Thứ Năm, 15 tháng 12, 2016

Mời ạn xem bài 10/ Chân dung HXH qua 31 bài thơ tình của Tốn Phong


Bài 10: Khi làm quan ở đền đài, hay sống giang hồ nay đây mai đó đều có thời. Khi thời đến thì như cánh chim Bằng bay cao vút chín tầng trời. Gặp gỡ nàng, người có con mắt xanh nhìn đời lưu lại những bài thơ mùa xuân. Hẹn hò với lòng son trong ánh nắng chiều tà. Chèo thuyền bằng gỗ quế bơi theo dấu chim hạc đen, tôi như chàng Lưu Thần từ Đào Nguyên nơi mây biếc trở về. Nơi trường đình từ biệt, chia tay nếu nàng còn nhớ, hãy ghi lấy địa chỉ tôi, phía Nam Châu Hoan Nghệ Tĩnh, huyện Thạch Hà là quê tôi.
Bài 10
Đền đài sông nước cũng theo thời,
Thời đến Bằng bay chín cửa trời.
Gặp gỡ mắt xanh  xuân hát khúc,
Hẹn lòng son sắc nắng vàng trôi.
Ruổi rong huyền hạc, bơi chèo quế,
Từ cõi hoa đào mây biếc trôi.
Từ biệt trường đình nàng hãy nhớ :
Hoan Nam, huyện Thạch chốn quê tôi.
 *
Nguyên tác phiên âm Hán Việt
Lăng miếu giang hồ các hữu thì,
Thì lai bằng cách cửu thiên phi.
Tao phùng thanh nhãn lưu xuân khúc,
Đề đính đan tâm đối tịch huy.
Quế trạo mỗi tòng huyền hạc tế,
Đào châu nguyên tự bích vân quy.
Trường đình biệt hậu như tương ức,
Ký thủ Hoan Nam, Thạch ẩn nhi.
*
Chú thích:
Thanh nhãn:
青眼mắt xanh, người có mắt suy xết việc đời. Theo Tấn Thư, Nguyễn Tịch người đời Tấn khi tiếp khách, nếu người tốt, tri kỷ mắt ông xanh, nếu là người xấu thì mắt ông trắng.
Huyền hạc: 玄鶴theo truyền thuyết, chim hạc sống hai nghìn năm thì lông biến thành màu xanh, lại sống nghìn năm nữa thì lông biến thành màu đen gọi là huyền hạc tượng trưng người ẩn dật. Ngày nay thì ta biết chuyện này không đúng vì Hạc có nhiều nơi trên thế giới có giống lông trắng, lông xanh, lông đen, lông hồng, lông xám, có giống pha nhiều màu.
Trường đình: đình trạm, trên đường cái quan, năm dậm thì dựng cái đình nhỏ gọi là đoản đình, mười dậm thì dựng cái đình lớn gọi là trường đình, để ngựa trạm và người công sai đưa công văn,, người đi đường dừng chân nghỉ ngơi. Trường đình Trung Quốc có từ thời Đường, có lẽ do ý kiến của Trần Huyền Trang sau khi đi Ấn Độ về kể chuyện những đình trạm thời A Dục Vương
*
Bản chữ Hán, Ngân Triều soạn
Bài 10
陵廟江湖各有時
時來鵬隔九天飛
遭逢青眼留春曲
題訂丹心薱夕揮
桂掉每從玄鶴
桃州源自碧澐歸
長亭别後如相憶
記取驩南石隱而
*
Ngân Triều diễn thơ

Ngựa xe, trôi nổi định do thời.
Thời đến bằng tung cánh ngất trời.
Gặp gỡ mắt xanh Xuân đắm đuối,
Hẹn lòng hoài vọng nắng chiều rơi!
Thuyền chèo gỗ quế tìm tiên cảnh,
Mây biếc Đào Nguyên mới khứ hồi.
Từ biệt trường đình xin hãy nhớ,
Thạch Hà, Nghệ Tĩnh, ấy quê tôi.

Ngân Triều


Nguồn: TL Chân dung HXH qua 31 bài thơ tình của Tốn Phong, 
TS Phạm Trọng Chánh
Trích NBTX, quyển 5 chương VI của Ngân Triều

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét