Quan thò
Hồ Xuân
Hương
Mười hai bà mụ ghét chi nhau, (1)
Đem cái xuân tình vứt đi đâu. (2)
Rúc
rích thây cha con chuột nhắt, (3)
Vo
ve mặc mẹ cái ong bầu. (4)
Đố
ai biết đó vông hay trốc, (5)
Còn
kẻ nào hay cuống với đầu. (6)
Đã
thế thì thôi thôi mặc thế, (7)
Trăm
năm càng khỏi tiếng nương dâu. (8)
*Văn bản chữ Nôm:
官 侍
辻
二台 妑 姥 恄 之 胞
抌 丐 春 情 勿 迻 兠
哫 嚦 尸 吒 昆 鼠 撎
扜 蟡 袜 媄 丐 螉 裒
妬 埃 別 帝 葻 咍 捉
群 仉 芾 咍 誑 唄 頭
㐌 世 時 崔 崔 嚜 世
林百 男年 乾 塊 㗂 埌 柚
* Chú giải:
Quan thị là viên
hoạn quan, quan hầu cận trong cung vua chúa xưa, thường được tuyển chọn từ những
người ái nam ái nữ.
*Hai câu đề: (1-2):
Nhắc lại sự tích
12 Bà mụ. Bản thân quan thị là do 12 Bà mụ, vì ganh ghét nhau nên “cái xuân
tình”…không có.
*Hai câu thực (3-4):
Tả thực viên
quan thị, lấy ý từ hai bài ca dao:
"Con
gái mười bảy mười ba
Đêm
nằm với mẹ chuột tha mất..."
Và
bài:
"Bà
già đánh trống long bong
Vừa
đi vừa nhảy con ong đốt..."
Tức
là quan thị không có cái xuân tình, hay cái hồng nhan như mọi người.
*Hai câu luận (5-6):
Ở
đây cũng là tả thực, lấy ý từ hai câu tục ngữ. Con gái thì:
“Ngồi: lá vông; chổng mông: lá trốc”
Con
trai thì:
“Đầu
trỏ xuống, cuống trỏ lên”
Ý
nói nam nữ là như vậy, riêng quan thị thì không như con trai mà cũng không như
con gái.
*Hai câu kết (7-8):
Thái
độ cam chịu và chấp nhận tiếng thị phi. Đồng thời được cái danh hảo là không vướng
vít vào cái tình trăng gió, mèo mả gà đồng như thế nhân.
Tiếng nương dâu:
nương dâu là bãi trồng dâụ. "Tiếng nương dâu" là tiếng (xấu) ở bãi trồng
dâu. Do thành ngữ chữ Hán là "Tang
gian bộc thượng". 桑
間
濮
上Sách
Hậu Hán thư, Địa lí chí nói rằng đất Vệ xưa có chỗ kín trong bãi trồng dâu (tang gian桑 間)
ở trên sông Bộc (Bộc thượng濮 上), là nơi trai gái
thường tụ hội làm những chuyện dâm ô. Nguyễn Du đã dịch thành ngữ này:
"Ra
tuồng trên Bộc trong dâu,
Thì
con người ấy cầu làm chi" (Kiều).
(Kiều
trải lòng với Kim Trọng: Nếu tỏ ra dâm ô,
bất chính, thì người thanh niên như vậy sẽ không phải là đối tượng trong tình yêu).
Ngân Triều
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét