Thứ Ba, 8 tháng 12, 2020

Hoài niệm Tây Ninh: QUAN ĐIỂM VỀ KINH DOANH của MATSUSHITA Kônosuke

Hoài niệm Tây Ninh: QUAN ĐIỂM VỀ KINH DOANH của MATSUSHITA Kônosuke:      QUAN ĐIỂM VỀ KINH DOANH của MATSUSHITA Kônosuke, người được người Nhật xem là thánh kinh doanh,  trong quyển “CÁCH NHÌN VÀ XEM XÉT SỰ V...

Thứ Năm, 3 tháng 12, 2020

Trở Về Miền Quá Khứ/ Tường Việt/ Cảnh Tú chia sẻ

 Tường Việt: Trở Về Miền Quá Khứ


 LTS. DĐTK hân hạnh giới thiệu bài viết đầu tay của tác giả Tường Việt,
> > tức Nguyễn Tường Việt, con trai trưởng của nhà văn Nhất Linh. Ông viết
> > bài này để đóng góp vào cuốn sách “Tự Lực Văn Đoàn và các cây bút hậu
> > duệ”, được ra mắt tại Nam California vào 15 tháng 9, 2019.

                                           
Chuyến bay của hãng hàng không Nhật Bản đáp xuống phi trường Tân Sơn
> > Nhất vào lúc nửa đêm. Mục đích chuyến trở về lần này của chúng tôi
> > (năm 2018) là muốn cháu Maya biết về quê nội của nó. Sau chuyến bay
> > dài mệt mỏi tôi ngủ một giấc ngon lành. Sáng hôm sau, trong lúc gia
> > đình Tường Anh, cậu con trai của tôi lấy taxi đi tham quan Sài Gòn,
> > tôi một mình tản bộ xuống phố tìm quán cà-phê. Mới sáng sớm mà xe cộ
> > đã chạy ngược xuôi, mọi người đi lại hối hả. Cả thành phố bừng bừng
> > như chạy đua với thời gian. Đàn bà thì khẩu trang che kín mặt mũi chỉ
> > chừa đôi mắt. Thật khó mà tìm được một cô gái đẹp! Thoáng một giây tôi
> > ngỡ ngàng và ngậm ngùi: còn đâu nữa một Sài Gòn ngày xưa, còn đâu nữa
> > “nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát, bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông”?
> >
> > Ngày hôm sau chúng tôi bay ra Đà Nẵng, thuê xe đi Hội An thăm Dinh
> > phái 1 và Từ Đường phái 2 của dòng họ Nguyễn Tường, sau đó viếng nghĩa
> > trang riêng của gia tộc. Đứng trước hàng bia mộ, nơi yên nghỉ của
> > những người thân yêu, cảm giác này thật khó diễn tả! Cảm giác ấy vừa
> > mơ hồ lại vừa cụ thể như phảng phất đâu đây cái kì bí giữa hai cõi âm
> > dương.
> >
> > Sau hai ngày ở Đà Nẵng và Hội An chúng tôi ra Huế. Không khí ở đây có
> > phần mát mẻ và tĩnh lặng hơn. Tôi tiếc là chưa có dịp đi đò trên sông
> > Hương để nghe nhạc cung đình Huế. Đọc tác phẩm “Mưa trên cây sầu đông”
> > của Nhã Ca, tôi định bụng ra Huế lần này sẽ coi thử “cây sầu đông”
> > (còn gọi là “cây xoan”) xem nó ra thế nào, và tại sao người ta hay ví
> > con gái đẹp với khuôn mặt trái soan? Vậy mà Huế đã vào đông rồi mà cây
> > sầu đông tôi vẫn chưa có dịp nhìn thấy.
> >
> > Vì gia đình cháu Tường Anh chỉ có gần hai tuần lễ ở Việt Nam mà chương
> > trình kéo dài từ Nam ra Bắc nên chúng tôi đến nơi nào cũng chỉ “cưỡi
> > ngựa xem hoa” rồi lại vội vã lên đường đi nơi khác.
> >
> > Đến phi trường Nội Bài chúng tôi lấy taxi về khách sạn. Hà Nội bây giờ
> > cũng đông đúc y như Sài Gòn. Hai bên đường chung cư nhà cửa hàng quán
> > san sát. Giọng bắc của người Hà Nội bây giờ, nghe lạ tai lắm! Âm điệu
> > gần giống nhau, thiếu sự ngọt ngào, êm ái của người Hà Nội ngày xưa.
> > Đến khách sạn tôi gọi điện thoại nói chuyện với anh Nguyễn Tô, một
> > người bạn ngày xưa học cùng lớp trường Chu Văn An, anh Phạm Hoàng Đạo,
> > một người em họ, báo là tôi đã đến Hà Nội và hẹn gặp vì tôi có mang
> > một số quà từ Mỹ để biếu họ. Buổi trưa tôi mời tất cả đến ăn tại một
> > nhà hàng gần khu phố cổ. Cuộc họp mặt rất thoải mái vui vẻ. Tôi bàn
> > với Đạo chương trình của mình và nhờ Đạo thuê xe để ngày hôm sau đi
> > nghĩa trang Yên Kỳ (Sơn Tây, ngoại ô Hà Nội) thăm mộ những người thân
> > chôn cất tại đó: trước hết là mộ bà ngoại tôi, mộ chú thím Thạch Lam
> > rồi đến mộ đứa em út của tôi Nguyễn Tường Thái cùng một số những người
> > trong họ đã yên nghỉ tại đây. Nghĩa trang Yên Kỳ bây giờ khác xưa
> > nhiều lắm, có lối đi thoáng mát, có đường cho xe chạy, cây cối hoa cỏ
> > đủ màu sắc nên trông cũng bớt lạnh lẽo ảm đạm.
> >
> > Chuyến về Hà Nội lần này tôi còn có mục đích đến thăm thôn Lê Dương,
> > thăm lại căn nhà lánh nạn, thăm mộ anh Tý, người đã bất chấp nguy hiểm
> > không sợ liên lụy để mẹ tôi và tôi ẩn nấp trong căn nhà của anh. Ơn
> > cứu mạng đó làm sao mà quên được? Vào thời đó cuối năm 1946 bố tôi
> > Nguyễn Tường Tam, Bộ trưởng ngoại giao trong chính phủ Liên hiệp Kháng
> > chiến, đã bỏ sang Tàu. Trong nước Việt Minh lùng bắt thân nhân bố tôi.
> > Mẹ tôi, bác Nguyễn Tường Cẩm, cậu Phạm Hoàng Tín và tôi (lúc đó 15
> > tuổi) bị quân du kích Việt Minh bắt tại quê mẹ tôi Phượng Vũ. Chúng
> > giải bốn người đến giam trong một cái đồn ở phủ Thường Tín nói là để
> > điều tra. Đúng lúc đó thì máy bay Pháp xuất hiện thả bom. Lợi dụng cơ
> > hội lộn xộn này bốn chúng tôi chạy thoát ra khỏi đồn. Khi máy bay
> > ngưng thả bom, mẹ tôi nói với bác Cẩm và cậu Tín thừa cơ hội này trốn
> > đi. Nhưng cậu Tín trả lời: “Chị và cháu trốn đi còn tôi và anh Cẩm
> > phải trở lại đồn vì họ đã còng tay hai người với nhau có trốn cũng sẽ
> > bị bắt lại. Mẹ con tôi chạy thoát và sau đó tá túc tại nhà anh Tý, một
> > người làm công trung thành của mẹ tôi. Còn cậu Tín (bố cuả anh Đạo),
> > bác Cẩm (bố của Nguyễn Tường Tâm) sau đó bị Việt Minh thủ tiêu.
> >
> > Hai ngày sau khi thăm nghĩa trang Đạo hướng dẫn chúng tôi lên đường đi
> > thôn Lê Dương. Đến nơi chúng tôi phải thăm hỏi nhiều người mới tìm ra
> > được đúng địa điểm và may quá căn nhà của anh Tý vẫn còn nguyên chưa
> > bị phá hủy. Đứng trước căn nhà ấy tôi đã kể cảnh Việt Minh bố ráp và
> > nỗi sợ hãi khi chạy trốn, sợ bị bắt lại, nó kinh hoàng như thế nào. Nó
> > ám ảnh tôi cho đến tận bây giờ hơn 70 năm qua mà tôi vẫn nhớ từng chi
> > tiết như thể chuyện mới xẩy ra ngày hôm qua. Anh Tý yên nghỉ trong
> > nghĩa trang của thôn Lê Dương. Trước ngôi mộ tôi bùi ngùi thắp cho anh
> > một nén nhang. Nhớ lại những ngày ấy đã bao lần tôi tự hỏi nhưng không
> > có câu trả lời là tại sao mẹ tôi lại bình tĩnh và can đảm đến thế;
> > trong lúc chạy trốn mẹ tôi như đã nắm trước địa đồ, dắt tôi chạy qua
> > đê, băng qua đồng ruộng, bất chấp cái chết đang lơ lửng trên đầu. Tôi
> > cũng tự hỏi người ta đã nhân danh cái gì để gán cho chúng tôi hai chữ
> > “Việt gian” khiến biết bao người phải hy sinh, chết oan, bị tra tấn,
> > bị thủ tiêu, như trường hợp của bác Cẩm và cậu Tín, hai người chỉ có
> > mỗi cái “tội” duy nhất là anh ruột, là em vợ của bố tôi.
> >
> > Xe lăn bánh. Chúng tôi từ giã thôn Lê Dương. Tôi bâng khuâng nhìn cảnh
> > cũ mà người xưa không còn.
> >
> > Ngày sau đó gia đình Tường Anh kéo nhau đi Sapa và vịnh Hạ Long. Tôi
> > chọn ở lại Hà Nội. Sức đâu mà theo kịp tụi nó! Tôi nghĩ bụng mình mời
> > anh Tô hay gia đình anh Đạo đi ăn uống và tâm sự với nhau còn vui hơn
> > nhiều.
> >
> > Cái ngày tôi sang Pháp du học đã trôi vào dĩ vãng xa xăm. Hà Nội bây
> > giờ không còn dáng vẻ êm đềm thanh thản như khi tôi lìa xa nó năm
> > 1950. Và tôi cũng không còn là chàng trai trẻ đầy nhiệt huyết, ra đi
> > với chiếc va-li nhẹ tênh mà lòng thì trĩu nặng nhớ thương, nhớ quê
> > hương, nhớ gia đình. Tiếc rằng lúc đó chàng trai 19 tuổi chưa có một
> > “bóng hồng” nào để mang theo. Nhưng khi tàu nhổ neo rời vịnh Hạ Long
> > thì tôi lại thấy lòng nhẹ nhõm, cảm được cái mùi tự do rạng rỡ giữa
> > trời biển mênh mông. Tầu lênh đênh gần một tháng mới nhập cảng
> > Marseille. Trên tàu tôi cũng có quen với một cô gái tên Lan, nhưng có
> > lẽ vì chưa đủ duyên nên khi xuống tàu là đường ai nấy đi!
> >
> > Thoáng một cái mà đã gần hết một đời người! Bao năm qua mải mê với
> > cuộc sống, ít thì giờ suy nghĩ viển vông, nay đã về già mọi thứ ổn
> > định, mới thảnh thơi mà thả hồn về chốn cũ. Rời Hà Nội từ thời niên
> > thiếu tôi tưởng đã quên hết nhưng đi giữa lòng Hà Nội bước chân vẫn
> > dẫn tôi về những nơi xưa cũ: đây là cây đa ngày xưa ở Hồ Gươm, kia là
> > căn nhà cũ ở phố Hàng Bè, đó là khu thương xá Tràng Tiền với những
> > khung cửa kính lớn, rồi những ngõ nhỏ ấm cúng nối kết Hà Nội 36 phố
> > phường, rồi Hồ Tây, hồ Trúc Bạch và con đường Cổ Ngư, nơi ghi dấu bao
> > mối tình lãng mạn! Tình yêu luôn là thứ lãng đãng trong tâm tưởng
> > chàng trai mới lớn. Phải như hồi đó, tìm được một giai nhân, để có mối
> > tình mang theo sang Pháp, có lẽ trời sẽ bớt lạnh và tâm hồn ấm áp hơn
> > khi nhâm nhi những bức thư thăm hỏi: “Paris có gì lạ không anh?”. Tiếc
> > quá! Thời trai trẻ đã qua... Nhưng không sao, tâm hồn chưa già là được
> > rồi!
> >
> > Chúng tôi bay về lại Sài Gòn. Sợ kẹt xe nên thuê khách sạn ở gần phi
> > trường vì ngày hôm sau các cháu phải về Mỹ. Thấy chúng nó vui vẻ thích
> > thú, lại còn cám ơn rối rít, tôi biết là đã thành công khi tổ chức
> > chuyến đi này.
> >
> > Bọn trẻ đi rồi buổi trưa tôi thuê xe vào quận 5 Chợ Lớn, tìm khu chung
> > cư An Đông có cửa hàng Cẩm Lợi của mẹ tôi, có căn nhà mà gia đình đã
> > sống suốt trên 20 năm. Tôi nhìn lên căn gác, nó đã cũ lắm rồi, chung
> > quanh chợ vẫn ồn ào tấp nập đúng như em tôi Nguyễn Tường Thiết đã tả
> > trong tập truyện “Căn nhà An Đông của mẹ tôi”. Tôi đang tập trung nhớ
> > lại hình ảnh mẹ tôi, người đàn bà tần tảo lo toan hết mọi chuyện trong
> > gia đình để chồng yên tâm theo đuổi chí lớn, tôi bỗng giật mình. Có
> > tiếng người đàn bà hỏi lớn: “Ông muốn kiếm gì?”. Tự nhiên tôi buột
> > miệng: “Tôi kiếm quán cơm gà Siu Siu”. Bà ấy lắc đầu: “Dẹp lâu rồi!
> > Gần đây cũng có một tiệm ngon lắm!” Theo Thiết tả thì quán cơm gà Siu
> > Siu ở bên cạnh cửa hàng mẹ tôi rất ngon và nổi tiếng, các em tôi trong
> > bao nhiêu năm được ăn thoả thích, không phải trả tiền, vì trừ vào tiền
> > mẹ tôi cho chủ quán câu điện.
> >
> > Cuộc sống vẫn tiếp diễn... nhưng những người muôn năm cũ đã từng gắn
> > bó với căn nhà này như bố mẹ tôi, như chị Thư tôi, như các em tôi
> > Thạch, Thoa, thì hồn ở đâu bây giờ?
> >
> > Còn lại mấy ngày ở Việt Nam tôi định bụng lên Đà Lạt thì may quá anh
> > bạn đồng hành rủ tôi cùng đi. Xe đò Phương Trang có giưòng nằm. Tôi
> > ngủ thiếp đi. Lúc tỉnh dậy thì xe sắp qua đèo Bảo Lộc. Những cây thông
> > thấp thoáng hai bên đường. Cái khoảng khắc núi rừng chìm trong hoàng
> > hôn sao mà âm u vậy? Anh bạn tôi nói là chỉ khoảng 40 phút nữa là sẽ
> > đến Phinom, vùng đất cao nguyên, nơi cha tôi, nhà văn Nhất Linh, đã
> > định dừng chân, sống với mây ngàn gió núi, vào rừng tìm những giò lan
> > đẹp, tiếp tục trả cho hết cái nợ văn chương, cái nợ chữ nghĩa. Tôi
> > mường tượng căn nhà mang tên một loài lan quý Thanh Ngọc Đình qua bài
> > văn của Thiết, nó nằm giữa rừng thông bát ngát, bên bờ suối Đa Mê thơ
> > mộng cách quốc lộ 20 khoảng nửa cây số, do ông vẽ kiểu và nếu căn nhà
> > không sập đổ trong một cơn bão lớn thì biết đâu ông sẽ trở thành một
> > ẩn sĩ, cống hiến thêm nhiều tác phẩm cho đời? Trước khi đi tôi đọc lại
> > tập san Thế Kỷ 21 số 201và 202 bài Thiết viết vào mùa xuân năm 2006.
> > Đọc xong cái tên Phinom khiến tôi tò mò như bị cuốn hút vào vùng đất
> > hoang vu lặng lẽ nhưng lại rất sinh động này. Khung cảnh ở đây chắc
> > hẳn có gì đặc biệt lắm nhà văn Nhất Linh mới chọn để xây căn nhà mộng
> > ước?
> >
> > Vì vậy, ngay ngày hôm sau khi đến Đà Lạt tôi háo hức thuê xe đi ngược
> > lại quốc lộ 20 đến Phinom. Qua ngã ba Đơn Dương tôi bảo tài xế taxi đi
> > thêm hai cây số thì rẽ phải trên con đường dẫn đến suối Đa Mê. Nhưng
> > thực tế hoàn toàn trái với trí tưởng tượng của tôi, không giống những
> > gì Thiết tả trong hồi ký. Đã 60 năm qua rồi còn gì! Phinom chẳng còn
> > vẻ gì hoang vu nữa, lối cũ bị xoá mờ, khá nhiều nhà cửa san sát. Tôi
> > hỏi thăm đường vào suối Đa Mê chẳng ai biết rõ cả, người chỉ đường
> > này, kẻ chỉ đường kia, tôi không biết đi ngả nào, thôi thì cứ theo
> > trực giác mà đi tìm. Tôi hẹn tài xế thả tôi ở đây một giờ nữa quay lại
> > đón rồi tôi tiếp tục hỏi thăm, may ra có người biết miếng đất mà xưa
> > kia nhà văn Nhất Linh đã từng ở? Chẳng ai cho tôi một thông tin nào
> > chính xác. Mà cũng phải thôi. Một số người sống ở đó đã tản mác đi nơi
> > khác, một số có thể đã về với ông bà rồi. Tôi vào một quán nước bên
> > đường ngồi nghỉ cảm thấy tê tê trong đầu. Phảng phất đâu đây trên vùng
> > đất này, trên khúc đường này, đã in dấu chân của bố mẹ tôi, của các em
> > tôi, vào một mùa xuân nào xa lắc, mẹ tôi ở Sài Gòn lên, có cả một số
> > bạn bè thân quen của bố tôi cùng đón giao thừa trong rừng bên suối Đa
> > Mê trong một cái Tết xưa năm Kỷ Hợi. Tôi nghĩ chắc năm đó cha tôi đã
> > ăn một cái Tết bình an và vui vẻ nhất trong đời ông.
> >
> > Đang mơ màng thì xe đến đón tôi quay trở về thành phố. Từ xa những căn
> > nhà cao thấp ẩn hiện trong sương mù. Phải nói dù thế nào Đà Lạt vẫn có
> > vẻ gì mời gọi quyến rũ đủ để lòng người có một chút bâng khuâng. Có lẽ
> > phố núi vừa mau tối vừa lạnh lẽo cần sưởi ấm nên người ta tìm đến nhau
> > sớm hơn. Thành phố của tình yêu mà!
> >
> > Mấy ngày ở Đà Lạt trời mưa liên miên, gió lạnh và đường phố ẩm ướt
> > nhưng tôi vẫn muốn đến toà nhà số 12 đường Yersin (nay đổi tên là Trần
> > Phú) để nhìn lại căn gác nơi bố tôi từng sống với hai em tôi là Thoa
> > và Thiết. Tiếc là quán Café de la poste mà Thiết tả trong hồi ký “Chai
> > rượu khai xuân” đã không còn nữa để tôi có thể ngồi trong căn nhà mà
> > bố tôi ngày xưa đã từng ở.
> >
> > Hôm sau ngủ dậy nhìn xuống phố, trời đã hết mưa, buổi sáng có nắng
> > đẹp, tôi thấy vui lây cái vui của thiên hạ đông đúc dưới kia. Để thử
> > sức trai tráng còn được bao nhiêu, tôi không lấy taxi mà đi bộ từ
> > đường Phan Đình Phùng hướng về phía chùa Linh Sơn. Dọc đường tôi ghé
> > vào quán gọi một tô bún cá rô ăn ngon lành, rồi theo lời chỉ dẫn tôi
> > leo lên một con dốc cao qua những bậc tam cấp, qua những nhà cửa cao
> > thấp theo triền đá; ra khỏi con dốc là đường Minh Mạng xưa. Tôi ngồi
> > nghỉ uống một ly sữa đậu nành nóng, thấy trong người không mệt mỏi,
> > không thở dốc, vậy là còn lâu viện dưỡng lão mới lấy được tiền của
> > tôi! Lại lang thang hết khu Hòa Bình, vòng xuống Hồ Xuân Hương, hướng
> > mắt tìm một cây Mimosa như trong thơ Nhất Tuấn: “Đường khuya mưa bay
> > bay, Mimosa thôi nở trong hồn anh đêm nay” nhưng không tìm thấy. Hay
> > là tôi chưa tìm kỹ? Hay nó chỉ còn lãng đãng đâu đó trong hồn người?
> > Tôi tần ngần đứng trước một ngôi biệt thự. Sao nó giống ngôi biết thự
> > ở ngoại ô thành phố Paris năm nào, mà hai bố con tôi hay đến đấy trong
> > những dịp nghỉ lễ.
> >
> > Kỷ niệm xưa lại hiện về trong tâm trí.
> >
> > Năm 1950 khi tôi rời Hà Nội thì bố tôi còn ở Hồng Kông. Năm 1974 khi
> > tôi trở về Sài Gòn lần đầu tiên thì bố tôi không còn trên dương thế.
> > Tôi sẽ không có một kỷ niệm thân thương nào với ông cụ tôi nếu không
> > có chuyến Đi Tây thứ hai trong đời ông vào năm 1954.
> >
> > Tôi được ở với bố khoảng 6 tháng ở Paris. Thời gian này với tôi thật
> > là tuyệt vời. Tôi cảm nhận cái hạnh phúc được sống trong mái ấm gia
> > đình. Tại sao Đà Lạt lại có hương vị của Paris nhỉ? Không khí nơi đây
> > nhắc nhở tôi những ngày hai bố con sống với nhau, cùng ăn, cùng ngủ,
> > cùng nói chuyện, tất cả đã xa lắm mà tưởng như mới hôm nào. Tôi mỉm
> > cười nhớ tới lời dặn của bố tôi: “Con yêu ai thì yêu, nhưng lấy vợ
> > Việt Nam thì tốt hơn!” Rất tế nhị, không cấm đoán, ông chỉ nhẹ nhàng
> > đưa ý kiến của mình.
> >
> > Buổi tối cuối ở Đà Lạt tôi xuống trả phòng, nói dăm ba câu chuyện với
> > ông chủ khách sạn. Khi nói về việc đối tên đường tôi mới biết là đường
> > Huỳnh Thúc Kháng bây giờ ngày xưa đã có một thời mang tên Nguyễn Tường
> > Tam.
> >
> > *
> >
> > Là con trai trưởng trong gia đình tôi qua Pháp từ hồi rất trẻ trước
> > khi có hiệp định chia đôi đất nước. Hai mươi bốn năm sau khi tôi trở
> > về thăm Sài Gòn lần đầu thì miền Nam Việt Nam đã gần mất về tay Cộng
> > Sản. Cả hai nền Cộng Hòa của miền Nam tôi không được biết, được sống.
> > Tôi như người đứng ngoài lịch sử, không trực diện với bối cảnh chiến
> > tranh, không phải đối phó với những hoàn cảnh khó khăn với tâm trạng
> > ngổn ngang đau thương mất mát của gia đình như các em tôi đã phải
> > đương đầu. Như vậy có phải là may mắn? Cuộc đời thì hữu hạn, nhưng
> > hoài niệm thì chẳng có giới hạn nào, chúng cứ lơ lửng theo ta đến cuối
> > đời.
> >
> > Tôi không có thiên khiếu văn chương để viết được những tác phẩm đầy đủ
> > và xúc tích như em tôi Nguyễn Tường Thiết. Chỉ xin ghi lại nơi đây một
> > vài cảm nghĩ chuyến về quê này. Chuyến đi cho tôi những trải nghiệm
> > rất thật mà từ hồi nào tôi như sống ngoài nó. Có lẽ khi người ta chưa
> > thực sự trải qua những thăng trầm của cuộc sống thì những suy nghĩ
> > cũng chẳng có thể chững chạc được. Một người đã vốn nghèo về văn
> > chương thì đâu có dư chữ nghĩa để viết được những bài văn bóng bẩy?
> > Cũng thích viết lắm nhưng cứ lần lữa hoài ngần ngại hoài, lại chưa tìm
> > được đề tài để viết. Sự khuyến khích của Thiết, của Cường, đã cho tôi
> > cảm hứng viết bài bút ký này, hy vọng sẽ được đón nhận.
> >
> > Tường Việt

Thứ Bảy, 28 tháng 11, 2020

**SỐ PHẬN***/ Cảnh Tú chia sẻ [kỳ 1]

 Canh Tu <tucanh@ymail.com>

Th 7, 28 thg 11 lúc 2:20


.      **SỐ PHẬN***

 

Đỗ Duy Ngọc sanh năm 1950 tại Đà Nẵng, hiện đann Nhân (Siêu Nhân) mà ông cho là một THIÊN TÀI BỊ ĐOẠ. Cả 2 người đều là Sinh Viên ưu tú du học ở Pháp …Cuộc đời 2 người thăng trầm theo vận mệnh từ năm 1964 đến năm 2011 là một đoạn đường rất dài …Chuyện gì đã xảy ra? Chuyện hồi ký rất hay! Mời các bạn đọc: 

1.

Tôi học chung với Nhân từ  năm 1964 lớp đệ ngũ.Trước đó, tôi có năm năm học nội trú trường Pellerin, một trường dòng Lasan ở Huế do các Frère giảng dạy. Những năm học ở đó, tôi luôn đứng đầu lớp, là niềm tự hào của các Frère phụ trách và gia đình. Nhưng từ khi về học ở Đà Nẵng, tôi chưa bao giờ vượt qua được Nhân. Lúc nhỏ tôi rất xấu tính, hay ganh tị, không muốn ai hơn mình. Do vậy, tôi chẳng ưa gì Nhân. 

Thành phố này có hai ông Đốc. Một ông Đốc học phụ tráchchuyện giáo dục của toàn thành, ông Đốc này là ba Nhân. Ông Đốc thứ hai là ông Đốc tờ, tức là ba tôi, quản lý ngành y tế củathành phố. Mấy ông quan chức  thường tụ họp nhau vào sáng chủ nhật ăn sáng, uống cà phê, bàn chuyện  thời thế. Sau khi mất nhiều thì giờ trao đổi chuyện chính trị, chuyện thế sự, chuyện tiếp đó thường là chuyện con cái. Và lần nào cũng vậy, việc học hành giỏi giang, thông minh của Nhân lại được đem ra tán dương. Mỗi lần nghe chuyện, tôi rất khó chịu. Tự nghĩ mình cũng học giỏi có thua gì Nhân mà chẳng bao giờ được nhắc tới. Nhân càng được ngợi khen, tôi càng thêm ghét hắn. Khác hẳn tôi, Nhân rất muốn làm thân với tôi. 

Tôi càng tránh hắn càng cố đến gần. Lần nào gặp tôi hắn cũng nở nụ cười thật tươi, còn tôi thì mặt nặng như chì. Nhân đẹp trai, tuy người hơi thấp. Da trắng, mũi cao, mấy lọn tóc xoăn lúc nào cũng lòa xòa trước trán. Môi lúc nào cũng đỏ như son. Mà kể cũng lạ. Nhà ông Đốc học có năm người con, hai trai ba gái, chỉ có mình Nhân là đẹp, mấy đứa còn lại đứa nào cũng xấu như ma. Lại thêm có đứa con gái kế Nhân bị thần kinh, hay bỏ nhà đi lang thang, đứa em trai út thì bị bệnh down, lúc nào cũng ngơ ngác, nước dãi chảy lòng thòng. Vì cảnh nhà như thế nên ông Đốc học rất kỳ vọng ở Nhân, Nhân là niềm tin, niềm tự hào và cũng là lẽ sống của ông.  

Học chung lớpvới Nhân, càng ngày tôi càng thấy hắn giỏi, nhất là những môn toán, lý,hóa. Thầy dạy môn toán tên Thanh, thầy dạy rất hay, học trò rất mê. Thầy Thanh lúc nào áo quần cũng chải chuốt, tóc chải dầu bóng lưỡng, cách đi giọng nói rất điệu. Thầy hay cho làm toán chạy, tức là thầy đọc đề xong, trong năm hoặc bảy phút sau thầy chỉ nhận mười bài giải nộp nhanh nhất. Nếu giải đúng thầy cho điểm tối đa, còn giải sai thì khỏi có điểm. Nhân luônluôn là người giải bài nhanh và đúng nhất. Khi nào hắn nộp trễ hơn mộtchút thì có nghĩa hắn giải bài toán đó bằng hai cách khác nhau. Lúc lên bảng giải toán hình học, hắn vẽ hình bằng tay trái còn tay phải ghi lời giải. Thầy Thanh nể hắn lắm, gặp thầy nào thầy Thanh cũng ca ngợi Nhân. Thầy còn bảo với Nhân là vào giờ của thầy, hắn không cần ghi chép, muốn làm gì thì làm. Các thầy dạy môn lý, hóa cũng bảo hắn thế. Nghe vậy, hắn chỉ cười, giờ học nào cũng ghi chép rất cẩn thận. 

Không những học giỏi, Nhân còn  đá banh rất siêu, đánh cờ tướng rất cừ. Lại thêm rất giỏi võ. Không biết hắn học võ từ khi nào mà tay hắn cứng như thép, cỡ mấy viên gạch xây nhà hoặc năm ba viên gạch thẻ chỉ cần hắnvung tay là bị bể đôi ngay. Hắn múa gậy vun vút, đá ném không chạm vào người hắn. Cỡ hai người công kênh nhau, người trên cầm mấy cục gạch, hắn chỉ cần lấy đà chạy ba bước, bay lên đá viên gạch vỡ nát. Hay nhất là trèo tường. Nhân chạy lấy đà, tung người thẳng góc với bức tường,chạy thoăn thoắt lên trần nhà. Y như là mấy nhân vật trong truyện kiếm hiệp của Kim Dung. Mỗi lần Nhân làm trò, cả bọn học trò chúng tôi trố mắt, há mồm mà nhìn, lắc đầu thán phục. Mọi người đặt cho hắn cái tên là Siêu Nhân. Tôi vừa sợ vừa ghét hắn. Tôi vốn ốm yếu, lại chúa nhát gan, chúng bạn gọi tôilà con mọt sách. Cho nên dù không ưa, tôi cũng nể sợ hắn. Không biết có phải vì võ công thâm hậu quá mà đôi mắt của Nhân trông lạ lắm. Ánh nhìn như dao sắc, như có lửa, như muốn bóp nát người ta, đầy sát khí. Tôithường tránh ánh mắt của hắn.. Nụ cười của hắn thân thiện nhưng đôi mắt thì đầy hăm dọa. 

Trong các môn học, tôi chỉ  nhỉnh hơn Nhân môn Pháp văn và hai môn phụ là âm nhạc và hội họa. Bởi những môn này tôi được rèn luyện năm năm ở trường dòng Lasan. Nhưng đến năm đệ tam, tiếng Pháp của hắn tiến bộ đến không ngờ, đến thầy giáo già dạy Pháp văn cũng ngạc nhiên.Sau này tôi mới biết là suốt cả mùa hè hắn chỉ tập trung vào môn học đó, cả ngày nghe đài Pháp để luyệngiọng và lảm nhảm luôn mồm mấy từ vựng. Có một lần tình cờ tôi thấy trên bìa sách Pháp văn của Siêu Nhân có ghi câu bằng chữ in đậm VOULOIR C'EST POUVOIR. [Muốn là được]. Có lẽ đó là quan niệm của Nhân.

Cuối năm đệ tam, Nhân lại khiến cho các Thầy và đám học trò thêm thán phục khi giải bài thi toán tú tài 1 ban B chỉ trong 27 phút. Hắn lại tiếp tục là tấm gương cho các bậc cha mẹ thường nhắn nhủ các con: gắng học cho giỏi như anh Nhân. Hắn đi đến đâu cũng được mọi người trầm trồ khen ngợi. Bởi thời đó, người giàu có khôngđược trọng nể bằng người học giỏi. Ngay cả những quan chức cũng rất trân trọng người tài, học trò gỉỏi. Năm học đó, hắn lãnh phần thưởng lớn lắm, phải thuê xích lô chở về nhà. Ông Đốc học rất hãnh diện. Mà hãnh diện cũng phải thôi, cha mẹ nào lại không sướng khi có người con như thế. 

Trong lớp chúng tôi, thường chia ra hai nhóm rõ rệt. Mấy đứa nhỏ con, học kha khá thường ngồi mấy bàn trên, còn mấy bàn cuối lớp mà mấy thầy gọi là xóm nhà lá toàn là mấy đứa bự con, ba trợn, chơi nhiều hơn học và thường chọc phá mọi người. Cầm đầu xóm này là thằng Hồ Lê... Đó là một thằng sừng sỏ tuy cũng có tố chất thông minh, học hành cũng không đến nổi tệ. Hồ Lê người đen giòn, cao to lừng lững, mặt chữ điền, góc cạnh. Ngay trên trán có một vết sẹo dài khiến  khuôn mặt của hắn càng thêm vẻ anh chị. Hắn bảo đó là vết tích chiến tranh. Hỏi thêm nữa hắn sẽ trừng mắt hăm dọa nên chẳng ai dám lên tiếng thắc mắcnữa. Nhà Hồ  Lê nằm trong hẻm sâu sau lưngnhà tôi, mẹ hắn bán rau hành ở chợ. Nhà hắn trơ trọi chỉ hai mẹ con và không bao giờ hắn nhắc đến cha. Tôi sợ hắn lắm, vì hắn hình như rất ghét tôi, cứ tìm mọi cách để sinh sự.

Mỗi lần gặp tôi hắn thường dí tay vào trán tôi mà gầm gừ: đồ quý  tộc dơ bẩn. Tôi cũng chẳng biết sao hắn lại bảo tôi thế. Tôi vốn nhát như cáy nên thường tìm đủ mọi cách để tránh mặt hắn. Tránh hắn nhưng miệng lầm bầm: Đthằng Lê sẹo, rồi ông sẽ giết mày, anh hùng báo thù mười năm chưa muộn. Nói thầm thế thôi, chứ thấy bản mặt nó là tôi đã sợ chết khiếp, nổi gai cảngười. Nhưng tôi càng tránh, hắn lại tìm đủ mọi cách để trêu ghẹo tôi. Lúc thì đi đàng sau khèo chân cho tôi té. Khi thì búng tai, giựt tóc mai của tôi rồi cười cợt với một lũ âm binh ăn ké. 

Một hôm chúng tôi được nghỉ tiết cuối, đang trên đường về nhà  thì tôi bị đám thằng Hồ Lê chận đường. Hắn đứng trước mặt tôi, hai chân khuỳnh khuỳnh, cái mặt kênh kênh. Hắn bảo tôi rúc dưới háng hắn mà đi. Mặt tôi xanh như đít nhái. Vừa tức vừa sợ. Miệng lắp bắp định van xin.  Đường vắng teo, chẳng có ai có thể giúp tôi. Tôi nghĩ phen này chắc tiêu. Không chết vì nhục thì cũng ốm đòn với hắn..


 Hắn xắn tay áo, hai cánh tay cuồn cuộn. Vung tay. Tôi nhắm mắt,tưởng như muốn đái cả quần. Hai chân muốn quỵ xuống, bởi tôi vốn nhát đòn. Tôi chờ đợi cú đấm như trời giáng của hắn. Bỗng nghe tiếng hự..hự.. huỳnh huỵch… như ai đấm bao cát. Sao tôi chẳng thấy đau.

 Hé mắt nhìn, thấy thằngLê đang nằm chỏng gọng, mặt nhăn nhó, méo xẹo. Trước mặt hắn làNhân. Siêu Nhân. Nhân chỉ tay vào mặt hắn và bảo:  

 - Tao cấm mày đụng đến thằng Ngọc, tao là bạn nó. Thằng nào ăn hiếp hắn sẽ biết tay tao. Liệu hồn. Cút…Bọn thằng Lê chạy một mạchkhông ngoái đầu. Nhân vỗ vai tôi, cười: Đừng sợ chúng, cứ sợ mãi thì chúngcứ ức hiếp hoài.

 Từ đó, tôi và Nhân thânnhau. Đi đâu cũng có đôi. Và đám thằng Lê  cũng không dám đụng vào tôi nữa, dù ánh mắt nó cũng còn gầm ghè.

Đến lớp đệ nhị, tôi chọn ban A còn Nhân tiếp tục ban B. Bởi ba tôi muốn chuẩn bị cho tôi lên học y khoa nên bảo tôi học ban Vạn vật. Hơn nữa tôi cũng còn háo thắng, muốn học khác lớpvới Nhân để được đứng đầu lớp, chứ học chung tôi không vượt qua được hắn. Dù khác lớp nhưng chúng tôi vẫn đi chơi chung với nhau, gắn bó với nhau như hai anh em.

Nhân thường dẫn tôi đếnquán nước ở góc sân trường.. Chủ quán là chị Đầm. Tôi gọi bằng chị vì chị lớn hơn chúng tôi vài ba tuổi. Chị bị rỗ huê nên bọn học trò thường gọi là chị Đầm rô. Chị to lớn như đàn ông, giọng ồ ề, lại khoái hút thuốc lá nên môi thâm xì. Tuy vậy, chè đậu của quán chị rất ngon, nên lũ học trò rất khoái tụ tập ở quán chị. Chị Đầm lại rất ái mộ Nhân, xem Nhân như thần tượng, ánh mắt nhìn Nhân rất  lạ. Tại quán đó, tôi bị chị dụ tập hút thuốc lá và thói quen này theo suốt đời tôi. Và cũng tại quán đó trong một buổi trưa trú mưa, tôi biết lý do tại sao Nhân cứ muốn làm thân với tôi. 

Số là cạnh nhà tôi có một gia đình rất giàu có, là chủ của mấy rạp xi nê và khách sạn ở Đà Nẵng, Huế, Qui Nhơn và Nha Trang. Chủ nhânvốn xuất thân từ hoàng tộc tên Bửu Hân. Nhà có cậu con trai út tên Vĩnh Đệ còn nhỏ và hai cô con gái rất đẹp, cô chị tên Huyền Tôn Nữ Dạ Lan, cô em là HuyềnTôn Nữ Dạ Hương. Mỗi cô có nét đẹp riêng. Dạ Lan đẹp kiêu sa, đài các. Dáng thanh mảnh, thướt tha. Cổ cao ba ngấn, da trắng như ngà, tóc dài chấm mông, mặtnhư Đức Mẹ, mắt lúc nào cũng buồn vời vợi.

Suốt ngày ngoài giờ học chỉ thơ thẩn trong vườn đọc sách, đan len, chiều chiều lại đánh đàn piano cho đến tối. Dạ Lan thích mặc áo màu tím Huế. Dù là áo dài đi phố, đi lễ nhà thờ hay áo cánh đi chơi, cô chỉ chọn độc một màu tím rịm. Cô em Dạ Hương thì trái ngược với chị. Mới mười lăm tuổi mà bộ ngực đã tròn to khêu gợi. Tóc cắt ngắn, da rám hồng. Suốt ngày sau giờ học chỉ đi tắmbiển và đánh quần vợt. Chỉ thích mặc áo thun và quần jean, cỡi xe Honda chạy vù vù. Đọc toàn báo Tây, hát toàn nhạc Pháp. Tuần nào cũng đi nhảy đầm với lũ bạn học cùng trường Lycée Blaise Pascal 

Vì ở cạnh nhà lại là đồng hương nên gia đình tôi rất thânvới nhà  đó. Lễ tết, giỗ chạp, tang ma hiếu hỉ đều qua lại với nhau.Nhân thích Dạ Lan. Nhân thổ lộ với tôi như vậy. Và Nhân muốn qua tôi làm quen với cô ấy. Chuyện dễ ợt, chẳng có chi khó khăn. Nhưng tôi lại bảo với Nhân là chuyện này khó lắm, cần phải có thời gian. Nhân cầm tay tôi lắc lắc:

 

- Cố nghe,cố nghe.

Việc làm ông mai tiến hành quá suôn sẻ, tôi ướm lời với Dạ Lan: - Tôi có anh bạn ái mộ Dạ Lan lắm, anh ấy muốn tôi giới thiệu với Dạ Lan.  Cô ấy thoáng chút ngạc nhiên  - Ai vậy? Quen hay lạ?

- Dạ Lan biết người này mà.

- Nhưng mà ai mới được chứ.  Tôi cườibảo:

- Anh Nhân, bạn thân của tôi

- Anh Nhân con ông Đốc Lễ phải không?  Tội gật. Dạ Lan cười:

- Tưởng ai.

Sau này, khi hai người đã gắn bó nhau, tôi mới biết hóa ra Dạ Lan cũng đã để ý đến Nhân lâu rồi. Thì trai tài gái sắc, đến với nhau là lẽ đương nhiên của cuộc đời.

Hai người yêu nhau thắm thiết lắm. Hai gia đình cũngthoáng biết nhưng chẳng có ý kiến gì. Mà thật ra còn đòi hỏi chi, vừa môn đăng hộ đối, vừa đôi lứa xứng đôi. Nhân cám ơn tôi nhiều lắm.

Chúng tôi hay đi chơi với nhau, ngoài tôi, Nhân, Dạ Lan còn có Dạ Hương. Thường là đi xem phim, đi ăn kem hoặc đi dạo bên bờ  biển. Dạ Hương sôi nổi, nhí nhảnh còn Dạ Lan khép nép, dịu dàng. Một hôm, chúng tôi đi dạo trên bờ biển, trời vừa tối, chân trời ráng đỏ. Dạ Hương kéo tay tôi và bảo khẽ:

-Mình tránh đi cho anh chị ấy tâm sự, cứ như thế này thì anh chị ấy tâm tình làm sao được.

Dạ Hương kéo tôi chạy vào  hàng phi lao, trời tối hẳn, những ngọn gió xào xạc. Theo đà chạy dưới cát lún, Dạ Hương ngã vào người tôi, ôm cứng, hơi thở gấp. Theo quán tính, tôi cũng ôm siết lấy nàng, hai bầu ngực căng khép vào ngực tôi.. Tôi thấy mình căng cứng. Dạ Hương vít đầu tôi xuống, hôn trên môi tôi. Tôi như đang bay bổng vì nụ hôn đầu đời.

Tôi chẳng biết phải hôn trả lại thế nào nữa. Tôi lạng quạng và thả lỏng đôi tay. Bỗng dưng tôi cảm thấy sợ. Hóa ra tôi luôn luôn vẫn là thằng nhút nhát. Kiểu tấn công mạnh mẽ của Dạ Hương làm tôi hãi, dù phần dưới cơ thể của tôi đã đông cứng lại rồi. Tôi bỏ đi và như kẻ mộng du. Tôi bỗng muốn khóc. Dạ Hương chạy theo tôi hét lớn:

-Anh có phải là đàn ông không?

Tôingồi xuống giữa bãi cát và tự hỏi, mình có phải là đàn ông không?

Từ đó, Dạ Hương tránh mặt tôi, và tôi cũng có ý không muốn gặp nàng.  Tôi vẫn tự nhủ mình tệ quá.

Kỳ thi Tú tài 1 năm  đó, tôi và Nhân đều đậu Ưu hạng. Cả hai gia đình rất vui. Hôm lãnh thưởng ở trường, đôi mắt của ông Đốc học ba Nhân ánh lên niềm tự hào, sung sướng và mãn nguyện. Còn đôi mắt của Dạ Lan thì  tràn đầy hạnh phúc.

Ba tôi dù theo Tây học, nhưng lại rất mê nghiên cứu Kinh Dịch. Có một người Hoa thường đến trao đổi cùng ba tôi. Người này tên Lý Hạnh, chuyên nghề phong thủy và tướng số. Hai người tâm đắc lắm, thường nói  chuyện với nhau cả buổi mà không chán. Một hôm, khi ba tôi và chú Lý Hạnh đang nói chuyện với nhau thì tình cờ tôi nghe được cả hai bàn về  Nhân. Ông Lý Hạnh bảo:

- Cậu Nhân tướng toàn tốt, thông minh hơn người, nhưng ánh mắt lộ hung quang, tôi e cậu ấy nếu không học đựợc chữ nhẫn sẽ phải phạm tội sát nhân, hậu vận xấu lắm.

Ba tôi trầm ngâm một lát rồi hỏi đến tương lai của tôi, Ông Lý Hạnh im lặng một lát rồi gật gù:

- Cũng tạm. Ba tôi nhíumày:

- Cụ thể là sao?  

- Ông Đốc cũng đã nghiên cứu lý số. Số nói sao thì nghe vậy. Còn cụ thể thì chịu. Nhiều khi thiên cơ bất khả lậu

- Nhưng đôikhi cũng nhân định thắng thiên

- Dạ, cũng có thể.  Nghe được vậy, lúc đó tôi hơi hoang mang, nhưng rồi tuổi trẻ chóng quên. Tuy thế lâu lâu nhìn ánh mắt của Nhân, tôi cũng cảm thấy ghê ghê.

Cũng cuối năm ấy, Dạ  Hương bỏ nhà đi. Có tinđồn đã kết hôn với một sĩ quan Mỹ ở Sài Gòn. Tôi cứ tự hỏi là mình có lỗi gì trong tai ương này không?

Tết năm Mậu Thân 1968, chiến tranh lan vào nhiều thành phố. Huế bị nặng nhất, rất nhiều người chết trong những ngày xuân. Đà Nẵng cũng không tránh khỏi bị tấn công, nhưng không bị chiếm đóng. Sau Tết, lớp học thưa thớt hẳn, đứa đi lính, đứa đi đâu mất dấu. Trong những đứa vắng mặt, có Hồ Lê. Nghe đồn nó đã lên núi, gia nhập quân giải phóng quân.

Chúng tôi đậu Tú tài 2 dễ dàng. Nhân lại đậu Ưu hạng, tôi chỉ  đậu Bình. Tôi lại thua Nhân….

Vào Sài gòn làm thủ tục du học, thời gian chờ đợi khá dài, tôi ghi danh học Văn khoa, còn Nhân thi vào trường Kỹ sư Công nghệ PhúThọ, học cho vui để quên thì giờ chờ đợi. Thế mà hắn cũng đỗ hạng nhì kỳ thi tuyển vào Phú Thọ năm đó. Tôi vừa xong lớp dự bị ban Văn chương Việt Nam thì có giấy lên đường.

Ngày tôi và Nhân rời Việt Nam đi Pháp du học, hai gia đình tiễn ra phi trường. Ba Nhân ôm vai Nhân:

- Gia đình và giòng họ  tin tưởng vào con. Ba tin chắc con làm được như ước nguyện. Nhân gật gật đầu, mắt lóe lên niềm hy vọng lớn lao. Dạ Lan mặc áo dài tím, quấn khăn quàng tím nhạt, nước mắt hoen mi. Dạ Lan cầm tay Nhân lắc mãi mà chẳng nói gì. Ba tôi bắt tay tôi, bảo khẽ:

- Cố lên nhé!

Hôm qua tôi và ba đã nói chuyện với nhau rất lâu về chuyện truyền thống ba đời làm ngành y, về việc phải tiếp nối nếp nhà. Thật ra, tôi chẳng thích thú gì chuyện du học. Tôi sợ  cô đơn ở xứ người, tôi sợ những bất trắc sẽ xảy đến mà chung quanh chẳng có ai giúp đỡ. Tôi như con chim non được nhốt trong lồng son, giờ được thả ra, chẳng định được phương nào để bay đến. Nhưng tôi phải bay đi. Đi và mang theo niềm hy vọng của cả gia đình. Bước lên máy bay, nước mắt tôi cứ muốn trào ra, hai bàn chân tôi như có gì níu lại. Rời Việt Nam, tôi vẫn chưa có mối tình nào vắt vai, không có cô gái nào đưa tiễn. Tôi thấy Nhân hạnh phúc vì còn có tình yêu để đợi chờ.

Chuyến bay kéo dài hơn hai mươi tiếng đồng hồ, chúng tôi nói nhiều chuyện với nhau về tương lai. Thế giới đang mở ra với chúng tôi, và cả hai đang bước vào và tin sẽ chiến thắng. Hai đứa vẽ ra cảnh tượng lúc thành đạt trở về trong niềm hoan hỉ của mọi người.  Nhân bỗng bảo tôi:

- Cậu chơipiano thế cậu có biết loại đàn nào tốt nhất không?

- Để làm gì, sao tự nhiên lại đi hỏi về đàn lúc này?

- Thì cứ nói đi  - Theo mình biết thì hiện nay đàn hiệu Steinway & Son là tốt nhất, ở  Việt Nam chỉ có một hai cái. Nhưng đắt lắm. Cậu đang có ý định gì  vậy?  Nhân lim dim mắt, cười cười, nhìn ra bầu trời trong xanh:

- Khi nào thành đạt, làm ra tiền, mình sẽ mua cho Dạ Lan một cây đàn như vậy.

*******

2.

Chúng tôi chia tay nhau ở phi trường, Nhân sẽ ở lại Paris thi vào trường Đại học Bách khoa Paris. Tôi lại tiếp tục đi gần 750 cây số nữa về Montpellier, một thành phố nằm gần biển Địa Trung hải, để thi vào trường Y. Đại học Montpellier  là một trong những trường đại học Y khoa nổi tiếng thế giới, nơi đào tạo nhiều nhà khoa học đã được nhiều giải thưởng y học quốc tế.

Phải mất 9 tháng học dự  bị tôi mới thi đậu vào trường, dù chỉ đứng thứ 26, nhưng cũng vui vì đã đi được bước đầu.

Nhân thành công hơn tôi nhiều. Chỉ mất 6 tháng, Nhân đã đỗ thủ khoa vào trường Đại học Bách khoa Paris (École polytechnique) Đây là  trường đào tạo k sư danh giá nhất nước Pháp. Đúng ra Nhân phải học đủ một năm dự bị theo chương trình EV1 dành cho học sinh Pháp và các nước nói tiếng Pháp. Nhưng chỉ một thời gian ngắn học ở Lycée Louis – Le –Grand, Ban giảng huấn ở đó nhận thấy Nhân quá xuất sắc nên đặc cách cho thi trước thời hạn. Mục đích phấn đấu của các sinh viên học trường này là trở thành nhân lực cấp cao của nưóc Pháp và thông thường 10 sinh viên đứng đầu sẽ đượclựa chọn trở thành Corps de Mines, được  tham gia chương trình đào tạo nhân lực lãnh đạo tương lai. Đây cũng là trưòng đã tạo ra ba vị tổngthống của nước Pháp: Valéry Giscard d'Estaing, Sadi Carnot, Albert Lebrun. Giáosư Hoàng Xuân Hãn và giáo sư Nguyễn Văn Xuân của Việt Nam cũng tốt nghiệp từ trườngnày.

Nhân là ngưòi nước ngoài  đầu tiên đỗ thủ khoa kỳ thi tuyển vào trường, nên trở thành một sự kiện được báo chí Pháp chú ý. Hình chân dung của Nhân được đăng trên nhiều tờ báo, là niềm tự hào của giới sinh viên du học và những người Việt Nam đang ở Pháp thời bấy giờ. Ở Montpellier, trong giới sinh viên cũng bàn tán chuyện này dữ lắm.

Nhưng Nhân không ngừng lại  ở đó, trong thời gian theo học, Nhân là một nhân vật nổi bật toàn diện. Không những học giỏi, Nhân còn là cầu thủ xuất sắc của đội bóng tròn sinh viên Paris, là kỳ thủ không thể qua mặt của bộ môn cờ, Nhân còn là huấn luyện viên võ thuật của võ đường trong khu đại học, đồng thời đã mang về cho trường rất nhiều huy  chương trong các cuộc thi đấu. Hình ảnh Nhân liên tục được đăng trên  các báo sinh viên và một số báo thể thao. Đã có lần một câu lạc bộ nhà nghề nổi tiếng của Paris đề nghị Nhân ký hợp đồng để được đào tạo làm  cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp, nhưng Nhân từ chối. Tiếng tăm Nhân vang dội trong cộng đồng sinh viên của các trường đại học, Nhân đã từng đưọc tiếp đón và nhận phần thưỏng của tổng thống Pháp  lúc bấy giờ là Georges Pompidou ở điện Élysées. Nhân được đặt tên là Super Man, cái tên mà hồi ở Việt Nam mọi người đã đặt cho hắn. Hóa ra siêu nhân thì ở vòm trời nào cũnglà siêu nhân. Còn con chim chưa định được đường bay là tôi vẫn là cậu sinh viên nhút nhát và không chút tự tin, dù là ở phương trời nào, lúc nào cũng quấn quanh trong chiếc lồng vô hình chật chội của mình.

Với những thành tích và tính cách của Nhân, Nhân mau chóng trở thành lãnh tụ của các phong trào sinh viên. Lúc đầu là anh cả của các môn thể thao, dần dà, Nhân lại làm luôn lãnh tụ chính trị với nhiều tham vọng. Thời điểm bấy giờ, cuộc chiến tranh Việt Nam đã đến cao điểm. Mỹ liên tục ném bom miền Bắc, cuộc chiến đấu ở miền Nam càng ngày càng nhiều máu lửa. Sinh viênViệt Nam đi du học hàng ngày nhìn thấy những đổ nát, những tàn phá, máu xương rơi của chiến tranh, lại thêm chính quyền miền Bắc và Chính phủ Cộng hòa miềnNam Việt Nam tuyên truyền ở Âu châu rất mạnh, nên đa số đều tham gia chốngchiến tranh, kêu gọi  hòa bình với một ý thức chính trị rất mơ hồ. Lực lượng này rất mạnh và rất đông đảo. Và tham gia phong trào chống Mỹ trở thành một cái mốt của người trí thức.

Nhân thì ngược lại, hắn làm lãnh tụ một nhóm sinh viên ủng hộ chính quyền Việt Nam Cộng hòa, chuyên phá đám các cuộc biểu tình và tuần hành của nhóm sinh viên kia. Đụng độ giữa hai phái xảy ra như cơm bữa.

Đúng thời điểm này thì chúng tôi nhận hung tin từ ViệtNam. Mẹ tôi và mẹ Nhân trong một chuyến hành hương về La Vang, Quảng Trị, trên đường về thì xe bị lật vì trúng mìn. Mẹ Nhân tan xác tại chỗ, mẹ tôi được đưavào bệnh viện Trung ương Huế, nhưng rồi cũng từ trần ở đó. Tôi điện thoại choNhân, khóc nức nở trong điện thoại, Nhân chỉ ậm ừ khuyên lơn tôi. Tôi đòi bỏ vềViệt Nam ngay, nhưng Nhân khuyên nhủ, động viên tôi ở lại tiếp tục học và phải cố học tốt hơn nữa, đó cũng  là một cách để khỏi làm buồn lòng mẹ. Tôi nghe lời Nhân, nhưng lòng thì tan nát, dạ rối bời, chẳng thiết ăn uống gần mấy tuần liền. Riêng Nhân từ đó càng lao vào những cuộc đấu tranh để ủng hộ phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa đang ở Paris để hội đàm tìm cách giải quyết chiến tranh. Nhân mơ ước ngày trở về sẽ trở thành một công chức cốt cán của chính quyền miền Nam, với những đổi thay và cương lĩnh mới.

Hiệp định Paris được ký  kết, Nhân cay cú vì bảo rằng chính quyền miền Nam đã bị Mỹ lừa. Nhân càng hoạt động mạnh hơn, quyết liệt hơn. Và trong tâm trạng đó, Nhân đã phạm một sai lầm oan nghiệt, chấm dứt mọi ước mơ và hoài bão. Cắt đứt tương lai đang rộng cửa.

Trong khu đại học xá, Nhân  được bố trí ở cùng chung phòng với Thành, cũng là một du học sinh học trường Bách Khoa Paris, học sau Nhân một khóa. Thành là con trai của Chủ tịch Tối cao Pháp viện của chính quyền miền Nam, nhưng Thành lại là lãnh tụ của phong trào thiên tả ủng hộ Cộng sản. Thành cũng là một thành viên rất cực đoan của lực lượng này.

Từ lâu, cả hai đã có  nhiều lần tranh cãi nhau dữ dội vì những quan điểm xung khắc nhau về cuộc chiến đang xảy ra. Khi hiệp định Paris vừa có hiệu lực thi hành, Nhân trong cơn bực tức đã nổ ra cuộc đấu khẩu với Thành và trong lúc không kềm lòng được đã bay đến phóng chân đá vào đầu Thành ngay trong phòng của hai người. Thành gãy cổ chết ngay lập tức, máu trào khóe miệng. Nhân bị bắt ngay. Báo chí đưa tin hàng giờ. Tôi ở Montpellier đọc báo thấy đăng hình của Nhân, nhưng lần này không phải là khuôn mặt tươi cười, hớn hở như xưa mà là tấm hình Nhân cúi đầu đi giữa đám cảnh sát, hai tay bị còng, những sợi tóc xoăn trước trán rũ xuống khuôn mặt nhợt nhạt không còn chút sinh khí. Tôi chợt nhớ nhận định của chú Lý Hạnh ngày nào và bỗng tin vào số mệnh.

Tôi bay ngay về Paris, nhưng không được gặp trực tiếp Nhân. Hắn đang bị cách ly để điều tra. Sau một thời gian, Nhân bị trục xuất và dẫn độ về Sài Gòn với cái án giết người. Tôi lại chỉ gặp được Nhân qua hình trên báo đăng hình Nhân ở chân phi cơ lúc bị dẫn độ, tay Nhân vẫn bị còng và Nhân vẫn lại lọt thỏm giữa đám cảnh sát với khuôn mặt hớt hãi.

Tôi nhận được thư Nhân lúc trở về Montpellier, Trong thư Nhân dặn dò tôi là không được tin cho ai ở nhà biết việc này, đồng thời Nhân cũng nhờ tôi là khi nào nhận được thư Nhân với hai phong bì, tôi phải bỏ bì thư ngoài và gởi lại cái thư bên trong về Việt Nam cho gia đình Nhân, nếu nhận đượcthư của ba Nhân, tôi lại gởi về Sài Gòn làm như là Nhân vẫn đang ở Pháp vậy. Nhân khuyên tôi cố gắng học cho xong và xin lỗi tôi, tôi chẳng biết Nhân xin lỗi tôi vì lí do gì. Mỗi lần đi gởi thơ về cho ba Nhân, tôi cảm thấy mình đang làm một chuyện tội lỗi tày đình vì đang đánh lừa ba Nhân, người đang hi vọng về đứa con thiên tài của mình. Lần nào đi gởi thư, tôi cũng khóc. Không biết bao giờ tôi mới bỏ được kiểu thường hay rơi nước mắt như thế này. 

Năm 1972 tôi đang học năm thứ hai Y khoa, tôi bỗng chán nản cùng cực và ý thức một cách rõ ràng là nghề y không phù hợp với tôi. Tôi sợ thấy máu chảy. Tôi sợ những khuôn mặt nhăn nhó, đau đớn vì bệnh tật của bệnh nhân. Tôi cũng biết rất rõ mình không đủ phẩm chất để làm người thầy thuốc. Tôi quá nhạy cảm trước mọi sự.. Tôi chỉ mong ước mình trở thành họa sĩ, suốt ngày lang thang vẽ vời, sáng tạo, đùa giỡn với sắc màu, không phải đối diện với những nỗi đau bệnh tật, máu me, chết chóc của con người như nghề bác sĩ. Nếu cứ tiếp tục cố nhồi nhét những  kiến thức y khoa như thế này, chắc chắn tôi sẽ điên mất. Trước đây tôi  chọn học y vì ba tôi bắt phải thế, lúc đó tôi vẫn chưa có ý thức về nghề, về tương lai. Nhưng bây giờ,qua gần ba năm, tôi tuyệt vọng vì thấy mình đang đi lần vào một hố thẳm và sợ hãi khi nghĩ đến việc suốt đời phải gắn bó công việc khủng khiếp này. Và rồi tôi đi đến quyết định cuối cùng. Đây là quyết định đầu tiên trong đời do tôi tự quyết.  Không biết tương lai rồi sẽ ra sao, nhưng tôi có chút hài lòngvì đã thoát ra được bế tắc. Ít ra con chim rời lòng son cũng đã tự định hướngcho đời mình. Tôi bỏ trường Y, thi vào L’Ecole supérieure des Beaux – Arts deMontpellier Aggomération, tức trường Trang trí Mỹ thuật Montpellier. Học trườngnày có nghĩa là tôi sẽ bị mất học bổng ở trường cũ, do vậy kể từ đó cuộc sống của tôi bấp bênh, no đói thất thường, làm nhiều nghề để kiếm cơm và để được học những thứ mình ưa thích. Nhưng tôi vốn vụng về và hậu đậu, chẳng làm tốt được chuyện gì, đi đưa báo thì đưa lộn địa chỉ, làm bồi rửa chén thì chuyên làm vỡ bát dĩa, đi giao sữa thì đổ sữa lai láng trước cửa nhà của khách. Bởi từ bé cho đến lớn, tôi chỉ việc học, ba mẹ tôi không cho tôi làm gì ngoài chuyện phải học thật giỏi. Lối giáo dục đó làm cho tôi vấp phải thất bại trong bước đầu trong cuộc đời. 

Trong các thầy giáo dạy ở  trường Mỹ thuật, có giáo sư Alain Bourdon dạy rất giỏi, thầy được gọi là họa sư. Thầy rất thương tôi và biết rất rõ tình trạng của tôi, nên thường tìm cách giúp đỡ. Lúc thì kẹp ít tiền trong sách của tôi, khi thì giỏ thức ăn. Cuối tuần, Thầy thường đón tôi về căn nhà ở ngoại ô của Thầy. Ở đó, tôi được ăn no nê và được Thầy dạy thêm những kiến thức vô cùng quý báu.. Vợ Thầy đã mất cách đây bốn năm vì bệnh ung thư, Thầy ở với cô con gái duy nhất khoảng 18 tuổi tên Monique rất đẹp, khuôn mặt thánh thiện, sáng bừng như thiên thần.  Monique thường nhờ tôi đệm piano cho cô ấy hát, Monique có một giọng hát trong trẻo và cao vút rất hợp với nhiều bài Thánh ca cũng như  những bài ca dân dã. Tôi thường đọc thơ cho nàng nghe, những bài thơ của Arthur Rimbaud, Paul Verlaine …, Guillaume Apollinaire và cả thơ Tagore. Monique rất thích bài thơ L'Adieu củaApollinaire, nhất là khi tôi ngâm bài thơ này bằng giọng Quảng Nam, mỗi lần nghe xong, nàng bật cười ngặt nghẽo, cứ giả giọng của tôi rồi cười khanh khách, nhưng đôi mắt thì ngập nước:

"J'ai cueilli ce brin debruyère  

L'automne est morte souviens-t'en  

Nous ne nous verrons plus sur terre  

Odeur du temps Brin de bruyère  

Et souviens-toi que je t'attends " (L'Adieu –Apollinaire)

Monique rất quý tôi, tuần nào tôi không về, cô ấy gởi bánh trái cho Thầy Alain mang lên cho tôi. Biết thân phận mình, lại vẫn cái tánh nhút nhát, không tin vào mình, nên dù có rất nhiều cảm tình với nàng, tôivẫn không dám ngỏ, cứ mặc cảm mình không xứng đáng. Chúng tôi thường đi dạo trên con đường mòn của cánh rừng sau nhà, cùng đi qua đủ bốn mùa. Mùa thu sắc đỏ, lá vàng ngập lối đi. Mùa hạ bầu trời xanh và mặt nước hồ gợn sóng lăn tăn. Mùa xuân với những cành lá biếc, hoa nở tím cả rừng và mùa đông với những cành trơ trọi, trời lạnh giá, trên cổ mỗi người quấn chiếc khăn quàng do Monique tự tay đan. Trong những buổi cùng lang thang, hái hoa, nghe tiếng chim líu lo, chúng tôi nói với nhau đủ thứ chuyện trên đời. Nhưng cũng có khi trên đường về, hai đứa cứ im lặng suốt cả con đường dài, nhưng vẫn ngập tràn một thứ hạnh phúc khó diễn tả nổi. Tình yêu đến nhẹ nhàng, trong như giọt sương, tôi không dám động mạnh, chỉ sợ nó vỡ tan. Và ánh mắt nhìn nhau, nụ cười trao nhau như nhữnglời ước hẹn, đổi trao diễn ra trong im lặng.  Mỗi khi đến nhà củaThầy Alain, được ngồi ăn chung với hai bố con Thầy, được nhìn khuôn mặt đẹp tựa thiên sứ của Monique, nghe tiếng hát trong veo của nàng, tôi cảm thấy cuộc đời thật tươi đẹp và mong ước  mình cứ được mãi như thế này… 

Nhưng số phận lại giáng xuống đời, khi tôi vừa xong năm thứ hai đang  kỳ nghỉ hè thì tai họa ập đến gia đình Thầy Alain.Trong chuyến đi về Paris của hè năm ấy, họ đã bị tai nạn giao thông. Thầy Alain chết ngay trên volant, Monique bị thương nặng, được chở vào bệnh viện, một tuần sau thì mất. Tôi bay về Paris ngay khi được tin và chăm sóc Monique suốt một tuần nàng thoi thóp, mê man trên giường bệnh, suốt ngày tôi  quên ăn uống, chỉ ngồi nắm trong tay bàn tay bé nhỏ lạnh giá của Monique, chờ phép lạ. Đến hôm cuối cùng, Monique mở mắt nhìn tôi rất lâu, hai dòng nước mắt chảy dài trên má nàng, mặt tôi cũng đầm đìa nước mắt. Môi nàng mấp máy: Je t’aime…Je t’aime… và bàn tay rời khỏi tay tôi. Phép lạ đã không đến. Chúa cũng đã quay mặt đi trước nỗi đau của thiên thần. Tôi gần như không kêu lên được tiếng gọi y tá cấp cứu, cổ họng tôi đông cứng và tôi đứng chôn chân gần mấy tiếng đồng hồ trong niềm tuyệt vọng như bức tượng đá bên giường. Tôi không tin đó là sự thật.

Suốt cuộc đời, tôi không bao giờ quên được ánh mắt và câu nói cuối cùng đó. Câu nói của Monique như vết khắc trong tim tôi, không phai.

Tôi đau đớn tột cùng trước cái chết của cha con ThầyAlain, người tôi xem như người cha thứ hai của mình. Và Monique, mối tình đầu của tôi, mối tình câm chưa dám ngỏ của tôi. Tôi có cảm tưởng mình đã bị rút hết tất cả sinh lực. Tôi mất ngủ, lang thang như kẻ điên suốt mấy tháng dài. Tôi chẳng còn thiết tha gì chuyện học hành và tương lai. Thiên  thầnMonique của tôi hiện ra như ánh chớp, lóe sáng đời tôi một khoảnh khắc rồi bay về trời. Nàng như một thứ định mệnh làm thay đổi ý nghĩ  của tôi về cuộc sống. Cái chết của mẹ tôi, mẹ Nhân, của Thầy Alain, của Monique khiến tôi thấy cuộc sống này chỉ là một ảo ảnh, có đó rồi mất đó. Hiện hữu rồi tan vào hư vô. Sống chết là một ranh giới quá mỏng manh. Cuộc sống chỉ là một ánh chớp.Tôi đóng cửa suốt ngày và cứ nghĩ về lẽ tử sinh. Và rồi số phận lại đổi thay, tôi ngộ ra rằng những  tham vọng, những ước mơ, những hoài bão, những cố gắng cuối cùng rồi cũng sẽ được chấm hết bằng một cái chết do muôn ngàn bất trắc của đời sống. Thế thì ham danh vọng để làm gì, mải mê theo những ảo vọngđể làm gì?

Tất cả thật ra rồi cũng chỉ là ảo ảnh. Và tôi buông tay, thả cuộc đời mình cho những con sóng của số phận. Tôi bỏ lại tất cả và trở về Việt Nam

 ********

3.

Tôi không dám về quê, cố  bám lấy Sài Gòn. Tôi tìm gặp Nhân, hai đứa thuê chung căn phòng ở khu Trương Minh Giảng. Tôi và Nhân bàn cách để tránh những người quen biết. Tôi để tóc, râu dài thậm thượt, Nhân cũng  thế. Hai đứa thường mang đôi kính đen, ban đêm thì mang kính đổi màu.  Hàng tháng, tôi và Nhân viết thư gởi qua Pháp cho một người bạn, anh này lại bỏ phong bì ngoài, gởi tiếp về Việt Nam cho ba tôi và ba Nhân.  Và nhận những lá thư từ gia đình gởi qua chặng Đà Nẵng – Pháp – Sài Gòn.

Chúng tôi lại tiếp tục lừa dối và loay hoay trong lừa dối tự mình bày ra.

Lúc Nhân vừa bị dẫn độ về Sài Gòn, ông chủ tịch Tối cao Pháp viện, tức là bố của Thành, người bị Nhân giết chết bằng cú đá oan nghiệt, đang chuẩn bị ra tranh cử dân biểu quốc hội. Không muốn bị báo chí phanh phui là có con theo Cộng Sản bị giết chết nên ông này tìm mọi cách ỉm vụ đó đi. Nhân chỉ bị đưa ra tòa bí mật và kết luận là gây án ngộ sát trong tình trạng thần kinh không bình thường, nên được trả tự do sau hai tháng giam giữ.

Được một người bạn du học Mỹ về đang làm Tổng cục trưởng, Nhân được bố trí làm việc ở Tổng cục gia cư, chuyên về xây dựng. Khi tôi về, Nhân lại giới thiệu tôi vào làm với nhiệm vụ họa viên vẽ họa đồ. Để trốn khỏi đi lính, Nhân mua cho tôi một cái giấy hoãn dịch vì lí do sức khỏe và hắn thì hoãn dịch vì gia cảnh. Cả hai đều là giấy giả. Đi làm lương cũng kha khá đủ sống, nhưng hai thằng sống như hai thằng buôn thuốc phiện lậu, lúc nào cũng lén lén lút lút, cứ sợ gặp người quen với gia đình và cũng phải trốn tránh bọn cảnh sát chìm nổi đầy mọi ngõ ngách. Cả hai trường hợp nếu bị phát giác cũng đều đưa đến kết quả bi thảm cả. Thế mà tôi cũng phiêu lưu dám ghi danh học tiếp ở Đại học Văn khoa. Vừa làm vừa học, dù ít khi có mặt ở giảng đường.  Từ đó, tôi cảm thấy mình an phận, chấp nhận số phận do mình chọn lựa.

Nhưng hình như Nhân không nghĩ  giống tôi. Có rất nhiều khi Nhân không cười, không nói, lầm lì suốt cả tuần lễ, có lúc lại uống rượu đập bàn, đập vỡ li chén, uống say mèm và khóc tức tưởi. Những lúc như vậy, tôi chỉ biết ngồi im vì ánh mắt của hắn lúc đó trông như ánh mắt của quỷ dữ, như con thú bị dồn đến đường cùng. Có một điều lạ nữa là Nhân không bao giờ nhắc đến Dạ Lan lúc tỉnh táo, mặc dù tôi biết Nhân nhớ  thương nàng nhiều lắm. Nhưng cứ đến khi say, hắn khóc và réo mãi tên Dạ Lan. Khi tỉnh, nếu tôi vô tình nhắc đến tên nàng, Nhân quắc mắt lên rất dữ tợn, riết rồi tôi chả bao giờ dám nhắc đến cái tên đó nữa. 

Hàng tuần, cứ mỗi chiều thứ bảy khi đi làm về, Nhân lại mua một bó hoa lớn, vào nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi, ngồi trước mộ Thành đến tốimịt mới về. Tôi hiểu tâm trạng của Nhân nên cũng chẳng có ý kiến, nhưng tôi tự nghĩ, một cú đá đã giết chết cuộc đời của hai người: cái chết tức thời của Thành và cái chết dai dẳng của Nhân. Cú đá đã làm cho cuộc đời của Nhân qua một ngã rẽ để đi tới hố sâu thăm thẳm.

Chúng tôi sống bình lặng chẳng có gì đáng kể như thế cho đến biến cố 30 tháng 4 năm 1975.

********

4.

Những tin tức chiến sự dồn dập, Tây nguyên thất thủ, Huế mất, Đà Nẵng mất. Hàng trăm ngàn người trôi dạt trên biển từ miền Trung, lớp lớp người trên những con đường đầy xác chết. Cuộc chiến đi vào những giây phút cuối cùng. Sài gòn rung lên từng phút. Hai trái bom CBU nổ trên tỉnh lỵ Long khánh. Thành phố nhốn nháo. Thành phố lo âu. Thành phố chuẩn bị cuộc hỗn loạn đang chuẩn bị ập tới.

Tôi và Nhân vẫn bình chân như vại. Sáng sáng vẫn ngồi cà phê chờ xe đến rước đi làm. Thiên hạ bàn tán nhiều đến chuyện ở, chuyện đi. Hai thằng không quan tâm. Cũng đúng thôi, vì chúng tôi từng ở bên đó về, đã thấm những nỗi nhục nhằn, đã chấp nhận nhát búa của số phận. Không lẽ bây giờ lại trở lại tiếp tục chui đầu vào con đường cũ. Những ngày cuối cùng của tháng tư, công sở đóng cửa, hai đứa ngồi nhìn thiên hạ xôn xao lòng dửng dưng. Nhưngđến hôm 29.4 thì bỗng nhiên cả hai thấy sợ trước những lời đồn đoán. 

Nửa đêm hai đứa vùng dậy, đem hết giấy tờ, hình ảnh liênquan đến những năm tháng du học ở Pháp ra đốt. Nhân có cả mấy thùng lớn loại này, những hình ảnh thời Nhân còn được gọi là Super Man trên đất Pháp.  Ngọn lửa bập bùng suốt đêm. Tôi chỉ giữ lại mấy tấm hình tôi chụp chung với Thầy Alain và Monique, mấy bức tranh tôi vẽ ở trường Mỹ thuật tôi đã chọn lựa để đem về Việt Nam. Đó là những k vật tôi không thể đểmất được, dù tôi hiểu có thể sẽ đưa đến hậu quả không may.

Sài Gòn sau đó là một Sài Gòn khác. Những lều quán bỗng dưng mọc lên trên những con phố. Chủ quán là chị cave, cũng có thể là vợ của một anh sĩ quan nào đó, cũng có thể là một nghệ sĩ, một nhà báo không còn đượcsử dụng. Thiên hạ nháo nhào đổ ra đường kiếm sống, cuộc sống bị xáo trộn ghê gớm, chẳng còn phân biệt được đâu là ông, đâu là thằng của những con người cũ. 

Chúng tôi suốt ngày lê la hàng quán, đấu láo quên thờigian mà không biết rồi ngày mai sẽ ra sao. Có người rủ mở quán, có đứa kêu đi bán đủ thứ thứ tàn dư của xã hội cũ lọc lừa mấy chàng bộ đội khờ khạo, có thằng rủ đi bán thuốc Tây. Có đám rủ rê vượt biên. Có người nhỏ to tính chuyện tổ chức phản động. Chúng tôi phớt lờ tất cả. Cứ bán dần những thứ còn lại trong mớ đồ đạc sống qua ngày. 

Sống lây lất mấy tháng như vậy thì chúng tôi bắt đầu bế tắc. Công việc không có, áo quần, giày dép, mắt kính, sách vở, túi xách, vali lần lượt lên đường. Đùng một cái, đổi tiền lần thứ nhất (2.9.1975), chúng tôi chẳng có xu nào để đổi.. Bắt đầu những ngày khốn khó. Có nhiều bữa chỉ còn đủ tiền mua một lon gạo và một quả trứng. Hai thằng luộc rồi chia trứng làm bốn mảnh, tưới nhiều nước mắm, dành ăn cho hai bữa. Có ngày chỉ còn mấy miếng khoai mì mua được dọc đường…. Rồi không ai bảo ai, cả hai bắt đầu tản ra, mỗi thằng tự đi, tự kiếm ăn, tối về ngủ.  Nhân bỗng cọc cằn, dễ nổi nóng, tối ngủ cứ đá vào tường suốt đêm… Rồi tới một ngày, chúng tôi chia tay nhau, Nhân bỏ đi mất hút… 

Tôi bắt đầu đói dữ, có  ngày chỉ được trái chuối, có hôm chỉ được củ khoai. Người tôi xanh mướt, xuống sức dữ dội, chỉ còn39 ki lô. Tôi đành phải chấp nhận vào làm bưng bê trong quán cà phê ven đường của vợ chồng người bạn họa sĩ, kiếm cơm ăn. Nhưng cũng chỉ được mấy tháng, hai vợ chồng người bạn bị bắt vì có dính líu chính trị sao đó chẳng  biết. Tôi lại trôi như bèo. Bèo nhèo. Tôi cũng chẳng có chút tin tức gì về Nhân, không biết hắn sống ra sao. Mù tăm. 

Tôi đã đói tới ngày thứ ba, ba ngày chỉ có củ khoai lang và li nước đường uống lậu ở quán con Sáu ốm. Người mệt lả. Thèm đủ thứ.Thấy gì cũng muốn giật bỏ vào mồm. Mệt. Người cứ như đang say sóng. Nhưng cũngcứ phải ra đường, vì ra đường mới hi vọng có miếng ăn. Đói, nhưng cũng quần áo chỉnh tề, giày vớ đầy đủ, nghiêm chỉnh ra đường như một kẻ nhàn du. Ra đường đứng lơ ngơ, đi lơ ngơ không mục đích. Và trong khi lớ ngớ như thế, tôi phát hiện phía bên đống rác ở chân cầu Trương Minh Gỉảng có chiếc xe đạp ai bỏ đó.Tôi đứng gần hai tiếng đồng hồ phía bên này đường, không thấy ai đến lấy. Tôi chờ thêm thời gian nữa, rồi băng qua đường. Chỉ việc tỉnh queo dắt xe đi, làm như xe của mình là xong. Bán đi sống cũng được năm mười bữa. Tôi đã chạm tay vào ghi đông xe. Nhưng rồi rụt tay lại như phỏng lửa. Hình như có người nhìn tôi.  Hình như mọi người nhìn tôi. Hình như mọi người đang cùng chỉ tay vào tôi và đồng thanh: thằng ăn cắp.. thằng ăn cắp… Trong đầu tôi cũng vang lên điệp khúc đó: thằng ăn cắp.. thằng ăn cắp…

Tôi lại lủi vào chợ. Những món hàng bánh trái lèo tèo nhưng hấp dẫn tôi vì cơn  đói đang hành hạ. Có một chị đang bế con đi qua. Đứa bé khóc ngặt nghẽo đòi ăn quà. Chị ngồi xuống gánh chuối chiên. Những miếng chuối chiên vàng quyến rũ. Nước miếng chảy ra đầy miệng tôi. Tôi nghe có tiếng dòn rụm trong hàm răng, vị ngòn ngọt, beo béo tỏa trên đầu lưỡi. Thằng bé vẫn khóc. Người đàn bà đứng lên, đứa bé tay cầm miếng bánh, miệng vẫn khóc, người vùng vằng. Tôi chắc chắn trong đầu là thằng bé sẽ đánh rơi miếng bánh.Tôi lặng lẽ đi theo. Thằng bé làm rơi bánh thật. Tôi cúi người lẹ như sóc, lượm nhanh và tạt ngay vào con hẻm nhỏ. Miếng bánh tưởng sẽ ngon vô cùng vì cơn đói,nhưng vừa bỏ bánh vào miệng, hai dòng nước mắt chảy dài trên mặt tôi, nhữngmiếng bánh vỡ như những mảnh vỡ của thủy tinh xé nát buồng ngực tôi.

Tôi đau đớn và nhục nhã….

Tráng là người bạn học chung ở Văn khoa, hắn là chuyêngia đạp xích lô. Tôi tìm tới hắn, nhờ bảo lãnh thuê một chiếc ở hẻm Trần QuangDiệu. Tôi chưa chạy xe xích lô lần nào, nhưng nghĩ Tráng chạy được thì tôi cũng sẽ chạy được. Nghĩ đơn giản ai dè trèo lên mới thấy không phải dễ ăn. Tập vài vòng thì cũng tạm chạy được. Tráng bảo tôi chạy về Trần Quốc Toản, chỗ chợ cá sẽ có mối. Đúng là vậy, một bà mập béo và đôi thùng đầy nhóc cá lóc thụê tôichở về chợ Trương Minh Gỉang. Chỉ  chạy đến ngã sáu Lê Văn Duyệt là tôi đã đuối hơi. Chân bắt đầu nặng,  thở hổn hển. Tôi ráng đạp, nghĩ rằng chỉ qua tới Yên Đỗ, quẹo, qua được cầu là xong. Sẽ có bữa ăn cho trưa nay. Nhưng tôi không qua nổi cầu, ba bánh xe như có ai ghì lại, không lên nổi dốc, dù tôi đã gồng hết đôi chân. Chiếc xe như muốn tuột xuống, tuột xuống.Tôi không nhảy được, hai chân cố giữ bàn đạp, cả người cố gồng lên. Nhưng chiếc xe vẫn từ từ tuột. Tôi không chịu nổi nữa, ngực tôi nặng như đeo chì, hơi thở đứt quãng. Phen này thì chắc chết. Bà khách thấy xe tuột dần thì la lên chói lói, nhảy xuống cũng không xong vì kẹt hai thùng cá. Tôi buông xuôi, nhắm mắt chờ xe lật ngửa và thế là xong một đời. Nhưng, hình như có một sức mạnh thần kỳ, chiếc xe khựng lại một lát và đi lên như có ai đẩy. Tôi mở mắt nhìn lui thì thấy Nhân đang gò lưng đẩy xe từ phía sau, chiếc xe lên dốc rồi đổ dốc, an toàn đến chợ. Tôi gặp lại Nhân như thế đó, và Nhân đã cứu tôi lần nữa như đã cứu tôi một lần lúc thằng Hồ Lê bắt tôi chui qua hángthuở còn đi học…. 

<p class="yiv2259788221ydp1d56d133yiv8797465526ydpfc19d74ayiv1259854618ydp46152f9