Thứ Tư, 28 tháng 10, 2020

Những người phụ nữ Việt Nam nổi tiếng hiện nay/ Song Thao

 Ngay 28-10-2020


KÍNH CHUYỂN XEM BÀI VIẾT SƯU TẦM CỦA NV SONG THAO (CANADA)

Song Thao

              ANH  THƯ                     

“Trai khôn tìm vợ chợ đông / Gái khôn tìm chồng giữa chốn ba quân”.. Câu dạy khôn này ngày nay đã lỗi thời. Từ lâu rồi. Chốn “ba quân” ngày xưa, trước 1975, tại Việt Nam đã có bóng hồng. Đó là các nữ quân nhân. Nhưng hoạt động của những anh thư của đảng kaki ngày đó chỉ giới hạn trong phạm vi xã hội và y tế. Không ai nỡ mang hoa ra chiến trường. 

Ngày nay, chị em phụ nữ Việt chúng ta ở bên Mỹ cũng mang đồng phục nhưng oai phong hơn nhiều. Họ cũng xông pha ra chỗ mũi tên hòn đạn ngang ngửa với các nam nhi. Nam nhi người Việt cũng như nam nhi người Mỹ, to như những ông hộ pháp. Cạnh tranh trong một tình thế lép vế như vậy nhưng chị em phụ nữ oai hùng chẳng kém chi ai. Chẳng phải là ngày phụ nữ, chẳng lễ mẹ chi, tự nhiên tôi muốn nhắc tới những bậc anh thư Việt Nam lỗi lạc này bởi vì tôi ngợp với những con cháu bà Trưng bà Triệu nơi xứ người.

Tướng gốc Việt trong quân đội Mỹ có năm vị. Dẫn đầu là Thiếu Tướng Lương Xuân Việt của Lục quân. Vệ Binh Quốc Gia có Chuẩn Tướng Lập Thể Flora. Thủy Quân Lục Chiến có Chuẩn Tướng William Seely. Không quân có Chuẩn Tướng John Edwards. Hải Quân có Phó Đề Đốc Nguyễn Từ Huấn. Vậy là Hải Lục Không Quân kèm thêm Thủy Quân Lục Chiến và Vệ Binh Quốc Gia, chúng ta đều có tướng. Chúng ta tự hào về những nam tướng gốc Việt trong mọi binh chủng này nhưng chúng ta tự hào hơn nếu biết là chúng ta còn có hai vị nữ tướng gốc Việt trong quân đội Mỹ. Đó là Chuẩn Tướng Danielle Ngô và Phó Đề Đốc Vũ Thế Thùy Anh.

 

Chuẩn Tướng Danielle Ngô.

 

Chuẩn Tướng Danielle Ngô được gắn sao trên ve áo vào tháng 6 năm 2019. Như vậy là bà đi từ cấp bậc thấp nhất lên tới tướng trong 29 năm quân ngũ. Danielle Ngô gia nhập Lục quân Hoa Kỳ năm 1990, phục vụ trong ngành Công Binh. Bà theo học khóa sĩ quan và được gắn lon Thiếu Úy vào năm 1994. Bà có mặt trong hàng ngũ công binh Nhảy Dù và công binh chiến đấu trên các chiến trường Iraq và Afghanistan. Chỉ trong tám năm, bà đã lên tới Trung Tá, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 52 Công Binh. Năm 2012, bà đã chỉ huy vụ dập tắt đám cháy rừng rộng lớn Waldo Canyon. Năm sau, bà lại hoàn thành vụ dập tắt đám cháy rừng lớn hơn Black Forest Fire ở Colorado. Thắng ông thần lửa, bà cũng thắng ông thần nước trong vụ mưa lũ làm sạt lở căn cứ tối mật của Không Quân xây ngầm trong núi Cheyenne Mountain cũng ở Colorado. Khi đó là tháng 9 năm 2013. Tháng 8 năm 2014, bà được vinh thăng Đại Tá. Năm 2017, bà Danielle Ngô đảm nhận chức Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn Công Binh 130, hoạt động trong khu vực Thái Bình Dương. Về học vấn, bà có bằng Cử Nhân Tài Chánh, Đại học

 Massachusetts, hai văn bằng Cao học tại trường Command and General Staff College và Đại học Georgetown.

 

Phó Đề Đốc Vũ Thế Thùy Anh.

Viên nữ tướng gốc Việt thứ hai trong quân đội Mỹ là Vũ Thế Thùy Anh. Bà cũng được gắn sao trên ve áo cùng thời gian với bà Danielle Ngô, tháng 6 năm 2019, nhưng vì phục vụ trong Hải quân nên hàm chính danh của bà là Rear Admiral, Phó Đề Đốc, tương đương với Chuẩn Tướng trong các binh chủng khác. Chào đời vào năm Mậu Thân 1968, di tản qua Mỹ vào năm 1975, Thùy Anh sau đó theo học ngành Dược tại Đại học Maryland. Ra trường năm 1994, bà làm việc tại Đại học John Hopkins. Là con gái đầu của Hải Quân Đại Úy Vũ Thế Hiệp, bà quyết định theo nghiệp hải hồ của cha. Bà gia nhập U.S.. Public Health Service, viết tắt là PHS, và trở thành sĩ quan quân dược của Hải quân. Nhiều người sẽ thắc mắc về tổ chức PHS này. Ra đời vào năm 1798, PHS được quân đội hóa vào năm 1889 với một chuỗi các bệnh viện Hải quân đặt ở các hải cảng quan trọng như Boston, Charleston, New Orleans…để kiểm soát dịch bệnh khỏi thâm nhập vào Mỹ. Thành viên của PHS là các bác sĩ, nha sĩ, dược sĩ, y tá. Họ mang cấp bậc quân đội và hoạt động cho cộng đồng khi có thiên tai, bão lụt, bệnh tật hay dịch bệnh. PHS có nhiệm vụ cách ly và kiểm soát các bệnh truyền nhiễm trước khi nó bùng nổ và phát tán ra khắp nơi trong cả nước. Chính PHS đã đóng một vai trò quan trọng trong trận đại dịch cúm Tây Ban Nha năm 1918 và cộng tác với cơ quan phòng chống dịch Centers for Disease Control mà chúng ta biết tới với tên viết tắt là CDC trong trận chiến chống Covid-19 hiện nay.

Năm 2015, sau 12 năm phục vụ trong PHS, bà Vũ Thế Thùy Anh đã mang lon Đại Tá và, như chúng ta biết, bà đã được vinh thăng Phó Đề Đốc (Rear Admiral).

Như vậy là hiện tại chúng ta có 5 nam tướng và 2 nữ tướng gốc Việt trong quân đội Mỹ. Nhưng hình như chúng ta chỉ nghe nói nhiều tới các nam tướng. Kể cũng lạ! Ngày nay chốn “ba quân” đâu có phải chỉ toàn là các đấng nam nhi. Được đeo sao trên ve áo trong quân ngũ Mỹ không phải chuyện dễ, nam tướng hay nữ tướng cũng đều phải theo một trình tự khe khắt như nhau. Ở đây, chúng ta chỉ nói tới Chuẩn Tướng, cấp bậc của Danielle Ngô và Vũ Thế Thùy Anh. Thử nhìn vào con số trước. Số chuẩn tướng trong quân đội Mỹ hiện có như sau: Hải Quân: 110 Phó Đề Đốc; Coast Guard (Tuần Duyên): 19 Phó Đề Đốc; Thủy Quân Lục Chiến: 40 Chuẩn Tướng; Lục Quân: 150 Chuẩn Tướng; Không Quân: 139 Chuẩn Tướng. Tổng cộng là 439 Phó Đề Đốc và Chuẩn Tướng.

Các điều kiện để được đề nghị phong cấp Chuẩn Tướng khá khó khăn. Trước hết phải mang cấp Đại Tá được 3 năm. Sau đó phải là Chỉ Huy Trưởng xuất sắc. Tiến trình sau đó tuần tự như sau: được Hội Đồng Thăng Cấp chọn lọc, Tư Lệnh quân chủng đề nghị lên Bộ Trưởng Quốc Phòng, Thượng Viện duyệt xét, Tổng Thống quyết định bổ nhiệm. Thường chỉ có 3% các Đại Tá được đề nghị trở thành Chuẩn Tướng! 

Một nữ lưu gốc Việt được đề nghị lên tướng nhưng đã về hưu không kịp chờ ngày sao mọc trên ve áo. Đó là Đại Tá Bác sĩ Mylene Trần Huỳnh, tên Việt là Trần Thị Phương Đài. Bà là con của Bác sĩ quân y Dù Trần Đoàn và Dược sĩ Phan Thị Nhơn. Năm 1975, khi Sài Gòn Thất thủ, Mylene mới chỉ được 9 tuổi. Gia đình bị kẹt lại, Bác sĩ Trần Đoàn bị tống vào trại tù cải tạo. Cũng may ông chỉ ở tù một năm. Họ vượt biển thành công và tới được Manila, Phi Luật Tân. Tới Mỹ, bà đã tốt nghiệp bác sĩ tại Đại Học Virginia và phục vụ trong Không Quân Hoa Kỳ suốt 18 năm. Bà giữ chức Giám Đốc của Air Force Medical Service, viết tắt là AFMS, thuộc Chương Trình Chuyên Viên Y Tế Quốc Tế (International Health Specialist), trực thuộc văn phòng “Office of the Air Force Surgeon General”. Cựu Trung Tướng Lữ Lan đã ca ngợi Bác sĩ Mylene Trần Huỳnh trong buổi lễ bà được vinh thăng Đại Tá: “Thành tựu của Bác sĩ Mylene Trần không những là một niềm vinh dự của riêng cô mà còn là của cả cộng đồng người Mỹ gốc Việt. Chỉ 35 năm trước đây khi những người tỵ nạn mới đặt chân lên miền đất hứa này, mấy ai nghĩ rằng cô bé “thuyền nhân” nhỏ nhắn đã đến đây từ 30 năm trước lại có ngày trở thành một y sĩ đáng kính trong ngành Quân y của quân lực Hoa Kỳ… Điều đáng ca ngợi nơi Mylene hơn nữa, trong khi đang sống một cuộc sống tự do và hạnh phúc nơi xứ sở Hoa Kỳ, cô vẫn không quên nguồn cội mình và người dân Việt Nam còn đang sống khốn khổ dưới chế độ cộng sản. Cô cùng toán y tế của mình đã nhiều lần trở về Việt Nam để săn sóc y tế cho người nghèo và những kẻ thiếu may mắn”.

 

Bà Dương Nguyệt Ánh.

 Không ở trong quân ngũ, không lon, không sao nhưng được mệnh danh là “Bomb Lady”, bà Dương Nguyệt Ánh đúng là một anh thư kiệt xuất. Bà sanh năm 1960, rời Việt Nam tỵ nạn tại Mỹ bằng trực thăng năm 1975. Sau thời gian ở trại tạm cư tại Pennsylvania, gia đình bà đã tới định cư tại vùng thủ đô Hoa Thịnh Đốn. Bà tốt nghiệp các văn bằng kỹ sư hóa học, khoa học điện toán và hành chánh. Bà làm việc tại Trung Tâm Nghiên Cứu của Hải Quân tại Maryland. Là Giám Đốc Khoa Học và Kỹ Thuật (Director of Science and Technology) của chi nhánh Indian Head Division thuộc Trung Tâm Vũ Khí Hải Quân Hoa Kỳ (Naval Surface Warfare Center), bà đã đoạt được nhiều giải thưởng. Thành quả nổi đình nổi đám nhất của bà là người đã chế ra bom áp nhiệt (thermobaric bomb). Bom áp nhiệt là gì? Trong bài phỏng vấn bà Dương Nguyệt Ánh của báo Washington Post, số ra ngày Chủ Nhật 30/4/2006, có đoạn viết như sau: “Chuyên gia về chất nổ Dương Nguyệt Ánh chỉ huy một nhóm khoa học gia, chỉ trong 67 ngày đã chế tạo ra trái bom áp nhiệt đầu tiên của Hoa Kỳ, loại bom mà khi nổ sẽ tạo ra một vầng mây hóa chất và một làn sóng chấn động có khả năng hủy diệt tất cả những gì trong tầm sát hại của nó. Được gọi là “bom diệt hầm ngầm”, đây là loại vũ khí dùng để hủy diệt các hang động, địa đạo được dùng làm căn cứ chỉ huy của đối phương trong cuộc chiến A Phú Hãn sau vụ khủng bố 11/9”. Ngoài trái bom “chấm dứt chiến tranh A Phú Hãn” này, bà còn cùng một toán chuyên viên chế tạo ra 18 vũ khí khác trong chỉ có 12 năm. Coi bà như… tướng chắc cũng không có chi quá đáng!

Bà Dương Nguyệt Ánh được cộng đồng người Việt trên khắp thế giới biết nhiều rồi. Nếu cần nói thêm chúng ta phải nhắc tới chuyện bà đã đi nhiều thành phố trên nhiều quốc gia để nói lên tiếng nói của hậu duệ Việt Nam Cộng Hòa. Ngày 29/4/2017 bà đã tới thành phố Montreal nơi tôi ngụ cư và tôi đã tham dự buổi nói chuyện của bà. Là một nhà khoa học nhưng bà không nói chi về việc làm của bà mà chỉ nói tới tấm lòng của bà với tổ quốc Việt Nam. Bà tri ân những người lính đã chiến đấu can trường trong cuộc chiến đầy chính nghĩa trước 1975 và muốn con cháu chúng ta biết rõ những hy sinh của những người đi trước để tự hào về dòng giống của chúng ta.

Cái tôi tâm phục nơi bà là dáng vẻ lịch thiệp và cách nói tình cảm nhưng không thiếu sôi động của bà đã tỏ ra là một con dân một đất nước có truyền thống văn hóa lâu đời. Nếu tìm hiểu về dòng dõi của bà, chúng ta sẽ không ngạc nhiên về phong thái của bà. Bà là dòng dõi của cụ nghè Dương Khuê, một khuôn mặt văn học rất nổi tiếng, thơ văn được giảng dạy trong nhà trường Việt Nam. Dòng họ này có cách dùng chữ lót trong họ tên theo từng thế hệ, tương tự như đế hệ của hoàng tộc nhà Nguyễn. Chữ lót cho tên phái nam cho các thế hệ tiếp nối là: Tự, Thiệu, Hồng, Nghiệp. Bên nữ là : Hạ, Nguyệt, Vân, Thúy. Như vậy bà Dương Nguyệt Ánh đồng vai vế với nhạc sĩ Dương Thiệu Tước và Giáo sư Dương Thiệu Tống.

Bà Giao Phan

Bà Dương Nguyệt Ánh là anh thư chế bom, bà Giao Phan là anh thư đóng hàng không mẫu hạm loại xịn nhất của Hải quân Mỹ. Đó là hàng không mẫu hạm lớp Ford, lớp tàu hiện đại nhất của thế giới. Chức vụ của bà là Tổng Giám Đốc của Program Executive Office-Aircraft Carrier, Cơ Quan Điều Hành Chương Trình Hàng Không Mẫu Hạm của Hải quân Hoa Kỳ. Bà cho biết trong cuộc phỏng vấn của đài VOA: “Cơ quan của tôi đảm nhiệm tất cả các việc liên quan đến hàng không mẫu hạm, từ A tới Z. Từ lập kế hoạch, thiết kế, xây dựng, bảo trì, sửa chữa. Tóm lại, từ đầu tới cuối. Người lãnh đạo cơ quan của tôi là một vị tướng hai sao của Hải quân là Đề Đốc Brian Antonio. Tôi là phó của vị này, đứng vị trí thứ hai, là cấp chỉ huy dân sự cao cấp nhất trong tổ chức. Chúng tôi có ngân sách 40 tỷ đô la để điều hành”. Nói cho vui, đứng ngay sau ông tướng hai sao, nếu chúng ta có gắn cho bà một sao cũng là chuyện không có chi quá đáng! Bà đã trông coi việc đóng ba hàng không mẫu hạm lớp Ford tối tân nhất trên thế giới. Đó là các tàu USS Enterprise, USS Kennedy và USS Gerald R. Ford. USS Gerald R. Ford có 5 đặc điểm ăn trùm thiên hạ: giúp máy bay cất cánh bằng điện từ (electro-magnetic aircraft launch system): hệ thống phát năng lượng tối tân nhất; thiết kế mới cho kích thước và vị trí của phi đạo; hệ thống tác chiến hợp nhất (integrated warfare system) và hệ thống điều hòa không khí tối tân nhất.

 

Hàng không mẫu hạm USS Gerald R. Ford

 

Hai bà không sao mà như có sao Dương Nguyệt Ánh và Giao Phan làm người Việt chúng ta tự hào. Nhưng chưa đeo sao cũng có thể là loại xịn. Xịn trên chiến trường đàng hoàng. Đó là hai nữ phi công gốc Việt xuất sắc trong quân đội Mỹ: Trung Tá Michelle Vũ và Trung Tá Elizabeth Phạm.

 

Trung Tá Michelle Vũ.

Trung Tá Michelle Vũ là nữ phi công duy nhất trong phi đội Kỵ Binh 6-17. Hoa lạc giữa rừng gươm! Tốt nghiệp Đại học năm 22 tuổi, Michelle nhập ngũ, học lái máy bay trực thăng trong hai năm, tham gia chiến trường Iraq. Phi đội Kỵ Binh 6-17 gồm 35 thành viên, chỉ có bà là nữ.

Người nữ quân nhân gan dạ, quả cảm và nhiều máu phiêu lưu nhất không ai khác ngoài Trung tá Thủy Quân Lục Chiến Elizabeth Phạm. Nhỏ con nhưng chơi đồ chơi thứ xịn nhất: chiến đấu cơ siêu thanh F-18. Tốt nghiệp Đại học UCSD, University of California San Diego, bà gia nhập Không quân và được học lái máy bay tại trường T34 của Hải quân Hoa Kỳ tại Florida. Tiếp tục học cao hơn tại trường T45 Goshawk thuộc Trung Tâm Huấn Luyện Meridian tại tiểu bang Mississippi, bà tốt nghiệp thủ khoa “Top Hook”. Bà là phi công đầu tiên được chọn để lái chiến đấu cơ siêu thanh F-18. Tại chiến trường Iraq, bà phục vụ tại không đoàn nổi tiếng“Bats”, không đoàn Dơi, có nhiệm vụ yểm trợ cực cận cho các lực lượng bộ binh. Những phi công của không đoàn này là những phi công ưu tú nhất được tuyển chọn. Là nữ phi công duy nhất của không đoàn, bà có khả năng yểm trợ hỏa lực chính xác nơi những mục tiêu chỉ cách bộ binh 180 thước! Muốn yểm trợ chính xác như vậy, bà phải bay thấp và đã nhiều lần trúng đạn tại chiến trường Iraq. Bạn đồng ngũ đặt cho bà biệt danh “Miracle woman”. Hiện nay bà đang phục vụ tại vùng Thái Bình Dương, đặt căn cứ tại Nhật Bản.

Sanh ngày 13/1/1978 tại Mỹ, bà là con của Bác sĩ Phạm văn Minh, một quân y sĩ của quân đội Việt Nam Cộng Hòa trước đây, hiện vẫn còn hành nghề tại Seattle. Sanh tại Mỹ nhưng bà nói rành tiếng Việt. Trong buổi lễ nhận lon Trung Tá vào ngày 13/4/2019 tại Viện Bảo Tàng Hàng Không Mẫu Hạm USS Midway, bà nói trên diễn đàn bằng tiếng Việt: “Bố là trụ cột, là người lãnh đạo của gia đình và dạy cho con sự quan trọng của nghĩa vụ, của sự hy sinh. Bố lúc nào cũng là người hùng trong lòng con. Mẹ là tấm gương của sự mạnh mẽ, kiên trì và lúc nào cũng khuyên con nên tranh đấu cho những gì mình nghĩ là đúng. Mẹ cũng hay khuyên con nên cố gắng hết mình, để trở thành một người đứng đầu và con luôn làm theo lời mẹ. Con xin cám ơn bố mẹ”.

Tôi tin trong thời gian sắp tới, chúng ta sẽ có thêm ít nhất một nữ tướng. Bà Trưng ngày xưa cưỡi voi mà nên tướng, con cháu bà ngày nay cưỡi chiến đấu cơ siêu thanh F-18 trị giá 66 triệu đô thì lên tướng cấp kỳ là cái chắc!

.


--

Thứ Ba, 13 tháng 10, 2020

Thời gian còn lại/ Phương Lan/ Cảnh Tú chia sẻ

 


Thời Gian Còn Lại

PHƯƠNG LAN

                

                                            Ảnh ninh họa, Google

Dọn bàn xong xuôi, ông Phong mới đẩy cái xe lăn của vợ đến bên bàn ăn, dịu dàng:

– Ăn đi em! ráng ăn một chút cho khoẻ.Bà Phong chớp mắt, nét mặt thoáng vẻ bối rối, đã lâu lắm, từ ngày các con khôn lớn, cái tiếng “em”thân mật đó ít khi được dùng tới, chỉ trừ những lúc riêng tư có hai vợ chồng. Mỗi khi được ông gọi bằng em, bà đều cảm động, nhớ đến cái thuở mới yêu nhau, thời gian đi nhanh thật, vậy mà thoáng chốc đã gần năm mươi năm… Bà ngước cặp mắt ướt rượt lên nhìn chồng, môi thoáng một nụ cười cảm động trên khuôn mặt già nua đầy những nếp nhăn:

– Hôm nay mình cho tôi ăn món gì vậy?
– Miến gà. Tôi mới học được ở trong sách nấu ăn. Ông nói và ân cần cầm đôi đũa đặt vào tay bà, bàn tay còn cử động được, bà ăn thử xem có ngon không? À nhưng.. tôi đãng trí quá, lại quên rau răm rồi.
– Hề gì, không có rau răm thì đã làm sao? Bà gắp một đũa, đưa lên miệng, suýt xoa kêu nóng, ông nấu thì phải ngon rồi, ngon tình, ngon nghĩa…
Bà ngưng lại, hỉ mũi, nghẹn lời không thể nói tiếp, mấy sợi miến mắc trong cổ làm bà ho lên mấy tiếng. Ông hốt hoảng:
– Bà có sao không?
Thấy tay bà run rẩy, ông thương cảm:
– Để tôi xúc cho bà ăn nhé?
– Thôi khỏi! tôi ăn lấy được mà.
Bà lắc đầu, không muốn làm phiền chồng thêm, ông đã cực khổ vì bà nhiều quá rồi. Mấy hôm nay bà không được khoẻ, ăn gì cũng thấy đắng miệng, nhai những sợi miến, bà có cảm tưởng như đang nhai những cọng rơm, nhưng bà vẫn cố nuốt, bà phải ăn cho ông vừa lòng, ông đã bỏ bao nhiêu tình thương vào đó.
Tội cho ông, xưa kia đường đường là một thiếu tá tiểu đoàn trưởng, có trong tay cả mấy trăm binh lính dưới quyền, sẵn sàng nghe ông ra lệnh. Ông hô lên một tiếng là mọi người đều răm rắp tuân lời, ông lo toàn những việc quốc gia đại sự, đâu thèm để ý đến những việc nhỏ nhặt chỉ dành cho đàn bà, như nồi cơm, trách cá? Tội cho ông, khi xưa vẫy vùng bốn bể, nào ngờ khi về già, thế giới của ông chỉ thu hẹp trong bốn bức tường của một căn nhà nhỏ. Còn đâu cái oai phong của một vị chỉ huy trong quân đội? ông bây giờ nhẫn nhục làm những công việc đi chợ, nấu ăn, quét nhà, rửa chén… Ông làm việc đó đã gần tám năm rồi, từ khi bà bị tai biến mạch máu não, liệt nửa người, phải ngồi xe lăn. Ông thương vợ, không muốn cho bà phải sống những ngày tàn ở trong viện dưỡng lão, nên ngoài nhiệm vụ nấu ăn, ông còn kiêm luôn nhiệm vụ y tá, ngày đêm hầu hạ, phục dịch bà từ việc ăn uống, thuốc men, đến vấn đề vệ sinh, tắm rửa…
Bà lão bệnh tật nên khó tính, mướn người giúp việc không vừa ý, bà luôn miệng gắt gỏng, càu nhàu, nên chẳng ai muốn làm lâu. Người của Sở xã hội đưa tới để giúp bà tắm rửa, vệ sinh hàng ngày, bà chê không khéo léo, lại hay mạnh tay làm bà đau… Bà chỉ vừa lòng có một người mà bà cho rằng có đủ lương tâm, lòng kiên nhẫn, lại khéo léo, dịu dàng bà trông cậy được: đó là ông Phong tội nghiệp, chồng của bà.
Ông Phong lãnh trách nhiệm, chấp nhận sự hy sinh, không phải vì không còn con đường nào khác, mà vì lòng yêu thương vợ chân thành. Vợ chồng chia ngọt sẻ bùi, đi bên nhau đã gần năm mươi năm, lẽ nào ông bỏ bà độc hành trên chặng đường cuối cùng? Ôi! ông Trời cay nghiệt đã lấy đi hết mọi thứ đã ban phát cho vợ chồng ông. Ôi! thời gian tàn nhẫn đã để lại dấu vết khi đi qua… Nhìn thân hình dúm dó, tàn tạ của bà bây giờ, thật khó mà tuởng tượng có một thời bà đã từng là hoa khôi của một trường nữ trung học danh tiếng. Cô nữ sinh yêu kiều, tóc thề bỏ xoã ngang vai, thẹn thùng dấu mặt sau vành nón bài thơ, đã làm ông mê mẩn, đắm đuối dạo nào…
Cái thời hoa mộng ấy đã qua rồi, nhưng vẫn lưu lại trong ký ức ông những kỷ niệm khó quên, những dấu vết không bao giờ phai mờ. Mỗi khi nhớ lại quá khứ, cả một thời dĩ vãng xa xưa lại hiện về làm ông cảm động…
Em, tiểu thơ khuê các, còn tôi, chàng trai phong sương, rày đây, mai đó, thế mà hai cuộc đời lại gắn bó với nhau, có phải là do duyên số trời đã định sẵn cho đôi ta? Làm vợ tôi, em chịu biết bao nhiêu thiệt thòi, tôi bất tài, không lo cho em được cuộc sống xa hoa, em chẳng so bì hơn thiệt, bằng lòng với hạnh phúc nhỏ nhoi.
Em, cô vợ bé bỏng, độc tài, và ghen khiếp! em cấm tôi không được uống rượu, hút thuốc, em sầm mặt mỗi khi tôi vô tình nhìn hơi lâu một cô gái đẹp. Mỗi khi đi xa về, tôi lại bị em gạn hỏi, lục lọi, ngửi áo, tìm dấu vết của những bông hoa dại bên đường… Em ghen khiếp! nhưng tất cả chỉ vì em yêu tôi, em mang trong bụng mầm sống của tôi, em chịu những cơn đau xé ruột để sanh cho tôi những đứa con xinh đẹp, giống bố…
Em vất vả nhọc nhằn chăm sóc con cái, giữ gìn nhà cửa sạch sẽ, ngăn nắp, cho chồng con những bữa ăn ngon, những phút giây thoải mái mỗi khi trở về… Còn tôi, tôi đã cho em được gì? Ngoài những năm tháng dài vắng nhà triền miên, để em phải sống mỏi mòn trong cô đơn? Mong em hiểu cho, chỉ vì nặng nợ núi sông, tôi đã đặt nợ nước lên trên tình nhà. Tôi đã nén lòng không tỏ ra mềm yếu những lúc phải rứt áo xa em, bởi tôi biết mai đây đời lửa đạn, người chiến sĩ ra đi không chắc sẽ có ngày về
Tội nghiệp em, người thiếu phụ Việt Nam thời loạn ly, có mấy khi được ở gần chồng? Thời xuân sắc, bao nhiêu người vây quanh em, nhưng sao em lại chọn tôi? để suốt năm suốt tháng phải sống trong lo sợ, phập phồng? Những cái Tết tôi đi hành quân không về, em đón xuân một mình, những buổi chiều cuối tuần, nhìn vợ chồng người ta dìu nhau đi dạo phố, em có buồn không? Em, con chiên ngoan đạo, chẳng tối nào quên đọc kinh, chẳng chủ nhật nào em không đến giáo đường. Em cầu nguyện cho tôi tránh được hòn tên mũi đạn, có bao giờ em cầu nguyện cho chính thân em? Chúa nghe lời cầu xin của em, nên tôi đã trở về bình yên.
Nhưng hết chiến tranh rồi, những năm tháng dài đăng đẳng tôi đi tù cải tạo, em lại làm chinh phụ cô đơn… Tội nghiệp em, chẳng quản rừng thiêng nước độc, đường sá xa xôi, thân cò lặn lội đi thăm chồng. Em eo sèo bán buôn chợ trời, một mình vừa làm mẹ, vừa làm cha, nuôi con nên người, em chặt dạ bền lòng, đợi chồng về. Tóc em thôi hết mượt mà, da em đen sạm vì gió sương… Nhưng em ơi! chính vì thế mà đôi ta lại nặng thêm nghĩa ân tình.
Chỉ sau khi qua cơn hoạn nạn, khi đầu đã hai thứ tóc, vợ chồng mình mới được sống bên nhau, mới hoàn toàn là của nhau.
Nhưng chúng ta hạnh phúc chẳng được bao lâu, trời lại giáng hoạ, em bây giờ tàn phế, ngồi trên xe lăn, mọi việc đều trông cậy vào tôi, tôi cho gì, em được hưởng nấy, chẳng bao giờ kêu ca. Ngày xưa, em đã đảm đương công việc nội trợ một cách tài tình, cho chồng con những bữa cơm ngon lành, nhà cửa luôn luôn sạch sẽ, ngăn nắp. Em vén khéo, coi sóc mọi việc trong, ngoài chu đáo, tôi chẳng phải bận tâm và chẳng bao giờ nghĩ đến công khó của em. Chỉ tới bây giờ, khi hứng trách nhiệm, tôi mới thấy mình vụng về, lúng túng làm sao. Tài nấu bếp của tôi dở nhất thế giới, mà chẳng bao giờ nghe em chê, em quả là một người vợ đại lượng nhất. Dạo này em hơi gầy đi, tại em bệnh tật hay tại tôi vụng nuôi? Bác sĩ nói em phải siêng tập đi mới có thể phục hồi. Trớ trêu làm sao, khi về già, người ta trở lại cái thuở sơ sinh, đầu tóc lơ thơ, răng không có đủ, nên chỉ uống sữa và ăn được đồ mềm, có người còn phải đeo tã… Người già có khác chi trẻ thơ, đâu có thể tự lo cho mình được. Nhìn em tập đi lần từng bước một trong cái walker, tôi đau lòng, em bây giờ thê thảm quá rồi. Tôi cũng chẳng hơn gì, cũng già yếu hom hem, nhăn nheo xấu xí… Chúng ta cũng giống như những cây đũa mục, cũng may còn đủ cả đôi. Em bây giờ sự sống chỉ trông cậy vào tôi, em chỉ còn mình tôi, tôi nguyện đem hết sức già ra để nâng đỡ, che chở cho em. Em hãy dựa vào tôi mà bước đi cho vững, em nhé! Chúng ta hãy dìu nhau đi nốt quãng đường còn lại…

* * *

Nhìn thân hình xiêu vẹo của ông lão, cố gồng mình nâng đỡ mỗi khi mình té, bà Phong thở dài:
– Thật tội cho ông, vất vả vì tôi nhiều quá, chắc ông nợ tôi từ kiếp trước.
Ông cười hiền lành:
 Chúng ta cùng nợ nhau, cái nợ ân tình… Mình nhớ chứ? ngày đám cưới, chúng ta đã thề nguyện trước bàn thờ Chúa là sẽ đi bên nhau trọn đời, thương yêu nhau, săn sóc cho nhau những lúc khoẻ mạnh, cũng như những khi hoạn nạn, ốm đau. Những lời thề đó, tôi vẫn giữ mãi, mình biết vì sao không? Ông cười hề hề, cúi xuống đặt một cái hôn lên trán bà, giọng khôi hài, là vì tôi yêu cái cục nợ đời của tôi…
Bà khẽ nhếch môi cười, nhưng cặp mắt lại rất buồn:
– Lúc đó, chẳng bao giờ tôi ngờ là sẽ có ngày hôm nay. Trời bắt tội tôi bệnh tật làm khổ cho mình quá, tôi cứ áy náy trong lòng, nhiều lúc chỉ muốn chết sớm cho mình đỡ cực.
Ông giật mình, cau mày trách:
– Sao mình lại nói thế? Bao nhiêu năm mình săn sóc tôi, bây giờ mình đau yếu phải để tôi chăm lo lại cho mình chứ? Tôi có khó nhọc cách mấy cũng chưa thể bù lại được công lao cả đời mình đã vất vả vì tôi. Vợ chồng ăn ở với nhau ngần ấy năm, chẳng lẽ mình không hiểu tôi? chẳng lẽ mình lại không biết rằng mình đã chiếm một địa vị quan trọng thế nào trong cuộc đời của tôi ư? Mình là một nửa của tôi, mình bỏ đi, làm sao tôi sống?
Ông ngưng lại, nhìn dáng bà tiều tụy, lòng ông như chùng xuống. Chậm rãi ngồi xuống bên vợ, ông quàng tay ôm ngang lưng bà, thủ thỉ:
– Mình biết không? Dạo này tôi hay có những giấc mơ lạ lắm. Tôi mơ mình và tôi đi chơi rồi lạc nhau, tự dưng bỗng thấy mình đứng cách tôi một khoảng rất xa, giữa một đám người lạ, họ xô đẩy làm mình mỗi lúc một xa tôi hơn, chỉ trong nháy mắt đã xa tít tắp… Tôi cuống quít chạy theo, gọi mình khan cả cổ nhưng mình không nghe thấy. Thoáng một cái mình đã mất hút trong đám đông, tôi hốt hoảng đi tìm, sợ hãi không thể tả. Giật mình thức giấc, thấy mình bên cạnh tôi mới yên tâm, và thở phào sung sướng vì đó chỉ là một cơn ác mộng. Tôi sợ cô đơn, càng về già, tôi càng cần mình hơn bao giờ hết. Tôi không dám nghĩ tới sau này khi một người đi trước, người còn lại sẽ ra sao? Bây giờ vẫn còn đủ đôi, chúng ta hãy tận hưởng những tháng ngày còn được ở bên nhau. Tôi yêu mình, mình phải sống cho tôi, chúng ta sống cho nhau…
Ông chưa dứt câu, mắt bà đã đầm đìa những lệ, bàn tay còn cử động được, tìm tay ông nắm chặt. Hai vợ chồng già im lặng ngồi bên nhau, không ai nói, nhưng tình yêu đã trao nhau tràn trong ánh mắt. Nhìn những giòng lệ chưa khô trên đôi má nhăn nheo của vợ, ông thương cảm, cô thiếu nữ yêu kiều năm xưa giờ đây đã thành một người đàn bà luống tuổi, nhưng bản chất vẫn yếu đuối, nhút nhát, luôn luôn cần đến sự che chở của chồng. Vô tình bà đã khơi dậy trong ông cái nam tính của một người đàn ông, điều đó làm ông sung sướng, tự hào, và càng yêu thương bà nhiều hơn, bây giờ cũng vậy. Mắt lấp lánh niềm vui, ông âu yếm vỗ nhẹ lên vai bà như dỗ dành:
– Tôi chỉ muốn mình hiểu lòng tôi, vậy mà vụng về quá, tôi lại làm mình khóc. Thôi, để tôi lau nước mắt cho, mình đừng khóc nữa, ai lại khóc trong một ngày rất đẹp như hôm nay? Xem kìa! mặt trời đang lên, đẹp và ấm áp lắm, để tôi đưa mình ra sân sau sưởi nắng nhé.
Ông nói và mở cửa, đẩy xe của bà ra vườn, đến gần cái băng đá, ông dừng lại, chậm chạp ngồi xuống, đưa mắt nhìn lên bầu trời trắng đục. Bây giờ hãy còn sớm, không khí còn mang cái mát mẻ, tinh khôi của buổi sớm mai. Nơi chân trời phía đông, một vầng hồng vừa nhô lên, chiếu những tia sáng làm hồng những đám mây, mặt trời xuất hiện như một quầng lửa đỏ, bình minh thật đẹp, thật rực rỡ. Trên bãi cỏ xanh mịn, còn đọng lại những giọt sương đêm lóng lánh, có hai con bướm vàng đang bay lượn nhởn nhơ. Một làn gió nhẹ thổi tới làm lá rơi lả tả, lá rơi nhiều quá, rụng ngập cả lối đi… Trời đã cuối thu rồi, mùa đông sắp tới, những chiếc lá cuối cùng còn bám ở trên cây cũng đã khô héo, những mầm non đã sẵn sàng để nhú ra, và những lá già sẽ được thay thế bằng lá non khi mùa xuân tới… Bốn mùa sẽ tuần tự đến rồi đi như một quy luật của tạo hoá.
Nhìn mái tóc bạc phơ của bà như sáng lên trong nắng ánh cuối thu, ông cảm động, nói với bà mà như đang nói với chính mình:
– Chúng ta cũng như những chiếc lá mùa thu kia thôi, lá khô rồi rụng, nhưng cây đâu có chết? bởi vì sẽ có lớp lá non thay thế. Con người cũng vậy, khi chết đi, chỉ có thể xác là trở thành cát bụi, nhưng con cháu mang trong cơ thể dòng máu của cha mẹ, sẽ tiếp nối sự sống đời đời. Cho nên về một phương diện nào đó, cái chết không phải là một sự hủy diệt hoàn toàn…
Ông chợt ngưng, vì một cơn gió mạnh vừa thổi tới, suýt làm bay cái khăn len của bà. Ông vội vã chụp được, quàng lại vào cổ cho vợ, săn sóc hỏi:
– Hôm nay gió hơi nhiều, mình có lạnh không?
Bà lắc đầu, nhìn hai cây mai, cây đào đã trụi hết lá và những nụ non mơn mởn đã đơm chi chít đầy cành, bà sung sướng nghĩ thầm mùa đông rồi sẽ qua đi và một mùa xuân nữa lại sắp tới, hai ông bà lấy nhau cũng vào mùa xuân… Bà chớp mắt, trên khuôn mặt nhăn nheo thoáng nở một nụ cười, bà nói với chồng bằng giọng êm ái, tình tứ như thuở còn đôi mươi:
– Ở bên mình tôi chưa bao giờ thấy lạnh, bởi vì tình yêu của mình đã sưởi ấm tim tôi.
Mỉm cười cảm động, ông cúi xuống run run hôn lên mái tóc bạc phơ của bà, thì thầm:
– Tết này là vừa đúng 50 năm mình về với tôi. Năm mươi năm chia ngọt sẻ bùi, mình luôn luôn sát cánh bên tôi cùng vượt qua bao nhiêu chông gai, sóng gió, cám ơn mình vẫn đi bên tôi cho đến cuối đời. Chúng ta đã xong bổn phận làm cha mẹ, con cái thành đạt cả rồi, bây giờ là lúc thảnh thơi, vợ chồng mình sống cho nhau. Thời gian còn lại chẳng biết bao lâu, mỗi ngày trời cho đều đáng quí. Chúng ta hãy cám ơn trời, vì trên chặng đường cuối cùng, chúng ta vẫn còn đủ cả đôi, đó chẳng phải là một điều may mắn hay sao?
Bà gật đầu, cầm tay ông ấp lên má:
– Cái may mắn nhất của đời tôi là được làm vợ mình. Mình là cây đại thụ cho tôi dựa, chỉ ở bên mình tôi mới cảm thấy yên ổn và sung sướng. Đừng bao giờ xa tôi, mình nhé.
Ông ôm xiết vợ vào lòng:
– Tôi sẽ đi bên mình cho tới hết con đường. Chỉ có cái chết mới chia lìa được chúng ta mà thôi.
Bà tựa đầu vào ngực chồng với dáng vẻ an tâm, tin tưởng và rất hạnh phúc.
Ông nhìn vợ, trên khuôn mặt in đầy những dấu vết của thời gian, đôi mắt già vẫn long lanh sáng và ông thấy hình ông hiện ra trong đó, trên đôi đồng tử của bà. Tim ông bỗng đập nhanh, thương quá người bạn đồng hành đã cùng ông trôi nổi khắp bốn phương trời, và sau cùng dạt đến miền đất xa lạ này, người vợ tào khang suốt đời tận tụy, hy sinh cho chồng con, người bạn đời đã chia ngọt sẻ bùi với ông, luôn luôn trung thành với ông cho dù có những lúc lên voi, xuống chó. Suốt đời bà chỉ biết có ông, trong mắt bà chỉ có hình bóng của ông… Tự dưng ông thấy xúc động và thương vợ hơn bao giờ hết, lặng lẽ ông tìm tay bà siết chặt.

Có tiếng chim ríu rít trên cành, hai vợ chồng cùng ngắm đôi chim nhỏ đang rỉa lông cho nhau với một vẻ thích thú.
Bà Phong thấy lòng lâng lâng sung sướng, cuộc đời của bà từ khi về làm bạn với ông, về vật chất tuy không dư dả, nhưng hạnh phúc luôn luôn tràn đầy. Nghĩ đến người chồng thủy chung, độ lượng đã hết dạ thương yêu, che chở cho bà trong suốt cuộc đời, tim bà bỗng đập nhanh xao xuyến, bà ngước nhìn ông với cặp mắt chan chứa ân tình.
Ông Phong đang nghĩ năm nay nhà mình sẽ ăn một cái Tết thật lớn để kỷ niệm 50 năm chung sống của ông bà, con cháu sẽ về đông đủ cả. Ông nhẩm tính xem nên mua mấy chậu quất, hay cúc vàng và thược dược để trưng trong nhà, chợt nghe tiếng hít mũi của vợ, ông quay lại nhìn và kêu lên:
– Mình sao thế? lại khóc nữa à?
Bà cúi mặt, hơi có vẻ xấu hổ:
– Tôi khóc vì hạnh phúc quá, mình ạ.
Ông thở ra một hơi dài, mỉm cười:
– Vậy mà làm tôi hết hồn. Mình vẫn mít ướt như xưa, không thay đổi…
– Tôi lúc nào mà chẳng vậy?
Ông cười khà khà, vỗ nhẹ lên vai bà âu yếm:
– Cái món võ khí ấy của mình lợi hại lắm đó nghe, lần nào mình khóc, tôi cũng thấy mềm lòng và lại phải dỗ. Thôi được rồi, mình ráng đứng dậy đi, tôi chỉ cho xem cái này đẹp lắm.
Ông nói và quàng tay qua lưng vợ, giúp bà đứng lên, ông dìu bà đi vài bước tới một chỗ thoáng, không bị những tàng cây che khuất.
– Mình nhìn kìa! mặt trời đang từ từ lên sau rặng núi phía xa và chim chóc ríu rít bay lượn từng đàn trên nền trời bình minh vẩn mây hồng đẹp quá. Ước gì thời gian đừng trôi, để giây phút hạnh phúc tuyệt vời này sẽ còn mãi.
Bà ngả đầu vào vai ông, mỉm cười:
– Những lúc ở bên nhau như thế này, tôi sung sướng lắm. Ngày nào vợ chồng mình còn đủ đôi, tôi thấy đời vẫn đẹp, mình ạ.
Ông Phong ghì sát vợ vào ngực mình, cả hai lắng nghe tiếng tim đập của nhau, thấy lòng ấm áp vô cùng. Trời cuối thu lành lạnh, nhưng mùa thu vẫn đẹp lắm.

PHƯƠNG LAN

12 Ngôi Chùa Đẹp ở Huế/ Cảnh Tú chia sẻ

 



12 Ngôi Chùa Đẹp ở Huế.



Huế không chỉ nổi tiếng với những danh lam thắng cảnh lung linh huyền ảo. Đây còn là cái nôi của những ngôi chùa cổ kính, mỗi ngôi chùa lại chứa đựng một câu chuyện đầy tính văn hóa – lịch sử. Hãy cùng điểm danh 12 Ngôi Chùa Đẹp ở Huế mà bạn nhất định phải ghé khi đến Huế nhé!



1. Chùa Huyền Không Sơn Thượng:

Chùa Huyền Không Sơn Thượng tọa lạc tại lưng chừng núi ở thôn Chầm, xã Hương Hồ, huyện Hương Trà, TP Huế. Ngôi chùa nằm giữa khu rừng thông, không khí trong lành, quanh năm đều mát mẻ, chim hót líu lo.

ngôi chùa đẹp ở Huế

Chùa có khuôn viên lung linh huyền ảo. Với khu rừng thông xanh mướt bao quanh. Cắt ngang là con suối nhỏ nở đầy bông súng. Xung quanh chùa có nhiều cây phong lan, cây sứ, và những cây cổ thụ hàng trăm năm tuổi.

ngôi chùa đẹp ở Huế

ngôi chùa đẹp ở Huế

2. Thiền Viện Trúc Lâm Bạch Mã:

ngôi chùa đẹp ở Huế

Thiền viện Trúc Lâm Bạch Mã là một trong những Ngôi chùa đẹp ở Huế tọa lạc ở xã Thủy Xuân, huyện Phú Lộc. Cách trung tâm thành phố khoảng 30km về phía Nam. Là thiền viện đầu tiên của miền Trung, nằm trên đỉnh Bạch Mã. Quanh năm khí hậu mát mẻ, có mây phủ trắng, lung linh huyền ảo y hệt như chốn Bồng lai Tiên cảnh.

ngôi chùa đẹp ở Huế

3. Chùa Từ Đàm – Ngôi chùa đẹp ở Huế:

Chùa Từ Đàm tọa lạc tại số 1 đường Sư Liễu Quán, thuộc địa phận phường Trường An, TP Huế. Cách trung tâm Thành phố Huế 2km về phía Nam. Xung quanh  có nhà thờ cụ Phan Bội Châu,  chùa Thiên Minh và chùa Linh Quang.

ngôi chùa đẹp ở Huế

Tuy không phải là ngôi chùa cổ nhất xứ Huế, nhưng Chùa Từ Đàm là một ngôi chùa có văn hóa lịch sử lâu đời. Là một ngôi chùa quan trọng trong sự phát triển của Phật giáo Việt Nam từ xưa đến nay. Hiện nay chùa Từ Đàm là trụ sở của Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Thừa Thiên – Huế.

ngôi chùa đẹp ở Huế

4.. Chùa Thiên Mụ:

Chùa Thiên Mụ hay còn gọi là Chùa Linh Mụ. Là ngôi chùa cổ nổi tiếng nhất xứ Huế. Tọa lạc trên con đồi Hà Khê, tả ngạn con sông Hương. Chùa Thiên Mụ cách trung tâm thành phố Huế 5km về phía Tây.

ngôi chùa đẹp ở Huế

Đây là một trong những ngôi chùa siêu đẹp ở Huế cổ nhất Việt Nam. Ngôi chùa có kiến trúc độc đáo, cổ kính cùng những câu chuyện tâm linh huyền bí đã khiến ngôi chùa trở thành ngôi chùa biểu tượng của xứ sở sương mù. Mời bạn cùng ngắm nhìn những hình ảnh của ngôi chùa đặc biệt này nhé!

ngôi chùa đẹp ở Huế

5.. Chùa Báo Quốc :

Nằm ở đường Báo Quốc, phường Phường Đúc, TP Huế. Chùa Báo Quốc là một trong những ngôi chùa danh tiếng của cố đô Huế từ bao đời nay.

ngôi chùa đẹp ở Huế

Hơn cả một nơi thờ tự, chùa Báo Quốc còn là một Trung tâm tu học lớn của xứ Huế. Từ những năm 1930, trong phong trào chấn hưng và phát triển Phật giáo, chùa Báo Quốc đã có rất nhiều đóng góp to lớn trong việc đào tạo tăng tài cho Phật giáo.

ngôi chùa đẹp ở Huế

6. Chùa Từ Hiếu – Ngôi chùa đẹp ở Huế:

Đến Huế, bạn đừng quên ghé chùa Từ Hiếu – ngôi cổ tự với nét văn hóa vô cùng độc đáo. Ít ai biết rằng: Đây chính là duy nhất mà các quan Thái giám dưới triều đại nhà Nguyễn an nghỉ.

ngôi chùa đẹp ở Huế

Với câu chuyện cảm động về lòng hiếu đạo của vị Tổ Sư Nhất Đinh – người sáng lập ra chùa Từ Hiếu với người mẹ của người. Chùa Từ Hiếu đã trở thành ngôi chùa biểu tượng cho tấm lòng hiếu thảo. Đây cũng chính là nơi Thiền sư nổi tiếng Thích Nhất Hạnh trụ trì và khai sinh ra tục lễ “bông hồng cài áo” cho người Việt ta. Ngày nay, cứ mỗi dịp Vu Lan, các Phật tử sẽ đến chùa Từ Hiếu để làm lễ và cài lên áo đóa hoa hồng để thể hiện tấm lòng hiếu thảo của mình với cha mẹ.

ngôi chùa đẹp ở Huế

7. Chùa Thiền Lâm – Ngôi chùa đẹp ở Huế:

Chùa Thiền Lâm hay còn có tên thân thuộc hơn là “Chùa Phật đứng – Phật nằm”. Chùa được Sư Hộ Nhẫn xây dựng năm 1960. Chùa Thiền Lâm có kiến trúc khá độc đáo, không lẩn với bất kỳ ngôi chùa nào ở cố đô Huế. Ngôi chùa gồm nhiều công trình kiến trúc đặc sắc như tượng Phật, tháp mộ, tháp Phật, nhà tăng chúng…

ngôi chùa đẹp ở Huế

ngôi chùa đẹp ở Huế

8. Chùa Thiên Minh:

Chùa Thiên Minh cũng là một trong những Ngôi chùa đẹp ở Huế mà bạn nhất định phải ghé thăm một lần. Chùa được xây dựng vào khoảng năm 1905, là nơi hội tụ thường niên của giới Học giả thiền môn.

ngôi chùa đẹp ở Huế

ngôi chùa đẹp ở Huế

9. Chùa Thánh Duyên (Chùa Túy Vân):

Chùa Thánh Duyên được xây dựng từ rất lâu đời, vào khoảng nửa sau thế kỷ XVII dưới thời Chúa Nguyễn Phúc Tần. Ngôi chùa tọa lạc trên đỉnh núi Túy Vân, nên còn có tên gọi khác là Chùa Túy Vân.

ngôi chùa đẹp ở Huế

Kiến trúc chùa Thánh Duyên được xây dựng theo phong cách nhà Nguyễn đặc trưng. Với bố cục đặc biệt Chùa – Các – Tháp. Ngôi chùa gồm có: Chùa ba gian hai chái, có la thành. Phía sau là Đại Từ Các. Đỉnh núi là Tháp Điều Ngự.. Sau tháp có một ngôi đình nhỏ, trước đình có bình phong long mã, xung quanh có la thành.

ngôi chùa đẹp ở Huế

10. Chùa Giác Lương:

  • Địa chỉ: Làng Hiền Lương, xã Phong Hiền, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế

Chùa Giác Lương tọa lạc ở làng Hiền Lương. Một ngôi làng thuộc xã Phong Hiền, huyện Phong Điền. Cách trung tâm thành phố Huế khoảng 21km. Đây là ngôi chùa tiêu biểu cho kiến trúc các ngôi chùa khu vực Bắc Trung Bộ vào cuối thời nhà Lê, đầu thời nhà Nguyễn. Mời bạn ngắm nhìn kiến trúc của ngôi chùa này nhé!

ngôi chùa đẹp ở Huế

11. Chùa Diệu Viên:

Chùa Diệu Viên được xây dựng năm 1924 do Sư bà Thích Nữ Hướng Đạo khai sơn. Đây là ngôi chùa dành cho Sư nữ đầu tiên tại Huế. Bắt đầu từ năm 1958, chùa mở cửa sản xuất nhan, bánh in, lập bệnh xá khám bệnh và cấp thuốc miễn phí cho đồng bào nghèo trong khu vực.

ngôi chùa đẹp ở Huế

Năm 1962, chùa lập cơ sở may mặc để tạo công ăn việc làm cho các thiếu nữ thất nghiệp ở địa phương. Bên cạnh đó, chùa còn có các hoạt động từ thiện như Viện dưỡng lão, trường Mẫu giáo hay phòng châm cứu, đã giúp ích rất nhiều cho người dân.

12. Chùa Từ Lâm – Ngôi chùa đẹp ở Huế

Chùa Từ Lâm tọa lạc ở xã Thủy Xuân, thành phố Huế. Ngôi chùa được khai sơn vào thời Chúa Nguyễn Phúc Tần (1649 – 1687). Đây cũng là một trong những ngôi chùa đẹp ở Huế mà bạn nhất định phải ghé thăm một lần. Mời bạn cùng Huehomestay.net ngắm nhìn những bức ảnh của chùa Từ Lâm nhé!

ngôi chùa đẹp ở Huế
ngôi chùa đẹp ở Huế
ngôi chùa đẹp ở Huế

Trên đây là danh sách 12 Ngôi chùa đẹp ở Huế mà bạn không thể bỏ qua khi đến với thành phố Huế xinh đẹp. Nếu được hãy đi cả 12 ngôi chùa nhé, chắc chắn bạn sẽ có những trải nghiệm thú vị. Chúc bạn có một chuyến đi thật vui!

                                         Hết.