyện khi đầu óc họ tỉnh táo, thông thoáng mà còn đôi khi còn bị sai lầm đổ vỡ; vậy mà ở nước ta “mọi quyết định quan trọng” đều xẩy ở trên bàn nhậu khi các người can dự đều say khướt nôn ọe thì đất nước này sẽ đi về đâu? Có lẽ chỉ có một con đường rõ ràng nhất có thể nhìn thấy là sẽ xuống hố cả nước…

Cạn chén, cạn ly, ăn nhậu, hũ chìm, hũ nổi… đó là chuyện bình thường ở Việt Nam (!) Người giầu có nhiều tiền, nhàn rỗi không sợ mất việc thì nhậu đã đành; Anh thợ hồ cũng nhậu, anh xe ôm cũng nhậu, anh nông dân cũng nhậu; Có bằng đại học cũng nhậu, công nhân tép riêu cũng nhậu; Người dở người giỏi đều nhậu; Phụ huynh người lớn nhậu, các em tuổi học sinh bắt chước nhậu, không uống được mười phần (như bố) thì cũng được hai ba phần là tốt rồi; Chuyện nhậu không còn dành riêng cho nam giới “hữu phong” mà phụ nữ con gái cũng theo chồng, theo con, theo bạn nhậu quắc cần câu… Trên bàn nhậu thấy có mặt đủ mọi thành phần, mọi giới, mọi trình độ… và nhậu với mọi “lý do.” Bạn bè gặp nhau (không nhất thiết phải là lâu ngày và tại sao) là phải nhậu… nhậu “giao lưu,” nhậu “kết nghĩa,” nhậu “trước lạ sau quen...” Rồi đến các dịp ma chay, cưới hỏi, giỗ chạp, lễ hội, đại hội, hội nghị, đình đám, khởi hành, khai trương là phải có nhậu… Cứ nhậu trước rồi tính sau. Ông Nguyễn Hiến Lê trong tập “Hồi ký Nguyễn Hiến Lê” đã kể chuyện một ngôi làng ở miền bắc chỉ họp nhau đào một cái giếng nước nho nhỏ thôi; vậy mà từ lúc bắt đầu khởi công đến khi hòan thành giếng nước, dân làng đã tổ chức nhậu liên tiếp từng chặng một, đánh chén hết tổng cộng 42 con heo (?)… Thiệt tình văn hóa ăn nhậu của nước ta đã đến mức siêu đẳng…. Một hai ba cả nuớc chúng ta cùng nhậu, cùng nhau “liên hoan” mệt nghỉ… Chuyện đáng buồn là ở Việt Nam, nhậu còn được xem là một lợi thế thăng tiến trên đường công danh (?) Nhiều sếp lớn của cơ quan nhà nước cũng như xí nghiệp cần tuyển người “nhậu giỏi” để làm phụ tá giúp mình “uống” trong các buổi nhậu giao tiếp… hãi thật!

Theo thống kê của Bộ Y tế Việt Nam, mỗi năm toàn quốc tiêu thụ khoảng 350 triệu lít rượu, trong đó 90% sản lượng là rượu nấu thủ công. Nên biết danh từ “rượu nấu thủ công” để chỉ Rượu Trắng. Rượu Trắng còn được gọi nhiều tên khác nhau như: Rượu Đế - rượu trắng nấu lậu trốn thuế được đem đi dấu ở các bụi cỏ lau, cỏ năng, cỏ đế khi bị “Tây đoan” (một lọai cảnh sát của thực dân Pháp chuyên đi bắt rượu lậu) lùng bắt; Rượu Ngang – rượu lậu phải đi tắt về ngang để đem bán; Rưọu Quốc Lủi – bán lậu như con cuốc trốn lủi trong bụi, trái nghĩa cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng với “Rượu Quốc Doanh” của nhà nước…) Cứ tạm cho là thống kê của “Bộ Y Tế” của nhà nước ta đúng thì trung bình dân tộc Việt Nam tính đổ đầu từ già cho đến sơ sinh nốc cạn chai trên 3 lít rượu trắng mỗi năm (?) Úi chà chà! Thế có chết người không?

Không phải chỉ nốc rượu vào dạ dày là xong đâu. Uống rượu thì phải có “mồi” chứ ai mà uống rượu suông? Chả thế mà các tiệm nhậu, ở mọi nơi, mỗi ngày sáng chế ra thêm nhiều món thực đơn nhậu từ phong phú đến kinh hãi: “đặc sản” thịt rừng (nai, heo rừng, cá sấu…), thịt chuột, cóc, nhái, ếch, lươn, rắn, thỏ, đuông, cua đinh, bọ cạp… Rừng Việt Nam càng ngày càng ít đi vì bị tàn phá khai thác không nương tay thì lấy đâu ra “đặc sản” “hương vị quê hương” cung cấp cho hàng hà quán nhậu mỗi ngày đều đặn như thế… Ai có đủ khả năng phân biệt thật hay giả? Mà đã không có ai kêu ca than phiền gì về chuyện “đặc sản” thật hay giả thì thắc mắc làm gì cho mất thời giờ nhậu quí báu… Cộng thêm các tên gọi “đậm tình quê hương” như: “món ăn ba miền,” “nước mắt quê hương,” “thịt bò tùng xẻo,” “ngọc dương (dái dê) tiềm thuốc bắc,” “cá sấu hoa cà,” “cá kèo nướng mọi,” “sò huyết rang me,” “gà quay lu ketchup, “dựng bò nấu bia,” “pín xắt lát…”

Rượu bia làm gan, dạ dầy, tim mạch, lục phủ ngũ tạng “banh ta lông” hết trơn hết trọi. Rượu làm thần kinh rối lọan, tâm thần như đang treo ngược trên cành cây - Không biết đầu mình đang đội trời hay đầu đang đội đất ??? Đâu có ai buồn để ý đến hậu quả tai hại của việc uống rượu uống bia. Mới 30 tuổi đầu, giữa ban ngày ban mặt đã lăn đùng ra chết vì bệnh gan; hoặc đột ngột “tạ từ trong đêm” vì tim ngừng đập (“cardiac arrest”, hay là bị “thượng mã phong?” Chỉ có trời biết). Rồi gia đình bợm nhậu quá cố đưa tin là bợm chết vì xui xẻo, trúng gió? (Gió “Lào?”) Chưa tới 50 tuổi đã đột qụy tai biến mạch máu não, tàn phế vĩnh viễn. Đất nước còn trông mong vào sức lực và trí óc ở đâu ra để sản xuất, để thăng tiến giầu mạnh… Men rượu còn làm thay đổi cả cá tính con người, làm mất đi sự đàng hòang sự kính trọng. Rượu vào lời ra làm bạn nhậu gây gỗ thanh toán chém giết lẫn nhau; Rượu gây xâm phạm tình dục, bạo hành gia đình (say rượu đánh vợ đánh con dã man, vợ chém chồng …) tan hoang cửa nhà sau khi say xỉn; Chạy xe gây tai nạn lưu thông chết người cũng vì say xỉn… Những tệ nạn này các thơ phú văn chương lãng mạn; những tập phim bộ, phim kiếm hiệp bi tráng đâu có nhắc đến… Thật vậy. Thơ nhạc lãng mạn đã tạo nên những hình ảnh nam nhi với thần thái hào sảng uống rượu như nước lã; khác hẳn đời sống thực tế của con người phàm tục say rượu, ói mửa, phờ phạc, mệt mỏi, mất hồn…

Đầu tiên hãy thử nghe ông thi sĩ Vương Hàn (xì thẩu này chỉ là quan văn), trói gà không chặt, còn mơ ngủ ngay trong ban ngày trời sáng, của thời thịnh Đường (thế kỷ thứ 8 sau Công Nguyên) ca ngợi sự bi tráng của chiến sĩ uống rượu trước khi ra trận như sau:

Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi.

(Lương Châu Từ - Vương Hàn)

Dịch nghĩa nôm là:

Rượu bồ đào cùng với chén lưu ly
Muốn uống nhưng tỳ bà đã giục lên ngựa
Say khướt nằm ở sa trường, bác chớ cười
Xưa nay chinh chiến mấy ai trở về.


Dịch ra thành thơ

Bồ đào rượu ngát chén lưu ly
Toan nhắp tỳ bà đã giục đi
Say khướt sa trường anh chớ mỉa
Xưa nay chinh chiến mấy ai về.

(Trần Quang Trân)

Rượu bồ-đào, chén dạ quang
Muốn say, đàn đã rền vang giục rồi
Sa trường say ngủ ai cười
Từ xưa chinh chiến mấy người về đâu.

(Trần Trọng San)

“Xưa nay chinh chiến mấy ai về.” Nhận xét này của ông Hàn gàn bát sách luận gần đúng không cần phải bàn thêm. Bởi vì đi đánh trận khác xa với đi “chợ” hay đi dạo trong công viên. Trận mạc là chỗ tên bay đạn lạc chiến sĩ mất mạng dễ như không. Nhưng cái ông Hàn trói gà không chặt này không những đã xúi bậy mà còn có máu khôi hài: “Sa trường say ngủ ai cười.” Ậy! Uống rượu say khướt rồi vào chui phòng đắp chăn ngủ với vợ còn có thể chết (xin đọc lại tai nạn “âm thầm tạ từ trong đêm!” ở bên trên). Chứ ra trận mà say rượu thì chết là chắc chắn chăm phần chăm. Quờ quạng nửa tỉnh nửa mê đi ngơ ngơ giữa lằn tên mũi đạn thì không chết vì đạn của quân địch cũng chết vì đạn lạc của quân ta.

Bây giờ nghe ông danh sĩ thứ hai – nhà thơ Nguyễn Bá Trác – cũng lại ca nỗi niềm bi tráng (không hiểu sao “uống rượu” trong thơ phú cứ phải đi cặp với 2 chữ này nhỉ?) của chí sĩ lưu vong thất thời qua bài “Hồ Trường:”

Hồ trường, hồ trường
Ta biết rót về đâu?
Nào ai tỉnh…
Nào ai say…
Chí ta biết, lòng ta hay…
Nam nhi sự nghiệp ư hồ thỉ
Hà tất cùng sầu đối cỏ cây…
(Hồ Trường – Nguyễn Bá Trác dịch thoát từ một ca khúc của Trung Quốc – tên là “Nam Phương Ca Khúc” - vào khỏang năm 1912???)

Bài này đã làm những người yêu thơ rượu rất thích thú cái phong vị khảng khái mà bi tráng của kẻ sĩ vì vận nước phải dọc ngang trời đất (nói nôm na là đang sống đời lưu vong đất khách quê người) cho đến khi đã già lụ khụ, tóc bạc răng long (hay đầu hói, bụng bự, răng giả) hết rồi mà vẫn bất đắc chí; mượn chai rượu (cognac) để than thở, giải buồn (?) với người đồng hưong (cũng đồng hòan cảnh thất chí…) Riêng cá nhân tôi cũng là dân tị nạn vượt biển, vì không biết uống rượu và cũng không phải thi sĩ cho nên đọc và thấy bài thơ bất hủ này có vài vấn đề:

- Thứ nhất,“Ta biết rót về đâu?” Rượu thì phải rót vào chén hay vào ly hay cùng lắm là rót thẳng vào miệng chứ không thể rót lung tung được; coi chừng rót lầm vào mũi thì có đường sặc sụa chết bỏ!

- Thứ hai,“Nào ai tỉnh, nào ai say?” Đã tính chuyện đi cứu nước thì luôn luôn phải tỉnh táo như con sáo sậu. Chứ cứ say túy lúy thì ngay bản thân mình còn chưa cứu được nói gì đến chuyện trọng đại cứu nước cứu dân…

Bây giờ quay trở lại vấn đề say xỉn ở trong nước Việt Nam…. Người giầu, đại gia nhậu say xỉn xong ngày mai ngủ suốt ngày thì cũng xong việc rồi; chứ anh thợ bần cố nông say xỉn mà ngày mai phải đi làm công việc lao động sản xuất bằng tay chân ở nhà máy; phải sử dụng máy tiện, máy cắt, máy cưa thì cơ hội được nghỉ hưu non (tất nhiên là không lãnh lương) rất cao!

Không hiểu lãnh đạo nhà nước có để tâm hay không chứ cái quang cảnh đời sống của dân càng khó khăn, dân càng nhậu mút mùa lệ thủy không phải là dấu hiệu tốt đánh dấu sự thăng tiến đâu! Dân phải uống rượu nhiều để giải sầu, để cố quên đi cái thực tế quá cay đắng mà họ không thay đổi được! Liên sô trước đây cũng có tỉ lệ dân đen nghiện rượu (vodka) cao nhất thế giới vì cùng một lý do; không phải vì họ sống đầy đủ, ấm no…! Tôi không hề thấy nhà nước, giới chức thẩm qưyền nào có một biện pháp hay phương án nào để cảnh giác, để làm giảm thiểu hay giáo dục tệ nạn ăn nhậu tới bến mút chỉ này? Mặt khác, các báo in, điện báo (“internet”), phim ảnh còn thi đua nhau giới thiệu, quảng cáo các món ăn chơi và nhậu nhẹt, rủ rê bợm nhậu gia nhập các hội nhóm (clubs) nhậu… Trên toàn quốc, các nhà máy bia, nhà nấu cất rượu “chính qui” cũng như “chui” mọc lên như nấm. “Cầu” nhiều thì tất nhiên phải có “cung.” Sản xuất không đủ thì cứ việc nhập cảng thêm rượu bia từ nước ngoài vào cho đủ. Uống rượu không đủ nồng độ (vì thường có nhiều rượu giả!) thì cứ cho thêm thuốc rầy, cồn sống… vào để uống cho ói ra mật xanh, cho “tím cả chiều hoang biền biệt…” mới đã.

Tóm lại, tương lai và hy vọng thì mù mịt, nhưng rượu lúc nào cũng có sẵn và đầy đủ: Rượu đế ngâm sâm nhung, tắc kè, bìm bịp, rắn hổ, rắn ngũ xà, rắn cửu xà, bao tử nhím, hải mã… tha hồ uống cho bổ dương, bổ thận, bổ… nhào!

Tái bút:“Đừng bao giờ mong uống rượu để nhận chìm nỗi buồn; bởi vì buồn biết bơi” (People who drink to drown their sorrow should be told that sorrow knows how to swim – Ann Landers)

Trần Văn Giang
09/04/2009
Ảnh của Ngan Trieu
4000 
  • Ngan Trieu
    3. Bản in trong báo Thế Kỷ 21 (Hoa Kỳ), trang 8, số 115 ra tháng 11 năm 1998.
    Trượng phu không hay xé gan bẻ cật phù cương thường,
    Hà tất tiêu dao bốn bể, lưu lạc tha phương.
    Trời Nam nghìn dặm thẳm, non nước một màu sương
    Chí chưa thành, danh chưa đạt, trai trẻ bao lăm mà đầu bạc, trăm năm thân thế bóng tà dương.
    Vỗ gươm mà hát, nghiêng bầu mà hỏi, trời đất mang mang ai người tri kỷ, lại đây cùng ta cạn một hồ trường.
    Hồ trường! Hồ trường! Ta biết rót về đâu?
    Rót về Đông phương, nước biển Đông chảy xiết sinh cuồng loạn.
    Rót về Tây phương, mưa phương Tây từng trận chứa chan.
    Rót về Bắc phương, ngọn Bắc phong vi vút đá chạy cát giương.
    Rót về Nam phương, trời Nam mù mịt có người quá chén như điên như cuồng.
    Nào ai tỉnh, nào ai say, chí ta ta biết, lòng ta ta hay
    Nam nhi sự nghiệp ư hồ thỉ, hà tất cùng sầu đối cỏ cây.
    4. Bản in trong quyển Chơi Chữ của tác giả Lãng Nhân-Phùng Tất Đắc, trang 75 (Sài Gòn-1970)
    Trượng phu đã không hay xé gan bẻ cột phù cương thường,
    Sao lại tiêu dao bốn bể, luân lạc tha hương?
    Trời Nam nghìn dặm thẳm; mây nước một màu sương.
    Học không thành, công chẳng lập, Trai trẻ bao lăm mà đầu bạc; trăm năm thân thế bóng tà dương.
    Vỗ gươm mà hát, nghiêng bầu mà hỏi: Trời đất mang mang, ai là tri kỷ? Lại đây cùng ta cạn một hồ trường.
    Hồ trường! Hồ trường! Ta biết rót về đâu?
    Rót về Đông phương, nước bể Đông chảy xiết sinh cuồng-lạn.
    Rót về Tây phương, mưa Tây-sơn từng trận chứa chan;
    Rót về Bắc phương, ngọn Bắc phong vi vút, đá chạy cát dương.
    Rót về Nam phương, trời Nam mù mịt, có người quá chén như điên như cuồng.
    Nào ai tỉnh, nào ai say?
    Chí ta ta biết lòng ta ta hay.
    Nào ai tỉnh , nào ai say?
    Chí ta ta biết lòng ta ta hay.
    Nam nhi sự nghiệp ở hồ thỉ, hà tất cùng sầu đối cỏ cây!
    .................................................................................................
    ...Bài thơ (hay bài ca) Hồ Trường rất hay nhưng có người lại cho PTV chớ nên học thuộc, ngâm nga vì cái tư tưởng yếm thế và sợ nó... vận vào số phận của mình.
    (Trích bài viết của Phạm Thắng Vũ)
    • Ngan Trieu
      * Xin cảm ơn tác giả đã cảnh báo cho mọi người về một tê nạn xã hội rất đau lòng, một phong cách giao tế xã hội phổ biến nhưng kết cục là mất tất cả: mất nước, mất nhà, mất cả bản thân.
      Tôi rất ngưỡng mộ và đồng tình với một tác giả đã có lòng lành (thiện tâm) qua bài viết nầy. "Văn dĩ tải đạo" (Văn chương phải chuyên chở đạo lý) chính là cái tâm của người chấp bút. Cũng như một Nhà thơ mù Nam bộ mà tư tưởng nhân nghĩa tỏa sáng thiên cổ đã lên tiếng:
      " Chở bao nhiêu đạo, thuyền không khẳm,
      Đâm mấy thằng gian, bút chẳng tà!"
      Do đó, tôi xin tặng tác giả 2 câu thơ số 3251-3252 ,Kiều: Nguyễn Du, để thể hiện sự nể phục của mình:
      "Thiện căn ở tại lòng ta,
      Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài!
      * Theo chỗ tôi được biết, Bài thơ Hồ Trường của Nguyễn Bá Trác rất nổi tiếng. Ô.Phạm Thắng Vũ đã sưu tập được 4 bản( bài viết Aug 29,2010). xin được ghi lại để độc giả tham khảo:
      Bài thơ Hồ trường của Nguyễn Bá Trác
      Cũng có người lại nói nhân trong một chiếu rượu, khi nghe một người bạn Tàu (Nguyên Quân) hát nghêu ngao mấy câu thơ Cổ Phong mà Nguyễn Bá Trác đã cầm bút lên dịch và thành bài Hồ Trường.
      Hồ Trường được đăng đầu tiên trên tờ Nam Phong Tạp Chí rồi sau đó đã được nhiều thế hệ thanh niên sao đi chép lại nên đã không tránh khỏi chuyện dị biệt. Dưới đây là 4 bản Hồ Trường mà tác giả bài viết này (PTV) sao lục để quý bạn đọc so sánh.
      1. Bản in trong trang 327, quyển VIỆT NAM VĂN HỌC SỬ GIẢN ƯỚC TÂN BIÊN (NXB Anh Phương, Sài Gòn năm 1965) của giáo sư Phạm Thế Ngũ.
      Trượng phu không hay xé gan bẻ cột phù cương thường,
      Hà tất tiêu dao bốn bể luân lạc tha phương.
      Trời Nam ngàn dặm thẳm, mây nước một màu sương.
      Học chẳng thành công chẳng lập, trai trẻ bao lâu mà đầu bạc, trăm năm thân thế bóng tà dương.
      Vỗ tay mà hát, nghiêng bầu mà hỏi, trời đất mang mang, ai là tri kỷ, lại đây cùng ta cạn một hồ trường.
      Hồ trường, hồ trường, ta biết rót về đâu?
      Rót về Đông phương, nước bể Đông chảy xiết sinh cuồng lạn.
      Rót về Tây phương, mưa Tây rơi từng trận chứa chạn
      Rót về Bắc phương, ngọn Bắc phong vi vút đá chạy cát dương.
      Rót về Nam phương, trời Nam mù mịt, có người quá chén như điên như cuồng.
      Nào ai tỉnh nào ai say.
      Chí ta ta biết lòng ta ta hay.
      Nào ai tỉnh, nào ai say.
      Chí ta ta biết lòng ta ta hay.
      Nam nhi sự nghiệp ở hồ thì, hà tất cùng sầu đối cỏ cây.
      2. Bản đăng trên báo Tuổi Trẻ Chủ Nhật (trong nước) số... năm 1998.
      Trượng phu không hay xé gan bẻ cật phù cương thường.
      Hà tất tiêu dao bốn bể, xuân lạc tha hương.
      Trời Nam nghìn dặm thẳm, mây nước một màu sương.
      Học không thành, công chẳng lập, trai trẻ bao lâu mà đầu bạc, trăm năm thân thế bóng tà dương.
      Vỗ tay mà hát, nghiêng đầu mà hỏi, trời đất mang mang ai là tri kỷ, lại đây cùng ta cạn một hồ trường.
      Hồ trường! Hồ trường! Ta biết rót về đâu?
      Rót về Đông phương, nước biển Đông chảy xiết sinh cuồng loạn
      Rót về Tây phương, mưa Tây sơn từng trận chứa chan
      Rót về Bắc phương, ngọn Bắc phong vi vút đá chạy cát dương
      Rót về Nam phương, trời Nam mù mịt có người quá chén như điên như cuồng
      Nào ai tỉnh, nào ai say, chí ta ta biết, lòng ta ai hay
      Nam nhi sự nghiệp ở hồ thỉ, hà tất cùng sầu đối cỏ cây?

    Không có nhận xét nào:

    Đăng nhận xét