Bài 22
Mười bài thơ năm
1814 vẫn chưa đủ, Tốn Phong làm tiếp mười bài nữa.
Nhất Uyên dịch nghĩa, bài 22:
Kiếp đời trôi nổi như
bèo nước, sáu năm xưa (1807) đã từng gặp gỡ nàng,
Tốn Phong đã nhiều lần
đến thăm Cổ Nguyệt Đường nơi nàng sinh trưởng.
Gian phía trái là nơi
tiếp khách, có chậu hoa nở rộ tươi mát nàng mới tưới hương còn ẩm,
Tiếng chim ríu rít
giữa sân bên hòn non bộ,
Tốn Phong tả nước
trong hòn non bộ thành khói bốc lên cho thi vị chăng ?
Khí hậu làng Nghi Tàm có đủ lạnh để khói bốc
như thế chăng, tôi (TS Phạm Trọng Chánh) ngờ rằng phía sau hòn non bộ đặt vài
ông táo để nấu nước, pha trà đun củi khói bốc lên. Hai chữ tả viện cho phép ta
suy diễn: ngôi Cổ Nguyệt Đường được Tốn Phong gọi là đình, hay viện, khá lớn
cất theo hình chữ khẩu (hình vuông) có tả viện nơi tiếp khách, bán giấy bút cho
học trò, tất nhiên có hữu viện là phòng ngủ, khuê phòng, thư phòng, với gỗ chạm
khắc cho ánh sáng đủ vào. Tiền viện là gian nhà dạy học và hậu viện là nơi bàn
thờ thờ phụng. Chính giữa là sân gạch có hòn non bộ, chậu kiểng, khi cần dùng
có thể biến thành sân phơi thóc. Gian tả viện và tiền viện phía trong không có
vách để có ánh sáng, có tấm phản cho thầy ngồi, học trò trải chiếu ngồi chung
quanh. Gian tả viện có một vài bộ trường kỷ (ghế dài chạm xa cừ), có bàn đặt
bình trà. Gian nhà thờ phía sau, có cửa ván, khi có giổ chạp hay tang lễ mở cửa
ra. Con cháu, học trò đông đúc đứng tràn ra sân.
So với ngày trước,
nàng có gầy đôi chút
Làm cho cốt cách nàng
thanh thoát.
Sắc đẹp nàng mặn mà hơn xưa, mười phân vẹn
mười.
Chỉ tiếc rằng sáu năm
qua đi ở không viết thư cho nhau,
Nay gặp lại người cũ,
hoa xưa lòng vui mừng xiết bao.
*
Nhất
Uyên diễn thơ, bài 22:
Gặp gỡ bèo hoa trước sáu năm,
Nguồn đào mấy độ đã về thăm.
Hoa đơm tả viện hương còn ẩm,
Chim hót non hàn khói biếc dâng.
Thanh thoát vẻ mai gầy cốt cách,
Rỡ ràng xuân sắc vẹn mười phân.
Đã lâu đi ở không tin tức,
Người cũ hoa xưa gặp gỡ mừng.
Nguồn đào mấy độ đã về thăm.
Hoa đơm tả viện hương còn ẩm,
Chim hót non hàn khói biếc dâng.
Thanh thoát vẻ mai gầy cốt cách,
Rỡ ràng xuân sắc vẹn mười phân.
Đã lâu đi ở không tin tức,
Người cũ hoa xưa gặp gỡ mừng.
*
Nhất Uyên phiên âm Hán Việt, bài 22:
Nhất Uyên phiên âm Hán Việt, bài 22:
Bình ngạnh tương phùng lục tải tiền,
Đã tằng kỷ độ phỏng đào nguyên.
Hoa khai tả viện hương do thấp.
Điểu lộng hàn sơn thủy dục yên.
Nhất dạng mai trang thanh triệt cốt
Thập phần xuân sắc hảo liên thiên.
Chỉ kim quy khứ vô tiêu tức,
Y cựu đào hoa nhận túc duyên.
*
Ngân Triều soạn bản
chữ Hán, bài 22:
苹 梗 相 逢 六 載 前
拖 曽 幾 渡 訪 桃 源
華 開 左 院 香 由 濕
鳥 弄 寒 山 水 浴 煙
一 樣 梅 莊 青 澈 骨
十 分 春 色 好 連 篇
只 今 歸 去 無 消 息
依 舊 桃 華 認 宿 縁,
*
Ngân Triều diễn thơ,bài 22:
Bèo nước lênh đênh
những sáu năm,
Đã từng mấy bận đến tìm
thăm .
Dải hoa tươi thắm hương
còn quyện,
Chim hót, hòn non khói
tỏa lan.
Cốt cách mai gầy thanh quý tuyệt,
Cốt cách mai gầy thanh quý tuyệt,
Xuân dung sắc sảo vẹn mười
phân.
Hôm nay tái ngộ, mà
không biết,
Vẫn vậy, hoa đào(1)
nhận túc căn. (2)
Ngân Triều
*
(1) Tốn Phong mượn ý 2 câu thơ của Thôi Hộ:
Nhân diện bất tri hà xứ khứ,
Đào hoa y cựu tiếu Đông phong.
人 面 不 知 何 處 去
*
(1) Tốn Phong mượn ý 2 câu thơ của Thôi Hộ:
Nhân diện bất tri hà xứ khứ,
Đào hoa y cựu tiếu Đông phong.
人 面 不 知 何 處 去
桃 華 依 舊 笑 東 風
Mặt người không biết đi đâu mất
Vẫn vậy, hoa đào cười gió Đông.
Mặt người không biết đi đâu mất
Vẫn vậy, hoa đào cười gió Đông.
Thể hiện một tâm trạng u hoài trong ngỡ ngàng, tiếc nuối vì
không gặp lại giai nhân, ngỡ là nàng đã đi lấy chồng.
(2),Túc căn 宿 根, cây
cối khô héo trong mùa Đông, còn rể dưới đất, đến mùa Xuân tiếp theo, đâm chồi
nẫy lộc, gọi là túc căn hay túc duyên.
Ở đây, nhận túc duyên, 認 宿 縁, có thể hiểu, Hồ Phi Mai có duyên mới, sắp thành duyên cùng quan Tham Hiệp, Trấn Yên Quảng, Trần Phúc Hiển.
Ở đây, nhận túc duyên, 認 宿 縁, có thể hiểu, Hồ Phi Mai có duyên mới, sắp thành duyên cùng quan Tham Hiệp, Trấn Yên Quảng, Trần Phúc Hiển.
***
Nguồn: Theo TL Chân dung HXH qua 31 bài thơ tình của Tốn Phong/ Ngân Triều hiệu đính.
Nguồn: Theo TL Chân dung HXH qua 31 bài thơ tình của Tốn Phong/ Ngân Triều hiệu đính.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét