BÀI NGHIÊN CỨU
Hồn Việt trong thơ Nguyễn Bính
Nguyễn Bính bước vào thi đàn Thơ mới và để lại một dấu ấn khó phai trong lòng người đọc bởi những nét vẽ rất đặc trưng về đời sống nông thôn Việt Nam. Một dòng sông bên lở, bên bồi, một con đò nằm đợi khách sang ngang, một vườn chè, một nương dâu, một gian nhà cỏ đầy trăng….đã đi vào hồn người như là những hình ảnh rất đỗi thân quen nơi thôn dã. Không một người dân quê nào mà không biết đến những cảnh vật vốn rất gần gũi bên mình như thế. Rồi những phiên chợ tết, ngày hội làng, đêm hội chèo … tất cả như còn đầy ở đây những nế
Cảnh sắc thiên nhiên nông thôn trong thơ Nguyễn Bính thường tươi thắm vẻ đẹp thơ mộng. Phải chẳng đó cũng là bản chất thực tế cuộc sống: trong nhọc nhằn ảm đạm đói nghèo, trong đắng cay cơ cực, quê hương vẫn là tất cả những gì tươi đẹp và thơ mộng mà mỗi khi hướng về đó tâm hồn con người luôn có cảm giác yên bình và yêu mến.
Thong thả dân gian nghỉ việc đồng
Lúa thì con gái mượt như nhung
Đầy vườn hoa bưởi hoa cam rụng
Ngào ngạt hương bay bướm vẽ vòng
(Xuân về)
Sau những ngày lao động tảo tần để kiếm miếng cơm manh áo người dân quê lại thảnh thơi với khoảng thời gian nông nhàn, say sưa cùng hoạt động vui chơi giải trí mang giá trị tinh thần rất lớn:
Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay
Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy
Hội chèo làng Đặng đi qua ngõ
Mẹ bảo: Thôn Đoài hát tối nay
(Mưa xuân)
Thiên nhiên rộn ràng, tươi vui, tình người dè dặt kín đáo đến ngại ngùng là nét đẹp không lẫn vào đâu được ở làng quê.
Nguyễn Bính yêu làng quê, yêu cuộc sống rất đỗi yên bình nhưng mặn mà tình nghĩa vì thế hình ảnh thôn Vân, nơi có bóng hình người mẹ thân thương hiện lên càng thơ mộng trong thơ ông:
Thôn Vân có biếc có hồng
Biếc trong nắng sớm, hồng trong vườn chiều
Đê cao có đất thả diều
Trời cao lắm lắm có nhiều chim bay
Quả lành trĩu nặng từng cây
Sen đầy ao cá, cá đầy ao sen
Hiu hiu gió quạt trăng đèn..
(Anh về quê cũ)
Dường như trong những trang thơ Nguyễn Bính làng cảnh Việt Nam khi nào cũng hiện ra tươi tắm và bình yên đến lạ. Cả giậu mùng tơi, giàn trầu không, hàng cau liên phòng ghi nhận những mối tình thầm lặng, đơn côi, cả con đê làng, cơn mưa xuân giục giã hoa xoan nở…cùng cô hái mơ, cô hàng xóm, anh lái đò nghèo với những giấc mơ hoa đều là những vẻ đẹp mộc mạc, dung dị của cuộc sống thôn dã mộc mạc như cũng rất đỗi thiết tha và tinh tế:
Nhà nàng ở cạnh nhà tôi
Cách nhau cái giậu mùng tơi xanh rờn
…Giá đừng có giậu mùng tơi
Thế nào tôi cũng sang chơi thăm nàng
(Người hàng xóm)
Trong những ngày xa quê phiêu bạt ở trời Nam hình ảnh quê hương trong xa cách còn đọng lại bằng những kỷ niệm thật đẹp mà cũng thật buồn:
Quê nhà xa lắc, xa lơ đó
Ngoảnh lại tha hồ mây trắng bay
(Hành phương Nam)
Phải chăng “hình ảnh quê hương đã góp phần giữ lại trong con người thi sĩ nhiều phẩm chất tốt đẹp, bất chấp sự hủy hoại của hoàn cảnh khách quan”[1]. Khác với Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ Nguyễn Bính không gợi tả cảnh quê mà cốt yếu muốn thể hiện cái hồn quê mặn mà dung dị và thuần phác. Chính với cách nhìn mang chiều sâu như vậy đã tạo nên nét độc đáo hiếm thấy của thơ ông.
2. Thơ chở nặng tâm tư con người thôn dã
Nguyễn Bính là người am hiểu sâu sắc tâm lý người quê. Đời sống của họ vốn ngưng đọng lại sau lũy tre làng. “Những cô gái chăm tầm dệt vải chỉ đi từ khung cửi đến nương dâu, và cô lái đò thì cũng chỉ quen với một khúc sông, một cái bến. Chỉ đêm hội làng là dịp tụ hội trai thôn nọ gái thôn kia. Những mối tình quê nảy nở, bao nhiêu vui buồn, mơ ước nhớ mong, đau khổ xôn xao lên, nhưng vẫn xôn xao trong sự tĩnh lặng cố hữu của quê hương”[2]:
Phường chèo đóng Nhị độ mai
Sao em lại đứng với người đi xem
Mấy lần tôi muốn gọi em
Lớp Mai Sinh tiễn Hạnh Nguyên sang Hồ
(Đêm cuối cùng)
Cái tình quê e ấp, rụt rè của người quê thật dễ thương đến lạ. Đó là nét văn hóa phương Đông không lẫn vào đâu được: không vồ vập, suồng sã mà đắm say, da diết vô cùng:
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười thương một người
Nắng mưa là bệnh của trời
Tương tư là bênh của tôi yêu nàng
(Tương tư)
Lắm lúc cũng táo bạo mãnh liệt đến bất ngờ:
Đôi ta cùng ở một làng
Cùng đi một ngõ vội vàng chi anh
Em nghe họ nói mong manh
Hình như họ biết… chúng mình với nhau
(Chờ nhau)
Nguyễn Bính đã hóa thân vào tâm trạng của những đôi lứa yêu nhau để thể hiện những mối tình bẽn lẽn, thiết tha và trinh nguyên ấy. Có lẽ vì thế giấc mơ cùng nỗi đau của anh lái đò nghèo, cõi lòng tan nát khi lỡ bước sang ngang của một người con gái, niềm mong nhớ đến khắc khoải của những mối tình đơn phương tội nghiệp… đều được Nguyễn Bính thể hiện hết sức cảm động, tinh tế. Dường như những hình ảnh thân quen của quê hương như giậu mùng tơi, giàn trầu, hàng cau, bến đò v..v. đều trở thành những biểu tượng của tình yêu, tình quê trắc trở. Ở đó có nỗi nhớ thương mòn mỏi, cay đắng xót xa cũng khát vọng và niềm tin mãnh liệt. Đó là tâm tình của một quê hương, một dân tộc: thuần phác, mộc mạc, đậm đà với yêu thương và cả đau thương.
3. Từ cội nguồn dân tộc đến sự cách tân và sáng tạo độc đáo trong thi pháp sáng tác
Nguyễn Bính đã rất thành công khi sáng tạo ra những cấu trúc mới cho thơ hiện đại trên nền cấu trúc thơ ca truyền thống. Như một số nhà nghiên cứu đã nhận xét ông là nhà thơ đầu tiên trên thi đàn thơ ca hiện đại dùng hình thức của thơ ca dân gian để chuyển tải nội dung thẩm mĩ của Thơ mới. Thành công của thi sĩ không phải là việc sử dụng nhuần nhuyễn ca dao, dân ca đến mức đọc thơ ông ta cứ thấy thân thuộc như cuộc sống và tâm tư dân tộc mà hơn thế ở đó còn thể hiện sự hòa nhập không thể nhận thấy giữa nghệ thuật và cuộc đời. Tình quê – hồn quê đi vào thơ Nguyễn Bính tự nhiên như chính con người nơi ấy, không trau chuốt, không dàn dựng, nguyên sơ, mộc mạc nhưng cũng sâu sắc đến lạ kì. Tứ thơ và cảm xúc thơ ở đây chở nặng cả tủi hờn:
Năm tao bảy tiết anh hò hẹn
Để cả màu xuân cũng nhỡ nhàng
(Cô lái đò)
Tuy nhiên để làm nên thành công ấy, nhà thơ đã không chỉ biết lắng sâu trong mạch ngầm văn hóa dân tộc mà còn không ngừng sáng tạo để chuyển tải trọn vẹn nguồn xúc cảm trừu tượng và phức tạp của đời sống tâm hồn con người. Một thôn quê không chỉ thi vị với hoa xoan đua nở, với mưa xuân rơi nhẹ, với hội làng nao nức mà còn có cả nỗi đau thân phận của cô gái sang ngang trong nghẹn ngào tủi cực, giấc mơ thật buồn của chàng trai lái đò nghèo không bao giờ có ngày “vinh qui bái tổ”, tâm trạng cô đơn của mối tình bướm trắng v.v.. Có lẽ không có nhà thơ nào liên tục sử dụng những hình ảnh thực tế ao bèo, giàn trầu, giếng thơi… để diễn tả nỗi mất mát, đau thương của tình yêu đôi lứa thành công như Nguyễn Bính:
Lợn không nuôi đặc ao bèo
Giầu không dây chẳng buồn leo vào giàn
Giếng thơi mưa ngập nước tràn
Ba gian đầy cả ba gian nắng chiều
(Qua nhà)
Sự đồng nhất giữa cái tôi trữ tình của nhà thơ với thiên nhiên, vạn vật là thi pháp cơ bản của thơ ca truyền thống được nhà thơ sử dụng hết sức thành công. Rõ ràng ở đây “tính liên tưởng độc đáo, những mã hiện thực thực – cụ thể mang tính thẫm mỹ của tư duy dân gian được sử dụng hết sức tài hoa trong cấu trúc của cả bài thơ và ở từng từ, từng câu thơ đã mở ra chiều rộng và chiều sâu mới cho thơ hiện đại”[3].
Ngôn ngữ bình dân, nhịp thơ lục bát thân quen của lối thơ dân tộc được sử dụng trong sáng tác của Nguyễn Bính không gây cảm giác nhàm chán, đơn điệu ngược lại đầy sáng tạo đến bất ngờ:
Hôm nay dưới bến xuôi đò
Thương nhau qua cửa tò vò nhìn nhau
Anh đi đấy, anh về đâu
Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu cánh buồm
(Không đề)
Tiết tấu thay đổi, âm vận được mở ra như cảm xúc miên man không bao giờ dứt. Tính truyền thống và tính hiện đại trong hình ảnh thơ ở đây được kết hợp khá đặc biệt. Bến đò, cửa tò vò là ngôn ngữ, hình ảnh của dân gian nhưng đến khi cánh buồm nâu xuất hiện thì không gian truyền thống bị phá vỡ. Như vậy, với sự sáng tạo độc đáo trong thi pháp, Nguyễn Bính đã mang đến thơ hiện đại Việt Nam một dáng vẻ mới, một sinh lực mới nhưng vẫn đậm đà “hương đồng gió nội”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét