Chén trà xanh
Sáng tinh sương,chén trà xanh
Ung dung ngồi nhắp hương tình ban mai.
Đời xuôi ngược mộng đêm dài
Buồn vui tựa gió thoảng ngoài hiên không.
TRẦN THOẠI NGUYÊN
Không biết từ bao giờ hình ảnh của Trà đã in đậm vào cõi nhân gian,
hương vị của Trà đã thấm sâu vào trong cuộc sống thường nhật, vị chát
rồi ngọt của Trà đã thấm đậm vào tâm thức của bao lớp người trong kiếp
nhân sinh. Rồi Trà như cam lộ nhuận thắm cửa thiền sâu lắng, gợi lên
khúc đại từ sắc sắc không không.
Trà thường có vị đắng, chát, rồi sau đó lẫn vào một chút ngọt ngào,
cũng như cuộc đời ai cũng phải trãi qua bao đắng cay chua chát, nhưng
nếu vẫn bền gan vững chí, thì cuối cùng rồi cũng gặt hái được những
thành quả ngọt ngào của câu chữ "Khổ tận cam lai" còn nếu như không có
một chút gì hồi đáp, thì âu cũng là "duyên số" mà thôi.
Hương vị của Trà hàm chứa đầy đủ các chất liệu hương vị của cuộc đời,
cho nên thường thì khi còn niên thiếu rất ít có ai thích uống trà, vì vị
của Trà không ngọt ngào như tương lai và mơ ước của những người trẻ
tuổi, nhưng khi trãi qua hết thảy mọi xúc cảm thăng trầm vinh nhục, được
mất có không của cuộc đời, đến tuổi xế chiều, ngồi thưởng thức một chén
trà lại là cơ hội để bạn già ôn lại chuyện xưa, để người đi xa nhắc về
những kỷ niệm, để bao cuộc đời bể dâu, thăng trầm trôi nổi nói lại duyên
xưa.
Khách phong trần nhìn lại cuộc đời của mình, để rồi ăn năng hay tỉnh
thức, hoặc giả tự mình vui với chính sự thành công của mình, hay tự an
ủi mình trong những gì không được may mắn hay thất bại, người trong nhân
gian thấm sâu vị đắng chát hay ngọt ngào của trà là như vậy đó, thưởng
thức trà, hương trà trong được mất của thế nhân.
Trà pha với nước như người với cuộc đời, khi thả trà vào nước lá trà
lúc nào cũng trôi nổi bềnh bồng, chẳng khác gì ta khi bước vào đường đời
nổi trôi chưa có nơi cố định, hoặc giả công việc thời thế chưa đến lúc
hanh thông. Rồi màu của trà vị của trà, dần dần đậm lại, như màu sắc
cuộc đời trãi qua những thăng trầm thêm kinh nghiệm sống trong ta, vị
trà đắng rồi lại ngọt, mách bảo cho ta hương vị của cuộc đời không bao
giờ đắng mãi và cũng không có ngọt bùi khi không có sự nổ lực của chính
tự thân.
Trà khi pha nổi rồi chìm, đắng chát ngọt ngào không khác cuộc đời được
mất hơn thua, vinh nhục, cay đắng, trà vẫn thế không thay hương vị, đời
vẫn vậy chưa từng đổi thay, trà vị có chát hay ngọt cũng chỉ có người
thưởng thức mới biết được, đời vui hay buồn, vinh hay nhục cũng chỉ có
người trãi qua rồi mới cảm nhận được thôi.
Trà được xưng là Trà Đạo vì theo quan niệm của cổ nhân trong trà có ba điều đạo lý.
Điều thứ nhất: trà có vị đắng cay như cuộc đời.
Điều thứ hai: hương của trà thơm như ái tình của cuộc sống.
Điều
thứ ba: đắng rồi lại ngọt, như cuộc khổ lại cam qua, trong trà gói trọn
bao nhiêu triết lý của cuộc đời, biểu hiện hết thảy ngọn ngành cảnh
giới của nhân sanh.
Cuộc đời chẳng khác gì trà khi trãi qua ba giai đoạn, nếu được rèn dũa
tôi luyện thì phần còn lại đó là trà sẽ là vị ngọt, còn cuộc đời sẽ là
sự thành công hay trọn đầy bao ước nguyện.
Trà được người kính trọng bởi vì trà có đầy đủ những gì người muốn có,
theo kinh nghiệm của người xưa uống trà có thể huân tập được 10 đức tính
như; tán u uất, dưỡng sinh, dưỡng khí, trừ bịnh, lễ giáo, biểu kính,
thưởng vị, dưỡng thân, hành đạo, nhã chí. Vì vậy trà được đưa vào Thiền
môn vì những tính chất đặc hữu của mình, trãi qua sự vận dụng của Thiền
định trong trà, đạo của trà thâm nhập vào thế giới của Thiền tư thành
Thiền Trà.
Trà vào cửa Thiền với tự thân vốn không có sự phân biệt quý hay tiện,
cho nên khi thể nhập vào đạo Thiền đệ nhất nghĩa với "Phật tánh bình
đẳng không nam bắc". Khi thưởng thức trà tâm phải tịnh để cảm nhận được
hương vị của trà, ý niệm sống trong hiện tại của thiền lắng đọng trong
từng làn hương thoảng của trà. Nếu ngộ được niệm tịnh trong trà, tinh
thần của trà, ý chân của trà, thì người uống trà cùng Thiền sư trong một
cảnh giới, không còn niệm nào sai khác "Bổn lai vô nhất vật" thì còn
việc gì "hà xứ nhạ trần ai".
Nói đến trà ta liền chợt nghĩ đến hình ảnh của cuộc sống thường ngày,
việc uống chén trà dường như đã quen thuộc lắm, dùng ý niệm của nhị đế
để hiểu trà thì trà thuộc về tục đế, thế giới trần gian, còn thiền thì
lại không có lời thắc mắc là tục hay chân, là trần hay cảnh, chỉ có một
niệm hiện tiền, uống trà và cũng chưa bao giờ nhớ hay quên, bởi vì Trà
chưa từng rời bỏ Thiền một bước vì "Trà tức là lìa ngôn từ, hết chư
tướng, ly tứ cú, tuyệt thị phi", nên trà chỉ còn lại nguyên ý là đệ nhất
nghĩa đế mà thôi.
Người thế gian uống trà trong niệm "nhàn hạ thanh cao", kẻ học Phật
uống trà trong liễu ngộ pháp "đệ nhất nghĩa đế ". Chấp có chấp không,
hay tất cả đều không hay có, rồi chẳng có Thiền cũng không có cảnh trần
gian, nếu như vậy, thì pháp giải thoát không còn cách nào để tự mình
chứng ngộ, và cảnh của cuộc đời không có gì để nhàn hạ thanh cao.
Người uống trà trong tâm niệm tục đế, thì trong trà không có phẩm chất
của thiền tư, nhưng nếu lại nhất niệm hướng trà về với chân đế, thì trà
thật là vô vị, không còn ngọt ngào hương vị của nhân gian. Trà và Thiền
phải là một vị, như câu "Nhị đế dung thông" trà thế gian hay trà thiền
cảnh thì cũng viên tròn trong ý "Chân tục không hai", nếu có thể dùng
được tâm và ý này để thưởng thức trà, thì đây là người biết uống trà
vậy.
Trà hiện "Bình thường tâm" là trà phổ biến khắp các thứ tầng của cuộc
sống, cũng là thú vui tao nhã của cuộc đời, nhưng là mang theo trong đó
một ý niệm dung nhập vào cảnh Thiền, từ tục đạt đến chân, từ sắc đến vô
sắc, thưởng thức trà như vậy thật là đang tu tập thiền định và đang hành
trì một trong vô lượng pháp môn tu vậy. Cho nên Lục Tổ Huệ Năng nói:
"Phật Pháp tại thế gian, không lìa thế gian giác, lìa thế gian để tìm
đến Bồ đề, cũng không khác đi tìm sừng của con thỏ vậy.".
Thiền sư đem trà cúng dường Phật, với tâm trọn thành trong niệm cúng
dường cảm ân, lấy trà để mời khách là nguyện niệm lân mẫn cúng dường,
hai pháp cúng dường, nhưng chỉ trong một niệm hoan hỷ, Phật hay chúng
sanh cũng chỉ trong tâm tâm bình đẳng. Lấy trà để cúng dường, ý diễn trà
cũng là sắc thân, dùng trà để bổ trợ cho sắc thân đầy đủ thắng duyên tu
hành thành Phật. Trong bài Ẩm Trà Ca của Thầy Hiểu Nhiên đời Đường có
câu: "uống trà một ngụm điều dứt hôn trầm, tinh thần sảng khoái mãn trần
gian, uống thêm ngụm nữa tâm thanh ý tịnh thần tự tại, bổng thấy lòng
mình mát rượi như hạt mưa bay, đang sái gội trần gian".
Trà Thiền chỉ trong chén trà mà ta đang thưởng thức, đây là một câu
ngạn ngữ trong cửa Thiền khi nói đến đạo của Trà và Thiền. Thiền sư uống
trà, trà trở thành "Thiền", thế nhân uống trà, trà trở thành "Lễ", lễ
trong ý kính, Thiền trong trong niệm tịnh, kính và tịnh hợp nhất thành
tâm thanh tịnh, mà tâm thanh tịnh rồi trần cảnh không hai, thế gian, cõi
thiền là một, Thiền sư là khách, khách cũng là thiền, như trà chỉ một
vị, khách thiền cảm nhận như nhau, không sai không khác, như vậy là "Trà
Thiền một vị, Tăng Tục không hai".
* Thích Tâm Mãn ( nguon:chua )
Trường Sơn - Sưu Tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét