Tô loøng
Thô Thaùi Hy
*Cảm tác nhân đọc
“Còn Vương ”của NgânTriều
Long lanh dòng sông,
dòng sông đằm thắm. [1]
Chiếc thuyền tình đắm
đuối mộng, lênh đênh!
Ai hiểu được những thác ghềnh sâu thẳm?[3]
Tiếc chiếc thuyền, sầu cay đắng, mông mênh…
♪
Sóng tóc em dài đong đầy
sóng nhớ, [5]
Tiếng tơ lòng, tơ còn đó,
nỗi đau!
Thà sóng mãi xao! Hiếu -
tình sao nỡ? [7]
Đá đã mòn…mà còn ngỡ
chiêm bao…
♪
"Biển Xuân xanh, nước triều Thanh, diễm tuyệt"![9]
Hai dòng đời hay chỉ quyết Ngân thôi?
Tưởng bóng xa xôi, bồi hồi duyên kiếp, [11]
Biêng biếc dòng sông,
tha thiết, ngậm ngùi!
***
Lời bình, Nguyễn
Nam
*“Bài thơ cảm đề
“Tơ lòng” của bạn Thái Hy rất tuyệt
vời!”
Trước hết về đại thể, anh đã khéo léo uốn
lượn ngòi bút, gò theo chuyện tình “Còn vương”của Ngân Triều, một chuyện tình
có thể là của riêng anh (nhân vật trữ tình là “tôi” và anh đã nói về chuyện
“cái tôi đáng ghét” đó) nhưng khái quát lên, chuyện tình đó rất thi vị, phổ biến,
rất chung cho một số đông của các bạn trẻ và tôi nữa. Như thế, trong một chừng
mức nào đó, cái tôi đã thoát ly ra khỏi hoàn cảnh riêng tư của cuộc đời tác giả
như thường thấy ở một số tác phẩm văn học. “Tôi”
có thể là tác giả; là nhân vật trữ tình hay nói cách khác không phải là tác giả.
Cũng như “Tôi kéo xe” của Tam Lang,
tác giả không hề đi kéo xe.
[I]Khổ thơ thứ nhất:
Long lanh dòng
sông, dòng sông đằm thắm,[1]
Chiếc
thuyền tình đắm đuối mộng, lênh đênh!
Ai biết được những
thác ghềnh sâu thẳm?[3]
Tiếc chiếc thuyền, sầu cay đắng,
mông mênh
Câu [1]“Long lanh dòng sông”là hình ảnh dòng
sông có ánh sáng phản chiếu trên mặt nước với những gợn sóng nhỏ lấp lánh, tạo
vẻ sinh động, ngoạn mục.
“Dòng sông đằm thắm”là hình ảnh dòng
sông êm ả, hiền hòa; hay phẩm chất của một người, có tình cảm nồng nàn, sâu lắng,
dễ thương.
“Long lanh dòng
sông” còn
hàm ý đôi mắt đẹp, sắc sảo, duyên dáng, khả ái của nhân vật trữ tình trong tác
phẩm:
Mắt em là một dòng sông,
Thuyền anh bơi lặn
trong dòng mắt em. Ca dao
(Chiếc thuyền tình của anh đã đắm, hay anh đã “chết”,
trong dòng mắt em. Nghệ thuật so sánh, cực tả đôi mắt đẹp như thế, thật là tuyệt
vời).
Do đó, điệp ngữ “dòng sông” không chỉ là nghĩa tường minh mà còn là nghĩa hàm ẩn, gợi
tả, trữ tình về một nét đẹp cổ điển, lãng mạn của một người thục nữ.
Câu[2]: là một câu cảm thán, nhắc lại những
tình tiết trong tác phẩm. Với ý nghĩa như thắc mắc, như gợi lên một tiền đề về
mức độ tình yêu của đôi bạn. Cụ thể là thời trường làng: chơi chung. Thời trung học: thân
thiết. Cuối cùng thời trung học chuyên nghiệp: gắn bó: “sóng bước cùng
nhau”.
Đắm đuối mộng là quá say mê và luôn tưởng nghĩ đến
nhau.
Lênh đênh: là trôi nổi, bập bềnh. Tuổi học trò áo
trắng, chưa có sự nghiệp gì, làm sao mà xác định được chữ duyên hay tình yêu của
mình.
(Chữ “duyên”có
thể bao hàm 5 ngữ nghĩa:
Duyên(1) là đẹp như làm
duyên, duyên dáng.
Duyên(2) là may mắn, bất
ngờ như:
“Cơ duyên đâu bỗng
lạ sao!
Giác Duyên đâu bỗng
tìm vào đến nơi”
ĐTTT- Nguyễn Du câu 2973-2974.
Duyên(3) là lý do như
duyên cớ.
Duyên(4)là thành vợ thành
chồng như duyên đôi lứa, tơ duyên.
Duyên
(5)
là số phận đã được định từ kiếp trước do trai gái có nợ nhau như duyên nợ,
duyên phận, duyên kiếp).
Về cách gieo vần. Có thể nói mở
đầu với hai câu thơ, không biết là ngẫu nhiên hay chọn lọc khá công phu mà
trong 11/16 từ, tập hợp vần “ong” và những biến thể của nó như long lanh dòng sông,
dòng sông đằm thắm, chiếc thuyền tình đắm đuối
mộng, lênh đênh, gieo vần liên tiếp và đan chéo nhau chiếm hết
11 từ, hai cặp điệp từ dòng sông, 3 cặp
từ láy (long lanh, đắm đuối, lênh đênh),
tạo nên một chuỗi thuận thanh âm, dìu dặt, du dương. Giai điệu sáng tạo có chọn
lọc công phu tương tự như thế đã dàn trải suốt cả bài thơ.
Hai câu [3] và
[4]: Trắc
trở, lỡ duyên và thương tiếc trong đau khổ.
Ai biết được những
thác ghềnh sâu thẳm?[3]
Tiếc chiếc thuyền, sầu cay đắng,
mông mênh
những
thác ghềnh sâu thẳm:
là những nhân tố cản trở nguy hiểm trong tình yêu, ẩn dụ.
mông mênh:như mênh mông溟
濛hay mênh mang 溟 茫là mờ mịt.
Có thể nói, trong khổ thơ nầy, Thái Hy
đã đa nhân cách biểu đạt cảm nhận của mình trong tác phẩm. Khi thì ca ngợi câu chuyện
tình lứa đôi của chàng trai và một nàng tố nga, một người con gái có đôi mắt đẹp,
dễ thương. Khi thì nhập cuộc, thể hiện tâm tình và nỗi lòng của chàng trai khi
đã lỡ duyên. Đồng thời, anh cũng đã lý giải về những bất trắc trong yêu đương
là một chuyện khó lường. Đó chính là những nét đặc sắc cơ bản của nghệ thuật cảm
tác về một tác phẩm.
[II] Khổ thơ thứ
hai:
Cảm xúc về những nỗi nhớ thương vời vợi
và thái độ chấp nhận thương đau, không oán trách
Sóng tóc em dài đong đầy sóng nhớ,[5]
Tiếng tơ lòng, tơ còn đó,
nỗi đau!
Thà sóng mãi xao! Hiếu -
tình sao nỡ? [7]
Đá đã mòn…mà còn ngỡ
chiêm bao…
Bốn câu thơ, với
nhịp thơ sinh động, gợi tả nhiều điều:
Câu [5]
Sóng tóc em dài
đong đầy sóng nhớ,[5]
Nỗi
thương nhớ của chàng trai trong thời gian đang yêu và được yêu. Khi yêu nhau
thì người ta thường mong nhớ, tưởng niệm người yêu. Ở khổ thơ trên là nhớ người
con gái nết na đằm thắm, có đôi mắt đẹp sắc sảo. Còn ở đoạn thơ nầy thì là mái
tóc dài, tóc uốn hình sin, dợn sóng, sóng tóc. Còn sóng nhớ là những nỗi nhớ liên tiếp cuồn cuộn không ngớt như lớp lớp
những con sóng bạc đầu mãi mãi tràn ngập bãi bờ. Những nỗi nhớ đó hình như bất
tận, cao ngất qua ngữ nghĩa đong đầy,
rất đúng với tính cách, với tâm lý của đôi lứa đang yêu:
Sầu đong càng lắc
càng đầy,(*)
Ba thu dọn lại một
ngày dài ghê.
ĐTTT- Nguyễn
Du, câu 247-248
[(*) Khi đong ngũ cốc, càng lắc cái thùng đong càng thấy vơi. Đong mối sầu tư, sầu đong, thì không phải vậy, càng muốn “lắc” cho vơi đi thì mối sầu càng đầy
lên, lan tỏa bao la, mênh mông; nhất nhật
bất kiến như tam thu hề: 一
日 不 見
如 三 秋
兮, là một ngày không nhìn thấy nhau hay gặp
gỡ nhau thì ngày đó dài dằng dặc như trải
qua khoảng thời gian dài ba năm].
Cho dẫu ta muốn tìm quên bằng đủ cách:
Sầu ai lấp cả vòm trời
Biết chăng, chẳng
biết, hỡi người tình chung?
Xuân sầu mang mang tắc thiên địa (1)
萶 愁 茫 茫 塞 天 地
Giống ở đâu vô ảnh vô hình
Cứ tò mò quanh quẩn bên mình
Khiến ngẩn ngẩn ngơ ngơ đủ chứng
Hỏi trăng gió, gió trăng hờ hững.
Ngắm cỏ hoa, hoa cỏ ngậm ngùi.
Gươm đoạn sầu, thơ trục muộn đủ rồi. (2)
Còn lẽo đẽo vô trung sinh hữu. (3)
Dục phá sầu thành, tu dụng tửu (4)
欲 破 愁 城 須 用 酒
Túy tự túy đảo, sầu tự sầu (5)
醉
自
醉
倒
愁
自
愁
Rượu với sầu như gió mã ngưu (6)
Trong lai láng tránh đâu cho khỏi!
Càng tài tử càng nhiều tình trái, (7)
Cái sầu kia theo hình ấy mà ra
Mua sầu lại kẻ hào hoa.
Sầu tình-Nguyễn Công Trứ
Chú giải:
(1): Sầu xuân mênh mông lấp trời đất. Nỗi
sầu dằng dặc, chất ngất không nguôi. Với nỗi niềm đó, đúng trước cảnh nào cũng
thấy lòng buồn rười rượi:
Cảnh nào cảnh chẳng
đeo sầu,
Người buồn cảnh
có vui đâu bao giờ.
ĐTTT-Nguyễn
Du, câu 1243-1244
(2) Đoạn sầu: 斷 愁dứt
cái buồn; Trục muộn: 逐
悶 Xua đuổi buồn phiền.
(3) Vô
trung sinh hữu: 無 中 生 有: Trong cái “không” mà phát sinh cái “có”.
(4) Muốn phá thành sầu nên dùng rượu.
(5) Say, tự say nghiêng ngửa, buồn cứ buồn.
(6) Rượu với sầu không hòa hợp nhau. “gió mã ngưu” do gốc phong mã ngưu, như
ngựa và trâu không thể giao hợp được với nhau (Theo Từ Hải)
(7)
tình trái: 情 債:
nợ tình].
*Câu
[6]:
Tiếng tơ lòng,
tơ còn đó, nỗi đau!
Hoài niệm chuyện tình, bồi hồi những nỗi đau của chàng trai.
Tiếng tơ lòng: nỗi lòng xao động
nhiều cung bậc ví như tiếng đàn mà dây đàn là những sợi tơ trong tâm khảm của
người thương nhớ.
tơ còn đó: có thể hiểu là
nhữ (tiếng) tơ lòng còn đó, điệp ngữ nhấn mạnh như vẫn réo rắt, còn mãi dư
âm, vẫn chưa nhạt nhòa, chưa phôi pha, thể hiện những tâm tư, tình cảm sâu nặng,
không khuây.
Câu [7]
Thà sóng mãi xao!
Hiếu - tình sao nỡ?
Thể hiện một thái độ nhân nhượng hay cam
chịu, chấp nhận thua thiệt, phải đành lòng triền miên đau khổ trong cuộc đời, thà. Tâm hồn như một mặt nước luôn dậy
lên những đợt sóng buồn, không bao giờ dứt, mãi
xao (xao:敲: khua, gõ, dậy
lên, nổi lên).
Thái độ nhân nhượng dứt khoát như thế có thể rất hợp lý, rất Á Đông, khi phải ứng
xử trước tình huống là một cặp phạm trù tế nhị trong tình yêu: hiếu-tình. (Hiếu: 孝:
cư xử, ăn ở hết lòng với song thân; tình, tình ái: 情愛:
tình cảm hay lòng yêu thương nhau của một đôi trai gái).
Sao nỡ: làm sao mà có
thể đang tâm, làm sao có thể tệ bạc như vậy.
Thêm nữa, câu hỏi tu từ nầy, câu có dấu hỏi (?) như góp thêm vào giai
cảm réo rắt, bi thương mênh mông của tứ thơ. Sầu
ơi! Ta chào mi! (Bonjour Tristesse!)
Câu [8]
Đá đã mòn…mà còn
ngỡ chiêm bao…[8]
Đá đã mòn, sử dụng câu tục
ngữ nước chảy đá mòn, thể hiện năm
tháng của dòng thời gian trôi qua rất dài lâu, một khoảng thời gian đáng kể
trong cuộc đời, đá đã mòn, mà chàng
trai vẫn không thể nào tin được chuyện tình tan vỡ của mình, cứ ngỡ là giấc chiêm bao, dù đó là một sự
thật hiển nhiên.
Như vậy, trong khổ thơ nầy,tiếng thơ của
Thái Hy như đã nhập vào vai của chàng trai trong câu chuyện rất thích đáng.
Tình tiết được chọn lọc trong nguyên tác như mở rộng ra, cao cung lên, sâu đậm hơn
trong khắc họa tính cách của nhân vật trữ tình đôi lứa yêu nhau, nghe như rất
tha thiết, chân thành.
[III] Khổ thơ cuối:
Trời
vào Xuân, nước triều
Thanh, diễm tuyệt.[9]
Hai dòng đời hay chỉ quyết Ngân thôi?
Tưởng bóng xa xôi, bồi hồi duyên kiếp, [11]
Biêng biếc dòng sông,
tha thiết, ngậm ngùi!
Câu [9-10]
Gồm một câu tả cảnh
có dụng ý riêng, ca ngợi phương danh của ba nhân vật trữ tình và một câu cảm, tự
hỏi bất ngờ về một nhân vật khác, trong tác phẩm.
Trời
vào Xuân, nước triều
Thanh, diễm tuyệt![9]
Là hai nàng, hay chỉ quyết Ngân thôi? [10]
Câu tả cảnh cho
một bức tranh thiên nhiên nào đó. Khi ấy, đất trời đang mùa Xuân, Trời vào Xuân, có dòng thủy triều xanh
xanh đang trôi trên dòng nước, nước triều
thanh.
Diễm tuyệt: 艶 絕:
Dung sắc tươi đẹp, sáng sủa; nhất trần đời, có một không hai. Hóa ra là một lời
bình phẩm cho một bức tranh, một bức tranh có thời gian của mùa Xuân của đất trời
rực rỡ, có không gian hẹp là dòng nước triều, màu xanh như màu thiên thanh,
đang trôi chảy về đâu…
Nhưng tác giả
không phải chỉ ca ngợi cái đẹp đơn sắc của bức tranh Xuân, mà tứ thơ còn có dụng
ý riêng như ca ngợi một mối tình tay ba của hai nàng Xuân, Thanh với chàng Triều,
lưu ý những phương danh đều được in đậm nét.(!) Cái tôi thì đáng ghét. (Le moi est haissable. B. Pascal [1623-1662]).
Buộc phải tỏ lòng đôi nét về cái tôi, e rằng đôi lúc cũng rất thẹn thùng !
Câu [11-12]:
Tưởng bóng xa xôi, bồi hồi duyên kiếp, [11]
Biêng biếc dòng sông,
tha thiết, ngậm ngùi!
Bồi hồi:徘 徊: khi nghĩ đến chuyện đã qua, lòng xao xuyến,
ngơ ngẩn, không yên.
Duyên kiếp: 縁 刧chỉ
cơ hội thuận lợi để trai gái gặp nhau, yêu nhau và kết hôn trong cuộc đời. Kiếp:
刧: thời vận hay đời người theo ý nghĩa Phật
pháp, kiếp nầy có liên quan đến kiếp khác, kiếp trước và kiếp sau.
Biêng biếc: (bích,
碧: màu xanh màu ngọc bích, xanh biếc): Xanh xanh màu ngọc bích.
Tha thiết: thương tiếc, xót xa.
Ngậm ngùi: buồn rầu trong thương nhớ.
Cả câu [11] biểu
đạt một tấm lòng nhớ nhung, luyến tiếc. Thái Hy đã cho chàng trai luôn nhớ
nhung một hình bóng xa xôi. Theo cốt
truyện, Xuân vì chữ hiếu, phải vừa lòng cha mẹ, lấy một người quyền quý chưa hề
quen biết, người đó là một Phó Quận. Khi chia tay với mối tình đầu, nàng chỉ
khóc, không nói nên lời…Bây giờ, chắc nàng đã theo chồng định cư ở một nơi
nghìn trùng xa cách. Khi chạnh lòng hoài niệm chuyện cũ, chàng trai cứ buồn thương, tiếc nhớ, xót xa là rất đúng tâm lý lứa đôi:
Dẫu rằng sông cạn,
đá mòn,
Con tằm đến thác cũng còn vương tơ.
ĐTTT, Nguyễn Du, câu
Hoặc:
Tóc mai sợi vắn, sợi dài,
Tóc mai sợi vắn, sợi dài,
Lấy nhau chẳng đặng, thương hoài ngàn năm.
Ca dao
(Thời gian dẫu
có phôi pha, nhưng khi lứa đôi nồng thắm yêu nhau, bỗng trắc trở, lỡ làng thì
người ta thương nhớ nhau trọn đời, như kiếp con
tằm phải vương tơ cho đến thác. Dẫu tóc mai kia có sợi vắn, sợi
dài nhưng sợi tình thì trải dài bất tận đến ngàn năm).
Hay là:
Tiếc thay chút
nghĩa cũ càng,
Dẫu lìa ngó ý, còn vương tơ lòng.
ĐTTT, Nguyễn Du, câu
(Tiếc cho tình
cũ lỡ duyên, dẫu đôi lứa không thành thì người ta vẫn mãi luôn vương vấn bên
lòng như cái ngó sen kia, tuy đã bị bứt ra, đứt đoạn, chia lìa nhưng những sợi
tơ trong lòng nó, cứ mãi quyến luyến, vương vấn, không nỡ chia xa).
Câu [12]:
Là hình ảnh một dòng sông xanh xanh, màu biêng biếc; một dòng sông hay hình ảnh của
đôi mắt biếc của người thương như đã nói ở câu đầu của bài thơ cảm đề, “Tơ
lòng”; cũng có thể hiểu là dòng đời đến nay vẫn mãi lặng lờ trôi theo thời gian
năm tháng, phôi pha.
Cuối cùng là cái
hồn của tứ thơ mà cũng là cái thần của bài thơ, réo rắt, ngân nga gieo vào
trong bốn chữ như bốn nốt nhạc buồn, không những nhất quán với chủ đề bài thơ
mà còn khiến cho người đọc phải xao lòng.
Tóm lại, với những
hình thức nghệ thuật điêu luyện và thể hiện một nội dung thích đáng của thể loại
“cảm đề” như đã điểm phớt qua bên trên, Thái Hy đã hiểu và cảm rạch ròi nguyên tác của tác phẩm, mở rộng và
nâng cao hơn về tính cách nhân vật, làm cho bài thơ “cảm đề” như một tiếng hát
cất cao những giai điệu tình yêu, những mỹ cảm chân thành của anh về một câu
chuyện tình có ít nhiều hư cấu.
Điều đó chứng tỏ
rằng anh và Ngân Triều là hai người bạn nối khố, hai người bạn tri âm.
Tôi không biết
nói gì hơn là lặp lại câu cảm nhận, lúc mới hạ bút một câu đầu tiên:
*“ Bài thơ cảm đề
“Tơ lòng” của bạn Thái Hy rất tuyệt
vời!”
Hậu Nghĩa ngày
07 tháng 07 năm 2015,
Thân ái, Nguyễn Nam
Cựu giáo sinh
Khóa 2, Trường Sư Phạm Sài Gòn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét