Dịp tết Thanh Minh chúng tôi vào nghĩa trang Mai Dịch thắp hương cho người nhà.
Tôi lang thang khắp nghĩa trang tìm phần mộ của các nhà văn nhà thơ hoạ sỹ nhạc sỹ nhà văn hoá lớn của Việt nam. Tôi không thắp hương không khấn vái vì mình không phải là thân nhân tôi chỉ xin được nghiêng mình kính cẩn trước hương hồn của các bậc cha chú làm bổn phận của một kẻ hậu thế tri ân các bậc kỳ tài đã có nhiều đóng góp cho văn học nghệ thuật văn hoá nói chung của Việt nam hiện đang yên nghỉ tại đây.
Phạm Huy Thông sinh ngày 22 tháng 11 năm 1916 tại Hà Nội trong một gia đình nho học. Quê làng Đào Xá xã Bãi Sậy huyện Ân Thi tỉnh Hưng Yên. Sau khi tốt nghiệp cử nhân Luật tại Đại học Đông Dương năm 1937 ông sang Pháp du học đậu tiến sĩ luật khoa tiến sĩ văn khoa thạc sĩ sử – địa. Năm 1947 ông được Chính phủ Pháp phong hàm giáo sư. Ngoài ra ông còn là một nhà thơ được nhắc đến trong cuốn "Thi nhân Việt Nam" của Hoài Thanh và Hoài Chân. Ông từng đảm nhiệm các chức vụ: Hiệu trưởng Đại học Sư phạm Hà Nội(1956-1967) Phó chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Xã hội Viện trưởng Viện khảo cổ học (1968–1988) Tổng biên tập tạp chí Khảo cổ học. Năm 1987 ông được bầu Viện sĩ nước ngoài Viện hàn lâm Khoa học Cộng hoà Dân chủ Đức. Ông mất ngày 23 tháng 6 năm 1988 tại Hà Nội. Năm 2000 ông được nhận giải thưởng Hồ Chí Minh về công trình nghiên cứu khảo cổ (Con Moong trống đồng Đông Sơn và 4 bài dẫn luận thời đại Hùng Vương). Tên của ông được đặt cho một con đường vòng quanh hồ Ngọc Khánh tại Hà Nội.


Ông sinh năm 1924 ở Luông Phabăng (Lào). Quê ở làng Vũ Thạch (nay là phố Bà Triệu) Hà Nội. Cha là viên chức Sở bưu điện Đông Dương có sang làm việc ở Lào. Ông thuộc thế hệ các nghệ sỹ trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp. Ông viết sách khảo luận triết học viết văn làm thơ soạn nhạc soạn kịch viết lý luận phê bình. Ông được nhà nước phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt I năm 1996. Sau Cách mạng tháng Tám Nguyễn Đình Thi làm Tổng thư ký Hội Văn hóa cứu quốc. Từ năm 1958 đến năm 1989 làm Tổng thư ký Hội nhà văn Việt Nam. Từ năm 1995 ông là Chủ tịch Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật. Ông mất năm 2003 tại Hà Nội.


Ông sinh năm 1902 tại làng Lương Điền (nay là Thanh Xuân) huyện Thanh Chương tỉnh Nghệ An trong một gia đình nho học. Thân phụ ông là Đặng Nguyên Cẩn đỗ phó bảng tham gia phong trào Duy Tân cùng với Phan Bội Châu Phan Chu Trinh Ngô Đức Kế Huỳnh Thúc Kháng bị thực dân Pháp bắt đày đi Côn Đảo. Sau khi thân phụ bị bắt ông về sống tại quê nội từ năm 6 tuổi và được bà nội nuôi dưỡng giáo dục lòng yêu nước học chữ Hán và chữ Quốc ngữ theo chương trình Đông kinh nghĩa thục. Năm 1925 khi đang theo học tại Trường Cao đẳng Sư phạm Đông Dương - Hà Nội ông tham gia phong trào đòi "ân xá" Phan Bội Châu truy điệu Phan Chu Trinh đồng thời gia nhập đảng Tân Việt. Năm 1928 ông trở thành giáo sư Trường Quốc học Huế. Năm 1929 khi đảng Tân Việt tan vỡ ông bị xử một năm tù treo sau đó lại trở về dạy học ở Huế. Ông lại bị bắt năm 1930 và bị xử 3 năm vì tham gia phong trào Cứu tế đỏ. Sau khi ra tù Đặng Thai Mai ra Hà Nội sống và dạy học tại trường tư Gia Long (1932). Đến năm 1935 Đặng Thai Mai cùng với các bạn là Phan Thanh Hoàng Minh Giám Võ Nguyên Giáp... lập ra Trường tư thục Thăng Long. Năm 1936 ông cùng Nguyễn Văn Tố Vương Kiêm Toàn Phan Thanh Võ Nguyên Giáp... thành lập ra Hội truyền bá chữ Quốc ngữ. Ông bắt đầu hoạt động văn hóa thời kì Mặt trận Dân chủ (1936-1939) viết báo và sáng tác một số truyện ngắn bằng tiếng Pháp nêu gương các chiến sĩ cách mạng buổi đầu (Cô câm đã lên tiếng Người đàn bà điên Chú bé...). Năm 1939 ông ứng cử Viện dân biểu Trung Kỳ. Năm 1944 ông cho ra đời tác phẩm Văn học khái luận - cuốn sách đầu tiên trình bày có hệ thống nhiều vấn đề lí luận văn học theo quan điểm tiến bộ như điển hình và cá tính nội dung và hình thức truyền thống và hiện đại. Đặng Thai Mai cũng là người có công giới thiệu văn học hiện đại Trung Quốc qua các công trình Lỗ Tấn (1944) Tạp văn Trung Quốc (1944) các bản dịch kịch Lôi Vũ Nhật xuất của Tào Ngu Lịch sử văn học Trung Quốc hiện đại tập 1 (viết năm 1958). Sau Cách mạng tháng Tám ông giảng dạy ở bậc đại học và nghiên cứu phê bình văn học. Năm 1946 ông được bầu làm đại biểu Quốc hội khoá I Ủy viên Ban dự thảo Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đồng thời là Bộ trưởng Bộ giáo dục trong Chính phủ liên hiệp. Cũng trong năm này ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương. Trong các giai đoạn về sau ông lần lượt giữ các chức vụ về văn hoá và giáo dục như Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh Thanh Hóa Hội trưởng Hội văn hóa Việt Nam Giám đốc Trường dự bị đại học và Sư phạm cao cấp Liên khu IV Giám đốc trường Đại học Sư phạm Hà Nội Viện trưởng Viện văn học Chủ tịch Hội liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam. Ông cũng cho ra đời nhiều tác phẩm có giá trị như Văn thơ cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ 20 (1960) Trên đường học tập và nghiên cứu (tập 1 1959 tập 2 1965 và tập 3 1973). Đặng Thai Mai có vốn nho học uyên thâm và am hiểu văn học cổ điển Pháp văn học hiện đại Trung Quốc văn học cận đại Việt Nam. Đặng Thai Mai là nhà lí luận phê bình sắc sảo. Năm 1982 ông được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh. Năm 1996 ông lại được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh (đợt I) về các công trình nghiên cứu văn học Việt Nam và văn học thế giới. Đặng Thai Mai mất năm 1984.


Câu nói nổi tiếng: "Nhà văn tồn tại ở tác phẩm. Không có tác phẩm thì nhà văn ấy coi như đã chết."


Cuối năm 1944 Văn Cao gặp lại Vũ Quý một Việt Minh mà ông đã quen biết trước đó. Vũ Quý thuyết phục ông tham gia Việt Minh với nhiệm vụ đầu tiên là sáng tác một hành khúc. Văn Cao đã sáng tác ca khúc đó trong nhiều ngày tại căn gác số 171 phố Mongrant và đặt tên cho tác phẩm là Tiến quân ca. Tiến quân ca được in trên trang văn nghệ của báo Độc Lập tháng 11 năm 1944. Ngày 13 tháng 8 năm 1945 Hồ Chủ Tịch đã chính thức duyệt Tiến quân ca làm quốc ca của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Văn Cao tiếp tục tham gia hoạt động cùng Việt Minh. Ông viết và phụ trách ấn loát cơ quan Phan Chu Trinh in sách báo truyền đơn. Vào cuối mùa xuân năm 1945 Văn Cao đã có mặt trực tiếp tham dự vụ ám sát nổi tiếng đó là vụ giết ông Đỗ Đức Phin tại Hải Phòng bị Việt Minh kết án là Việt gian thân Nhật. Sau vụ ám sát Văn Cao tạm lánh một thời gian để tránh mật thám Pháp và Nhật theo dõi. Trở về Hà Nội Văn Cao còn tiếp tục tham gia vụ ám sát Cung Đình Vận ở gần rạp hát cuối phố Huế nhưng không thành công do ông bắn trượt. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 Văn Cao làm phóng viên và trình bày cho báo Lao Động. Năm 1946 Văn Cao được cử cùng Hà Đăng Ấn chuyên chở vũ khí và tiền vào mặt trận Nam Bộ. Sau đó chính thức được mời tham gia Hội Văn hoá Cứu quốc và được bầu là Uỷ viên Chấp hành Văn Cao hoạt động ở liên khu III phụ trách tổ điều tra của công an Liên khu và viết báo Độc Lập. Đầu năm 1947 ông được cử phụ trách một bộ phận điều tra đặc biệt của công an Liên khu 10 ở biên giới phía bắc. Tại đây ông được giao nhiệm vụ kết nghĩa với vua Mèo để lập ra một phòng tuyến bảo mật chống sự tràn sang của quân Tưởng khi thua trận. Ở Lào Cai Văn Cao còn mở một quán bar để làm địa điểm theo dõi[6]. Tháng 3 năm 1948 Văn Cao được kết nạp Đảng Cộng sản Đông Dương. Cuối năm 1949 Văn Cao thôi làm báo Văn Nghệ chuyển sang phụ trách Đoàn Nhạc sĩ Việt Nam. Thời kỳ này ông tiếp túc sáng tác các ca khúc nổi tiếng khác như Làng tôi (1947) Ngày mùa (1948) Tiến về Hà Nội (1949)... và đặc biệt là Trường ca Sông Lô năm 1947. Năm 1952 Văn Cao sang Liên Xô nghiên cứu về âm nhạc. Theo Hoàng Minh Chí thì chuyến đi này làm Văn Cao thất vọng về Chủ nghĩa cộng sản. Năm 1954 trong khi diễn ra trận Điện Biên Phủ Văn Cao vẽ một bức tranh lập thể miêu tả một cậu bé thổi sáo bằng hai mồm. Một cái được vẽ từ cách nhìn thẳng một cái được vẽ bằng cách nhìn nghiêng. Làm nền phía sau cậu bé là đông nghịt những con người trong một tiết tấu đầy chuyển động của nhịp chiến tranh. Bức tranh này cùng với bức Cây đàn đỏ vẽ một người bộ đội ôm "Cây đàn chủ nghĩa" mà Văn Cao gửi tham gia Triển lãm Hội hoạ ở Liên khu Ba ông bị quy kết: hình thức lai căng nội dung thì có vấn đề về tư tưởng!
Sau hiệp định Genève 1954 Văn Cao hồi cư về Hà Nội làm việc cho Đài Phát thanh nhưng rất ít sáng tác. Năm 1955 ông cầm bút trở lại viết bài cho đặc san Giai Phẩm. Tháng 2 năm 1956 bài thơ Anh có nghe không được đăng trên Giai phẩm mùa Xuân. Bài thơ này bị Xuân Diệu đánh giá là "lập lờ ấp úng bí hiểm hai mặt tuy nhiên công chúng cũng hiểu nó muốn nói gì". Văn Cao cùng các nghệ sĩ của hai tờ báo Nhân Văn và Giai Phẩm khi đó chủ chương đòi hỏi tự do văn nghệ sáng tác. Đến tháng 12 năm 1956 thì cả hai tờ báo đều bị đình bản. Như những nghệ sĩ khác của nhóm Nhân Văn-Giai Phẩm tuy có muộn hơn đến tháng 7 năm 1958 Văn Cao phải đi học tập chính trị. Tên tuổi của Văn Cao hầu như không còn xuất hiện trên các tạp chí văn nghệ ở Hà Nội. Những năm sau đó Văn Cao tiếp tục bằng nhiều công việc như viết nhạc không lời cho các truyện phim và truyện kịch trang trí sân khấu cho các đoàn kịch vẽ quảng cáo các báo vẽ nhãn diêm... Các tác phẩm của ông cũng như các ca khúc lãng mạn tiền chiến khác không được trình diễn ở miền Bắc trừ bài quốc ca. Giai đoạn này Văn Cao hầu như không còn sáng tác. Đến cuối năm 1975 ông viết Mùa xuân đầu tiên nhưng ca khúc bị phê bình là không đi đúng đường lối của Đảng không phục vụ cho Cách Mạng vì thế bản nhạc mới phát hành đã bị tịch thu. Nhưng các chương trình Việt Ngữ tại Moskva vẫn cho trình bày bài hát và nhờ vậy Mùa xuân đầu tiên đã không bị lãng quên. Năm 1981 Việt Nam phát động phong trào cả nước thi sáng tác quốc ca nhưng sau đó không công bố kết quả cuộc thi cũng không được nhắc lại. Bài Tiến quân ca vẫn là quốc ca của Việt Nam. Cho đến cuối thập niên 1980 nhờ chính sách Đổi mới của Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh các tác phẩm của Văn Cao cùng những nhạc sĩ tiền chiến khác được biểu diễn trở lại. Ngày 10 tháng 7 năm 1995 sau một thời gian mắc bệnh ung thư phổi Văn Cao mất tại bệnh viện Hữu Nghị Hà Nội.
So với hai nhạc sỹ Việt Nam nổi tiếng khác là Phạm Duy khoảng 1000 các khúc và Trịnh Công Sơn với 600 ca khúc Văn Cao sáng tác không nhiều. Sự nghiệp âm nhạc của Văn Cao được chia làm hai mảng chính: tình ca và hùng ca. Ngoài ca khúc ông còn viết một số tác phẩm khí nhạc dành cho piano như Sông Tuyến Biển đêm Hàng dừa xa... tổ khúc giao hưởng Anh bộ đội cụ Hồ... Tình ca Bìa bản nhạc Bến Xuân do nhà Tinh Hoa tái bản lần thứ ba năm 1954 Trong giai đoạn sáng tác đầu tiên giống như những nhạc sỹ tiền chiến khác Văn Cao viết các nhạc phẩm trữ tình nhưng ít ảnh hưởng bởi chủ nghĩa lãng mạn Pháp mà mang nặng âm hưởng phương Đông. Từ ca khúc đầu tay Buồn tàn thu Văn Cao đã sử dụng ngũ cung để viết về một hình ảnh quen thuộc trong nghệ thuật châu Á: người phụ nữ đan áo ngồi chờ đợi. Sau Buồn tàn thu ông còn viết hai ca khúc khác về mùa thu là Thu cô liêu và Suối mơ. Trong đó Suối mơ vốn là một đoạn của bản Trương Chi 1 được Văn Cao phát triển thêm. Bản Trương Chi nổi tiếng sau là Trương Chi 2. Bên cạnh đề tài mùa thu Văn Cao cũng viết hai ca khúc nổi tiếng khác về mùa xuân là Cung đàn xưa và Bến xuân. Nhạc phẩm Bến xuân có sự tham gia của Phạm Duy nhưng về Văn Cao sau viết lại lời mới cho ca khúc này và đặt tên Đàn chim Việt. Ngay từ những ca khúc đầu tiên Văn Cao đã dành được thành công. Buồn tàn thu được biểu diễn trên các sân khấu hát rong và trên Đài Phát thanh Sài Gòn trong những năm 1944-1945 lúc tân nhạc còn mới phôi thai nên trở nên phổ biến. Suối mơ Bến xuân được Phạm Duy đánh giá là cực điểm của lãng mạn tính trong ca nhạc Việt Nam. Nhưng hai tình khúc của Văn Cao được đánh giá cao hơn cả là Thiên Thai và Trương Chi. Bản Thiên Thai được nhà xuất bản Tinh Hoa ở Huế in năm 1944 Văn Cao tự nhận mình là "Người sông Ngự" ghi: "Ảnh hưởng sông nước khúc Thiên Thai cổ trong khung cảnh huyền diệu của Đường Thi với hai truyện Thiên Thai và Đào Nguyên. Người sông Ngự đã lạc mất cảm xúc rồi!". Lời bài hát được đề là của Văn Cao Hoàng Thoái và Phạm Duy cho rằng Hoàng Thoái là bí danh của Đỗ Hữu Ích một người bạn của Văn Cao. Sử dụng ngũ cung để viết về một câu chuyện cổ Thiên Thai có tới 94 khuông nhạc vừa mang tính trường ca vừa mang tính nhạc cảnh. Năm 2001 khi phim Người Mỹ trầm lặng được thực hiện Thiên Thai được sử dụng làm nhạc nền của bộ phim. Giống như Thiên Thai Trương Chi cũng dựa trên tích chuyện cổ nhưng không phải là một truyện ca mà manh tính tự sự. Ca khúc này còn một đoạn lời nữa mà các ca sỹ thưởng không trình diễn: Từ ngày trăng mơ nước in thành thơ Lạc loài hương thu thoáng vương đường tơ.... Hình ảnh Trương Chi trong bài hát cũng thường được so sách với hình ảnh của chính Văn Cao.
Ngay từ khi còn trong nhóm Đồng Vọng ở Hải Phòng Văn Cao đã viết các ca khúc hướng đạo khoẻ khoắn. Cũng giống như các nhạc sĩ tiến chiến khác Văn Cao sử dụng đề tài lịch sử để thể hiện tình ái quốc trong Gò Đống Đa Hò kéo gỗ Bạch Đằng Giang... Ngoài Tiến quân ca ông còn sáng tác các hành khúc khác như Tiến về Hà Nội Thăng Long hành khúc ca. Tham gia Việt Minh Văn Cao sáng tác các ca khúc Chiến sĩ Việt Nam Công nhân Việt Nam Không quân Việt Nam... Năm 1947 sau chiến thắng sông Lô Văn Cao viết Trường ca Sông Lô ca khúc ghi dấu ấn trong lịch sử tân nhạc. Phạm Duy viết: "Đó là tác phẩm vĩ đại... chẳng thua bất cứ một tuyệt phẩm nào của nhạc cổ điển Tây phương... Bài này đánh dấu sự trưởng thành của Tân nhạc". Cũng theo ý kiến của Phạm Duy Trường ca sông Lô phải là đỉnh cao nhất của nhạc kháng chiến nói riêng của tân nhạc Việt Nam nói chung và Văn Cao là "cha đẻ" của hùng ca trường ca Việt Nam. Sau năm 1954 các ca khúc của Văn Cao trừ Tiến quân ca không được trình diễn ở miền Bắc. Nhưng ở miền Nam các ca sĩ hàng đầu của Sài gòn như Thái Thanh Khánh Ly Hà Thành vẫn trình diễn và ghi âm nhạc phẩm của Văn Cao. Ca khúc Không quân Việt Nam được sử dụng làm bài hát chính thức của Không lực Việt Nam Cộng hòa. Ghi công Năm 2005 tên của ông được đặt tên cho một đoạn phố của Hà Nội nối tiếp phố Liễu Giai đoạn giao với Đội Cấn đến đường Hoàng Hoa Thám dài 540m rộng 50m Nhận xét về Văn Cao “ Trong âm nhạc Văn Cao sang trọng như một ông hoàng. Trên cánh đồng ca khúc tôi như một đứa bé ước mơ mặt trời là con diều giấy thả chơi. Âm nhạc của anh Văn là âm nhạc của thần tiên bay bổng. Tôi la đà đi giữa cõi con người. Anh cứ bay và tôi cứ chìm khuất. Bay và chìm trong những thân phận riêng tư... (Trịnh Công Sơn)

Nhạc sĩ Trần Hoàn (1928-2003) là tác giả của nhiều ca khúc nổi tiếng như Sơn nữ ca Lời người ra đi Giữa Mạc Tư Khoa nghe câu hò ví dặm... Ông còn từng là Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin Việt Nam. Trần Hoàn tên thật là Nguyễn Tăng Hích sinh năm 1928 quê quán Hải Lăng Quảng Trị. Bố của ông là người rất yêu thích âm nhạc và sành sỏi về ca Huế hát bội nhạc Tây. Trần Hoàn tự học nhạc và bắt đầu sáng tác từ năm 16 17 tuổi. Năm 1935 Trần Hoàn theo học tại Quốc học Huế. Ông bắt đầu nối tiếng với ca khúc Sơn nữ ca viết năm 20 tuổi khi đang ở chiến khu Quảng Bình. Trần Hoàn tham gia kháng chiến đến ngày hoà bình lập lại ông về làm giám đốc Sở Văn hóa Hải Phòng. Năm 1964 ông trở lại chiến trường Bình Trị Thiên với bút danh Hồ Thuận An thời gian này ông sáng tác những bài hát như Tiếng hát trên Gio Cam giải phóng Lời ru trên nương... Sau 1975 Trần Hoàn là trưởng Ty Thông tin Bình Trị Thiên. Sau đó ông giữ các chức vụ trưởng ban Tuyên huấn Thành ủy Hà Nội bộ trưởng Bộ Thông tin bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông Tin cho đến ngày nghỉ hưu rồi Phó ban Văn hóa - Tư tưởng Trung ương. Những sáng tác của Trần Hoàn khá phong phú từ những ca khúc thời kỳ đầu mang tính trữ tình như Sơn nữ ca Lời người ra đi... cho tới những bài hát Lời ru trên nương Tình ca mùa xuân Nắng tháng Ba Một mùa xuân nho nhỏ... và mang đậm chất dân ca như Giữa Mạc Tư Khoa nghe câu hò ví dặm Lời Bác dặn trước lúc đi xa... Trần Hoàn còn là một trong những người có liên quan ít nhiều tới vụ Nhân văn - Giai phẩm và nhiều người cho rằng ông đã trực tiếp đánh nhạc sĩ Văn Cao. Ông mất ngày 23 tháng 11 năm 2003.

Nguyễn Phan Chánh sinh ngày 21 tháng 7 năm 1892 tại Thạch Hà nay là phường Tân Giang thị xã Hà Tĩnh tỉnh Hà Tĩnh. Năm 1922 ông tốt nghiệp Trường Cao đẳng Sư phạm Đông Ba tại Huế nhưng không theo nghề dạy học. Năm 1925 Nguyễn Phan Chánh là sinh viên khóa đầu tiên của Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Ông tốt nghiệp năm 1930. Nguyễn Phan Chánh mất năm 1984 được an táng tại Nghĩa trang Mai Dịch. Ông được Nhà nước Việt Nam truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh đợt một năm 1996.
Ông được coi là người chiết trung phương pháp tạo hình phương Tây và họa pháp tranh lụa phương Đông. Trong cuộc Đấu xảo thuộc địa 1931 tại Paris những tác phẩm đầu tiên của Nguyễn Phan Chánh đã gây được tiếng vang lớn. Ông được xem như một trong những họa sĩ tiêu biểu cho nền hội họa Đông Dương. Với những thành tựu trong sự nghiệp sáng tác Nguyễn Phan Chánh được mời tham gia giảng dạy Mỹ thuật tại một số trường học trong đó có Trường Bưởi và Trường Đại học Mỹ thuật Hà Nội (1955). Ông đã góp phần đào tạo nhiều thế hệ họa sĩ Việt Nam sau này. Suốt cuộc đời làm nghệ thuật Nguyễn Phan Chánh đã để lại một sự nghiệp đồ sộ với số lượng ước khoảng trên 170 tác phẩm. Ông là người đang giữ kỷ lục về số tác phẩm được trưng bày tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Có hai phần mộ không làm ảnh trên bia mà làm bức phù điêu đó là mộ của nhạc sỹ Văn Cao và nhà thơ Xuân Diệu. Bia của nhạc sỹ Nguyễn Xuân Khoát trước đây cũng làm phù điêu hiện nay thấy tấm bia mới trên đó lại là ảnh.
(Tư liệu: Wikipedia tiếng Việt)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét