* Hoa & Nhạc
Ðến
19 tháng 7
Sắc Màu Hoa Nhớ
Y Nguyên Mai Trần
Trong
văn chương, âm nhạc có nhiều mỹ từ về bông hoa cây cảnh mà mãi lúc lớn
lên chúng ta mới nhận thức được, tuổi thơ là khu vườn xung quanh nhà có
trồng hoa có cây ăn trái, có nắng trải thềm nhà, có mưa bong bóng phập
phồng. Hoa toả hương, phô sắc làm đẹp cho cuộc
đời, gần cạnh, xung quanh ta, xuất hiện trong
hoài niệm, trong cuộc sống mà không bao giờ réo gọi. Cây bông gòn, cây
sầu đông, cây lucuma, cây hồng quân, dây thanh long, hàng rào trà với
dây tơ hồng quấn quit, đám hoa mười giờ, bông trang, bông lồng đèn, dâm
bụt, dạ lý hương, ti gôn…
Hoài
niệm hàng cây điệp, phượng vỉ nỡ đỏ mùa hè ve kêu, thu của những tháng
ngày xe lạnh gần Tết, rồi Xuân đến khi hoa Mai vàng lá và
những vườn hoa cúc, vạn thọ, mồng gà…bắt đầu nở
hoa, năm nào cũng vậy khoảng rằm tháng chạp là phải lặt lá mai cho Mai
nở kịp Tết, kỹ niêm xưa nhớ mấy cho vừa…
Bài
sưu khảo này ghi nhớ lại loài hoa nằm trong ký ức, thường được nhắc nhở
nhưng không rỏ “dung nhan”, “tính tình” mang tên họ gì. Nào là chuyện
hoa sim, hai sắc hoa ti gôn , hoa pensée, chuyện giàn thiên lý,
hoa soan bên thềm củ, hoa hoè hoa sói, kim đồng, ngọc nữ,
forget-me-not, bông gòn, tơ hồng, hoa mơ hoa mận nở … Tiện thể, thỉnh
thoảng dừng chân trên bước đường xuôi ngược để cùng chiêm ngưỡng các
loài hoa gần gủi chúng ta- một chút ân tình đong đầy bao nhiêu kỷ niệm
êm đềm của một thời hoa mộng-luôn tiện ngắm nhìn một số kỳ hoa dị thảo.
Nguời
viết cũng xin ghi nhận,
một số hình ảnh và dử kiện được tham khảo hoặc
trích từ “từ điển Wikipedia commons, Wikipedia” và một số thông tin từ
Bloggers ở Việt Nam cũng như một số bài hát về hoa
từ youtube. Tính chất dược thảo lợi ích của một số loài hoa trong bài
chỉ là thông tin tổng quát, muốn áp dụng xin bạn đọc hảy điều tra và
tham khảo với chuyên gia.
Tơ hồng ( Úc)
Mồng Gà Dây thanh long Tơ hồng miền Tây
Dây
tơ hồng, tên khoa học Cuscuta, không phải là hoa, là một chi của khoảng
100-145 loài thực vật sống ký sinh có màu vàng, da cam hay đỏ (ít khi
thấy loài có màu xanh lục). Trước
đây người ta coi nó như là chi duy nhất của họ tơ hồng (Cuscutaceae),
nhưng các nghiên cứu sau này cho biết Tơ hồng phải đặt chính xác vào họ Bìm bìm (Convolvulaceae). Thường được tìm thấy khắp ở vùng nhiệt đới và cũng có vài loài sống ở vùng ôn đới. Ở Miền Nam vùng sông rạch miền Tây,
thường thấy mọc dại trên những hàng rào trà, hay mọc ven sông.
Mồng
gà thường thấy vào dịp Tết ở miền Nam, tên khoa học là Celosia Cristata
thuổc họ Amaranthaceae, trồng như loại cây thực phẩm (lá và hoa) ở Ấn
độ, Nam Mỹ và miền tây Phi Châu.
Thanh
Long là trái của vài loài xương rồng, quan trọng nhất là loài trái ngọt
(sweet Pitayas) tên khoa học là Hylecereus Undatus (vỏ đỏ, thịt trắng)
được trồng nhiều nơi ở Đông Nam Á, và đặt biệt trồng xuất cảng ở Việt
Nam.
Hoa nắng.
Một
mỹ từ văn chương nói đến nhửng loài hoa khoe sắc thấm vào mùa hè ngày
có ve kêu, đêm có đom đóm bay quanh vườn, điển hình là hoa
phượng, hoa điệp- hoa nắng- len lén chui qua giàn bầu, bí, giàn mướp,
giàn hoa ti gôn, giàn bông giấy xen qua cây lá trong vườn để lại
những vết nắng đủ hình trạng lấm tấm trên tường vôi hay trên thềm nhà.
Phượng Vĩ
Tên
khoa học Delonix regia thuộc họ Caesalpiniaceae. Cây thân mộc
mềm, đường kính thân cây 60-80cm,tán lá rậm hình dù cành nằm ngang dể
bị sâu đục rổng có thể cao hơn 10m nhưng sống không quá 50, 60 năm. Lá
kép lông chim hai lần. Tuy lá nhiều nhưng tầng trên không che khuất nắng
của tầng dưới nên tàng cây mát dịu và trong sáng. Hoa màu đỏ, cam, mộc
thành chùm, mỗi đóa hoa có 5 cánh – 4 cánh xòe và một cánh mọc chỉ
thiên. Hoa nở rộ từ tháng 4 đến tháng 6 ở Việt
Nam
Cây dễ
trồng, thích ứng với nhiều đới khí hậu nên người ta trồng Phượng Vĩ ở nhiều nơi để làm cảnh và lấy bóng mát.
Điệp
Điệp
là tiếng gọi trong Nam cho một loại Phượng có tên khoa học là Poinciana
Pulcherrima cùng họ với Phượng Vĩ nhưng khác vì thân lùn, hoa màu đỏ
hoặc vàng. Trái Điệp dẹp dài 10-15cm, tách bên trong có hột mềm ăn được,
có vị ngọt.
Phượng Tím –Jacaranda
Hoa
Phượng tím gốc Nam Mỹ là một loài cây thân gỗ, lá kép hai lần, hoa màu
tím, tên khoa học là Jacaranda Acutifolia thuộc họ Bignoniaceae, có tên
khác là J.mimosifolia, hay J.ovalifolia. Gọi là Phượng, nhưng Phượng Tím
(họ Bignoniaceae) và Phượng Vĩ đỏ (họ Caesalpiniaceae) là hai họ khác
nhau.
!
Tùy
theo môi trường sống, Phượng tím có thể cao từ 3 đến 10 mét, đường kính
tán lá có thể đến 10m. Mổi cành lá dài từ 40 đến 50 cm, có lông tơ và
mọc thành từng chùm. Thời gian từ khi hoa ươm nụ đến khi tàn
rụng thường kéo dài từ 3 đến 5 ngày. Các chùm hoa ở đầu cành lại tiếp
tục nở ra một đợt hoa mới. Vì vậy mà Phượng tím có hoa nở thường xuyên
trong vòng 2-3 tháng. Ở Úc, thời gian hoa nở từ tháng 11 đến giữa tháng
2. Phượng Tím được trồng nhiếu nơi trến thế giới làm cây cảnh trong
vườn nhà, ven đường hay trong công viên. Ở Đà Lạt có trồng nhiều Phượng
tím.
Bông
Giấy-Bougainvilleas- là loại cây trang trí rất
thông dụng vùng có khí hậu ấm khắp
nơi trên thế giới như Ethiopia, Nam Dương, Phi, Thái, Hồi, Ấn Độ, Đài
Loan, Việt Nam, Mã Lai, Úc, Hy Lạp,Tây Ban Nha, Thổ, Singapore, vùng Địa
Trung Hải,
Trung Mỹ, Kuwait, United Arab Emirates, nam Hoa Kỳ, Hawaii, vùng
Lucarno ở Thụy Sĩ nổi tiếng về bông giấy ở Châu Âu.
Những
loại bông giấy thường thấy hiện nay là kết quả của lai giống 3 loại
trong số 18 loại giống từ Nam Mỹ. Hiện có đến 300 loại khác nhau trên
toàn thế giới do lai giống (hybrid) và đột biến (mutation) ,
Mức
độ phát triển của bông giấy
nhanh hay chậm tùy loại giống, có nơi trổ hoa cả năm như vùng nhiệt đới
gần xích đạo, có nơi trổ theo mùa. Bông giấy cần ánh nắng, khí hậu
không ẫm ướt, đất tốt. Hoa trổ từ 4 đến 6 tuần là tàn. Càng có phân bón
hoa càng đep rực rở, không cần phải tưới nước nhiều. Tưới nước nhiếu cây
không ra hoa và trút nhiều lá, có khi chết vì rể bị thối rửa. Bông giấy
trồng dể dàng bằng cách chiếc cắt khúc đầu nhánh và gâm xuống đất với
chút phân bón.
Hoa Xuân
Cũng là một mỹ từ văn chương nói đến những loài hoa thường thấy trong dịp Xuân về Tết đến mà điển hình phải kể
đến hoa Mai trong Nam, hoa Đào (Anh đào) ngoài Bắc, hoa Cúc và Vạn thọ.
Trước
tiên cần phân biệt loại hoa Anh đào ở Việt Nam
và hoa Anh đào của Nhât (Sakura) và loại Đào ăn trái có nguồn gốc ở
Trung quốc thuộc giống Prunus
Persica, loại Anh đào là loại được chọn lựa và lai giống thường chì
cho hoa đẹp rực rở (flowering cherry) Prunus Jamasakura hoặc cho trái
vị chua (Prunus Cerasus) . Loại Đào ra hoa có dạng thân nhỏ, như bình
đựng hoa, phần duới gốc nhỏ, phần trên cành xoè ra, cò thể mọc cao đến
7-8 m, Anh đào thích hợp khí hậu lạnh. Anh đào ở cao nguyên miền Bắc
Việt Nam hay ở Đà lạt không phải giống đào China cho trái để ăn, tiếng
khoa học là giống Prunus Persica, mà là chủng loại hoa Anh đào Nhật .
Giống Anh đào
trồng trong vườn
thường là loại đào lùn 2 to 4 m thường được gép trên gốc cây lùn, chỉ trồng cho ra hoa đẹp để trang
trí chứ không ăn trái. Loại hoa đào nở vào dịp Tết ở miền Bắc trong dịp Tết Việt Nam- tháng giêng đến tháng ba
Tiện
đây chúng ta nên biết tuy cùng chung họ Rosaceae, cùng chi Prunus Đào
(Peach) , Mận (Plum) và Mơ (Apricot) là những giống hoàn toàn khác nhau,
tuy phân biệt các loài hoa cần sự chú ý và hiểu biết đặc biệt. Gần đây
ở Bắc Việt Nam có trồng loại đào Tàu ở vùng Mẩu
Sơn, thuộc huyện Lôc Bình, tỉnh Lạng Sơn.
Hoa Anh đào ở Việt Nam nở vào mùa xuân biểu tượng cho sự may mắn, hạnh phúc, tình bạn khắng khít, thân thiết trường tồn.
Ý Nghĩa : May Mắn, Hạnh Phúc
Hoa Mai vàng đua nở vào dịp Tết, nhà nào củng ráng
chưng mai, biễu tượng cho sự may mắn, giàu thì cả cây, nghèo thì một
nhánh. Mai khắp mọi nơi cũng như hoa Đào ở Bắc rất đẹp, cũng có loài Mai
rừng (như
trong bài hát Mùa Xuân Trên Cao của
Trầm Tử Thiêng) , mọc hoang dại ở ven rừng vùng nhiệt đới. Ngày nay có
nhiều loại mai nhiều hơn năm cánh do sự tiến triển của thực vật học và
sinh học, nhưng phần lớn chưa có tên khoa học.
Hao
Mai vàng có tên khoa học là Ochna integerrima thuộc gia đình Ochnaceae,
có ít nhất khoảng 50 loài hoa Mai
vàng khắp nơi trên thế giới. Ngoài Mai vàng ra còn có giống hoa Mai
trắng-bạch mai, tuy nhiên giống Mai này khác hẳn với giống Mai vàng và
không cùng chung một họ, Mai trắng có tên khoa học là Prunus mume sieb
họ Rosacea. Hoa Mai trắng thường có 5 cánh thường thấy ở miền Trung hoa
mới nở có màu đỏ hồng, sau chuyển sang màu trắng, thoảng mùi hương. Mai
trắng thuộc dạng loại cây mơ (apricot) không ăn trái chỉ cho hoa đẹp mà
thôi.
Nhìn
chung,
ở Việt Nam
người ta chỉ xác định được tên khoa học của vài loài Mai là Ochna
integerrima (Mai vàng năm cánh); Ochna integerrima
(Mai núi) và Ochna atropurpurea (mai tứ quý). Riêng về Mai tứ quý,
ngoài tên khoa học Ochna atropurpurea, chúng còn những tên khác là Ochna
atropurpurea DC, Ochna serrulata hay Ochna integerrima.
Hoa
Mai có màu vàng tượng trưng cho sự sang trọng, quý phái nhưng lại mang
vẻ đẹp dịu dàng, đáng yêu, gần gũi với đời thường. Ai cũng có thể trồng
Mai và thưởng thức Mai. Nguời miền Nam cứ sau rằm tháng Chạp (tháng 12
lịch
ta) là người ta lặt mai hy vọng Mai trổ vàng rực rở
sáng mồng một Tết. Người xưa quan niệm: ” Mai nở vào ngày Tết sẽ đem
lại sự may mắn cho gia đình vào
năm tới.”Người ta thường đem cả cây Mai vào nhà để đón xuân. Vừa uống
trà vừa ngắm hoa là điều vô cùng thú vị. Hoa Mai trước đây thường gắn
liền với các nhà nho. Nó được đưa vào bộ tứ mộc cao
quý:”Tùng,Cúc,Trúc,Mai”.
Ý nghĩa: Xuân ước mơ hy vọng may mắn hạnh phúc, tình
yêu trung thành.
Mai tứ quý
Là
một
loại hoa Mai vàng nhưng sau
khi rụng cánh hoa còn lại đài hoa đỏ và hạt xanh (khi chín hột chuyển
thành màu đen), chính vì vậy loài Mai này còn có tên là “Nhị độ mai” tức
“Mai nở hai lần”.
Hoa Mai Chiếu Thủy
Mai
chiếu thủy được trồng làm kiểng, trong chậu nhờ dáng cây đẹp. Hoa màu
trắng, có năm cánh có hương thơm. Mai chiếu thủy có tên khoa học là
Wrightia religiosa (Teijsm. et Binn.) Hook.f., thuộc họ Trúc đào (Apocynaceae).Hoa có thể ra quanh năm, nhiều nhất về mùa khô, nếu nắng hạn thì cây
trụi lá nhưng khi mưa thì lại trẩy lộc non. Có thể chăm sóc uốn nắn Mai chiếu thủy để hoa mọc theo ý muốn.
Hoa Cát Tường (Lisianthus)
Hoa cát tường Eustoma (Lisianthus) có tên khoa học Eustoma grandiflorum (Raf.) Shinn, thuộc
họ Gentianaceae , được tìm thấy ở khu vực có khí hậu ấm àp ở
miền Nam Hoa kỳ, Mexico, Caribbean và khu vực phía bắc của South
America. Chúng thuộc loại cây sống một năm
thân thảo, cao 15 – 60 cm, với lá xanh biếc, mảnh dẻ, mọng nước, có
hoa lớn, hình phễu, dáng hoa thanh lịch, đẹp như hoa hồng mà còn có bộ
lá xinh xắn, đa dạng về màu sắc và chủng loại có nguồn gốc từ miền tây
nước Mỹ, có khả năng chịu lạnh tốt, nhiều chủng loại
được du nhập vào Đà Lạt với màu sắc đa dạng như: trắng viền tím, tím
đậm, kem, vàng, hồng, hồng phai., Cát
tường không rực rỡ như hoa cúc và không lộng lẫy như hoa hồng nhưng lại
thu hút khách bởi vẻ đẹp đơn sơ, e ấp.
Ý Nghĩa: May Mắn
Hoa Cúc-Hướng Dương
Bộ hoa Cúc hoặc bộ Hướng Dương danh pháp khoa học Asterales là một bộ thực
vật có hoa trong họ Cúc Asteraceae .
Bộ
này phân bổ rộng khắp thế giới và chủ yếu là các loài cây thân thảo,
mặc dù có một lượng nhỏ là cây thân gỗ (chi Lobelia) và cây bụi.
Bộ
Asterales bao gồm khoảng 11 họ, 1649 chi gồm khoảng 26.480 loài, trong
đó các họ lớn nhất là họ Asteraceae với khoảng 23.600 loài và họ Hoa
chuôngvới khoảng 2.380 loài, các họ còn lại
có tổng cộng không quá 500 loài. Hai họ lớn nhất có phân bố rộng khắp
thế giới với trung tâm nằm ở Bắc bán cầu, còn những họ nhỏ hơn thông
thường phân bố ở Úc và các vùng xung quanh, hoặc đôi khi ở Nam Mỹ.
Cúc
có khoảng 13.000 loài, là một họ lớn của thực vật học trong đó nhóm Gia
cúc có khoảng 100 loại được dùng phổ biến; nhóm Dược cúc dùng làm thuốc
với hai vị thường dùng
nhất là Bạch cúc (Cúc trắng) và Kim cúc (Cúc vàng). Tên
khoa học Cúc trắng: Chrysanthemum sinense Sabine. Cúc vàng:
Chrysanthemum Indicum Lour . Nhiều loại Cúc được dùng trong
dược phẩm, loại Cúc trắng Chamomile có mùi hương của trái cây được biến
chế thành một loại trà Cúc (trà Chamomile).
Ý Nghĩa : Cúc vàng –Lòng kính yêu quý mến, hân hoan; Hướng Dương : Bạn là hy vọng và niềm tin
Quốc Hoa : Cúc trắng Chamomile là quốc hoa của
Nga
Hoa Anh đào-Mai Anh đ ào
Chi Mận mơ hay chi Anh đào danh pháp khoa học Prunus là
một chi của
một số loài (khoảng 200) cây thân gỗ và cây bụi, bao gồm mận (plum),
anh đào (cherry), đào (peach) ,mơ (apricot) và hạnh (almond). Thuộc họ
hoa Hồng Rosaceae, phân họ Prunoideae (hay Amygdaloideae), nhưng đôi khi
được
đặt thành một họ riêng của chính nó là Prunaceae (hay Amygdalaceae).
Chi Prunus tìm thấy
trồng nhiều vùng ôn đới của Bắc bán cầu, Úc, Tân Tây Lan. Điều nên biết
là hoa Anh đào chỉ một giống cây
trổng cho hoa đẹp trang trí, tên khoa học là Prunus mume. Đây là loại
hoa Anh Đào Nhật (Cherry blossom) và hoa anh đào ở Đà Lạt và ngoài Bắc.
Anh Đào (Cherry, tiếng Pháp Cerisier) không phải là loại Sơ ri (tên khoa học là Malpighia glabra thuộc Malpighiaceae) ở Việt Nam, chua lúc xanh, vị ngọt lúc chin đỏ.
Hoa Sơ
Ri Trái Sơ Ri
Quốc Hoa: Hoa Anh Đào
(Cherry blossom) là quốc hoa của Nhật
Ý nghĩa: Hạnh phúc, tâm hồn thanh cao, tình bạn thân thiết trường tồn
Hoa Anh Thảo Cyclamen
Cylamen
còn gọi là hoa Anh Thảo – một loài hoa dài ngày, thích hợp ở xứ lạnh và
đất có độ pH 6. 2 – 6. 5. Đây là loại hoa cao cấp sử dụng cho mục đích
trưng chậu. Thân cây thẳng đứng và khỏe, cao 30 – 36cm khi trưởng thành.
Trồng hoa Anh Thảo bằng củ. Anh Thảo
cần được gieo và trồng trong nhà kính, trong điều kiện hoàn toàn kiểm
soát được ánh sáng nhiệt độ và ẩm.
Cyclamen
–Anh Thảo có khoảng 23 giống thuộc họ Myrsinaceae, có nguồn gốc Âu
châu, Địa Trung Hải, Ba Tư (Iran) và một giống ở Somalia. Củ của giống Cyclamen persicum có chất độc Alkaloids gây khó tiêu, tiêu chảy, ói mửa nếu ăn
phải.
Quốc hoa: Ý (Italy), San Marino. Do Thái (Israel), Cyprus
Ý Nghĩa: Sự cam chịu, chia ly
Hoa Bằng Lăng( Tử Vi)
Bằng
lăng,danh pháp khoa học
Lagerstroemia speciosa là một loài
thực vật thuộc chi Tử Vi (Lagerstroemia – một tông chi lớn thảo mộc
nước) thuộc họ Lythraceae. Tên tiếng Anh thông dụng là: Giant
Crape-myrtle, Queen ‘s Crape-myrtle, Banabá Plant for Philippines, Pride
of India, Queen ‘s flower.
Banabá
(Bằng lăng nước) là tên gọi theo tiếng Tagalog
(dân tộc lớn nhất ở Philippines) của loài cây đặc thù của Ấn Độ. Loài
này có nguồn gốc từ vùng nhiệt đới Nam Á, hiện có nhiều ở Đông
Nam Á, Ấn Độ và các vùng nhiệt đới khác. Thân cây thẳng và khá nhẵn
nhụi. Lá màu xanh lục, dài từ 8 đến 15 cm, rộng từ 3 đến 7 cm, hình oval
hoặc elip, rụng theo mùa. Hoa màu tím hoặc tím nhạt, mọc thành chùm dài
từ 20 đến 40 cm, thường thấy vào giữa mùa hè. Mỗi bông hoa có 6 cánh,
mỗi cánh dài chừng 2 đến 3,5 cm. Quả lúc tươi màu tím nhạt pha xanh lục,
mềm. Quả già có đường kính 1. 5 đến 2 cm, khô trên cây.
Loài
bằng lăng cho bóng mát và cho hoa đẹp nên được trồng làm hoa cảnh. Thật
ra ngoài hoa tím còn có màu đậm, lợt trắng, hồng, đỏ … và cuối thu
nhiều giống cũng rụng lá vàng, lá đỏ như cây phong xứ lạnh. Vài giống
lùn, lùm bụi, cũng được chọn làm cây kiểng, mùa hoa nở đầy chậu. Cây gỗ
lớn cao đến 20m, phân cành cao, thẳng, tán dày, lá hình bầu dục hay hình
giáo dài, cụm hoa hình tháp ở ngọn các cành, mọc thẳng, nụ hoa hình
cầu, hoa lớn có 6 cánh, có móng ngắn, răng reo màu tím hồng. Cây mọc
mạnh, cây trồng chủ yếu bằng hạt, ươm gieo.
Ở
Việt Nam cây này được gọi là Bằng lăng nước, mọc nhiều nhất ở các rừng
vùng Đông Nam Bộ, đặc biệt là rừng cây gỗ toàn là bằng lăng gần thị xã
Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông. Ở Cố đô Huế dọc một số đường trong thành phố
Lê Lợi, Đống Đa, Lê Hồng Phong hay trong công viên cạnh dòng sông
Hương, hè về bằng lăng thay cho phượng tím, thỉnh thoảng đâu đây tà áo
tím mang lại cho
Huế một vẻ buồn man mát, trầm lắng, suy tư.
Ý Nghĩa: Chung thủy, tình đầu ngây thơ cùa tuổi học trò, e ấp kín đáo
Hoa Bò Cạp Vàng-Muồng Hoàng Yến
Muồng
Hoàng yến còn có tên là Bò cạp vàng, Bò cạp nước , Muồng hoàng hậu,
Mai dây, Cây xuân muộn, Mai nở muộn,
tên khoa học Cassia fistula L, họ Đậu(Fabaceae). Loài muồng này có
nguồn gốc từ miền nam châu Á, từ miền nam Pakistankéo dài về phía đông
qua nẤn Độ tới Đông Nam Á và về phía nam tới Sri
Lanka.
Loại
Muồng Hoàng yến lớn, nở rộ và sai, rực rở, dạng cành hoa rủ xuống dài
20–40 cm; cuống chung nhẵn, dài 15–35 cm hoặc có thể hơn. Cánh hình bầu
dục mặt ngoài phủ lông mượt. Mỗi hoa đường kính 4–7 cm với 5 cánh hoa
màu vàng tươi có hình bầu dục rộng, gần bằng nhau có móng ngắn; nhị 10,
bao phấn phủ lông tơ ngắn. Bầu và vòi nhụy phủ lông tơ mượt. Quả dạng
quả đậuhình trụ, hơi có đốt, dài 20–60 cm hoặc hơn, đường kính quả
15–25 mm, mang nhiều hạt trái xoan rộng, khi khô có vỏ cứng, có thể dùng
làm thuốc xổ; thịt quả có mùi hôi khó chịu. Mùa hoa tháng 5-7 (Bắc bán
cầu) hay tháng 11 (Nam bán cầu) Bò Cạp nước phát triển tốt nơi có nhiều
nắng và thoát nước , không thích hợp với điều kiện khí hậu khô cằn hay
giá lạnh; mặc dù nó chịu được hạn và mặn.
Ở
Việt Nam, muồng Hoàng yến (có nơi gọi là cây Bọ cạp nước) mọc hoang dại
trong các rừng thưaở các tỉnh Tây Nguyên, cũng còn được trồng như cây
cảnh ở đô thị như Nha Trang, Đà Lạt, Sài Gòn.
Quốc
Hoa: Bò Cạp nước là quốc hoa của Thái Lan
Hoa Dâm Bụt , Bông Bụp
Chi
Dâm bụt, hay chi Phù dung (danh pháp khoa học Hibiscus) là một chi lớn
chứa khoảng 200-220 loài thực vật có hoa trong họ Cẩm quỳ (Malvaceae),
có nguồn gốc ở khu vực
ôn đới ấm, cận nhiệt đới và nhiệt đới trên khắp thế giới.
Chi này bao gồm các loại
cây thân thảo một năm hay lâu năm cũng như các loại cây bụi và cây thân
gỗ nhỏ. Lá mọc so le, loại lá đơn hình trứng hay hình mũi mác, thông
thường với mép lá dạng răng cưa hay dạng thùy. Hoa lớn, dễ thấy, hình
kèn, với 5 cánh hoa, có màu từ trắng tới hồng, đỏ, tía hay vàng và rộng
từ 4-15 cm. Quả là loại quả nang năm thùy khô, chứa vài hạt trong mỗi
thùy, được tung ra lúc quả nang tách ra khi chín.
Quốc
Hoa :Dâm Bụt Hibiscus Syriacus, còn gọi là Rose Of Sharon là
quốc hoa của Đại Hàn (South Korea) Biểu tượng Trường Cửu (Immortality)
và Hibiscus-Rosa Sinesis màu đỏ là quốc hoa của Mả Lai (Malaysia) Biểu
tượng Sự sống (Life) và Can đảm (Courage).
Hoa Cẩm chướng-Carnation
Cẩm chướng tên khoa học Dianthus caryophyllus (Clove Pink) là một loài Dianthus thuộc họ Caryophyllaceae. Có
thể nguồn gốc Địa Trung Hải nhưng không rỏ vì loài hoa đã được trồng
trên 2000 năm nay. Là giống hoang nhưng là ông tổ của các giống Cẩm
chướng trồng
trong vườn.
Thuộc
dạng cây cỏ, sống lâu năm, có thể mọc cao đến 80m, lá xanh xám có phấn,
mềm mại dài đến 15cm. Hoa mọc đơn hoặc chùm, đường kính từ 3-5cm thiên
nhiên có màu tím hồng
rực rở, những loại hoa lai giống sau có thể có màu đỏ, vàng, xanh lá
cây hoặc trắng. Cẩm chướng thích đất khô ráo, không thích đất acid và
cần nhiều ánh nắng. Colombia là sứ sản xuất Cẩm chướng lớn nhất thế giới
Quốc hoa: quốc hoa của Spain, Monaco, South Korea và Slovenia and
Czech
Ý nghĩa: Cự tuyệt, từ chối tình cảm cũng tượng trưng cho tình bè bạn, lòng quí mến, tình yêu trong trắng, thanh cao
Hoa Cẩm Tú Cầu
Hydrangea
Có
khoảng 100 loài giống
Cẩm Tú Cầu thuộc họ Hydrangeaceae, có loài rụng lá có giống cây nhỏ,
leo và bụi cây xanh quanh năm, tìm thấy ở vùng khí hậu lạnh ở châu Á,
một vài loài ở châu Mỹ. Cành Cẩm tú cầu dể gãy, ruột rổng , lá xanh đậm
có răng cưa . Hoa nở tuyệt, màu sắc hoa biểu hiện tùy thuộc vào ảnh
hưởng của đất trồng, nói chung đất acid cho màu xanh, đất kiềm Alkaline
thì cho hoa đỏ hoặc hồng. Hoa nở mùa hè hay xuân. Các loại cây giống
được chia làm 2 nhóm: Hotensias khoảng 500 loài và Lacecaps khoảng 20
loài. Lá Cẩm tú cấu khô có vị ngọt có thể dung làm trà.
Lá và củ cây loài Hydrangea macrophylla có chất Hydragin-cyanogenic glycoside gây tiêu chảy, ói mửa.
Hoa Dạ Lan (Hương)-Hyacinth
Dạ
lan hay Lan dạ hương có tên khoa học
là Hyacinth
orientalis thuộc họ Asparagaceae, có khỏang 770 đến 1000 loài . Củ Dạ
Lan có độc tố Alkaloid gây vọp bẻ, đầy bụng, buồn nôn, tiêu chảy nếu ăn
phải.
Lan
dạ hương có xuất xứ từ Địa Trung Hải, dáng vẻ tao nhã với những bông
hoa hình chuông mọc tiếp nhau, cai này trên cái kia tạo thành 1
hình tháp duyên dáng trên những cuốn hoa thanh thoát. Một
nhóm các bông hoa dễ thương này, có gần như đầy đủ màu của 7 sắc cầu
vồng, là một biểu tượng huy hoàng và rực rỡ. Hyacinthus orientalis
(Common Hyacinth, Garden Hyacinth or Dutch Hyacinth), là một loài than
thảo cho hoa nhiều năm, nguồn gốc Tây Nam Á Châu, Thổ Nhỉ Kỳ, Trung
Đông. Dạ Lan còn gọi là Lan Dạ Hương cây thân thảo sống lâu năm được
phát triển từ củ (bulb) thân hành sống lâu năm, đường kính khoảng 3-7cm,
bao gồm một số loại cây trồng phổ biến trong vườn như Lan dạ hương (chi
Hyacinthus), chuông tím (chi Hyacinthoides) và hành biển (chi Scilla).
Hoa Dạ lý hương
Tên khoa học là cestrum noeturnum murray thuộc họ cà (solanaeeae), gốc miền Tây Ấn Độ
Cây
hoa dạ hương tức là cây hoa thơm về đêm. hoa có dạng bụi. Cành lá tuy
mềm mại nhưng
thô thiển. Hoa vàng nhạt. Thường được trồng ở góc vườn, góc sân, lá
đơn, mọc cách, màu xanhnhạt, nhẵn bóng, gốc thuôn dài có cuống ngắn. Hoa
nhiều, tập hợp thành chùy ở đầu cành hay nách lá. Hoa màu vànglục nhạt,
hay lục nhạt, thơm ngát về đêm. Cánh tràng hợp thành ống dài, trên loe
thành phễu chia thành năm thùy trái xoan nhọn. Quả mọngmàu lam hay đen
nhạt, hạt dẹt. Cây rất dễ trồng bằng giâm cành, mọc khỏe đâm ra nhiều
chốivà mùa hoa gần như quanh năm.
Cây hoa dạ hương rất dễ trồng chịu được mọi điều kiện bất thuận, cho hoa về mùa hè, toả hương thơm về đêm.
Cây hoa dạ hương rất dễ trồng chịu được mọi điều kiện bất thuận, cho hoa về mùa hè, toả hương thơm về đêm.
Ý nghĩa: Vui sướng nhận được tình bạn
Dã yến thảo (petunia)
Petunia là chi có khỏang 35 giống thân cỏ cho hoa có nguồn gốc
Nam Mỹ, có liên hệ gần với thuốc lá và cà tô mát (tomato), khoai tây vì cùng thuộc họ Solanceae.
Dã
yên thảo là cây thân cỏ, thường được trồng trong chậu để trang trí cho
các khu vườn và là cây hàng năm. Phần lớn Dã Yến thảo chúng ta trồng
ngày nay là Dã Yến thảo đã được lai giống từ Petunia Aillaris, P.
Violacea và P. Inflata. Dã Yến thảo được chia thành 2 kiểu cây:
- Dã Yến thảo kép: cây thân leo, hoa lớn với nhiều cánh (grandiflora), đường kính của hoa có thể lên tới 13 cm.
- Dã Yến thảo đơn: cây bụi, có rất nhiều hoa nhưng hoa
chỉ có một lớp cánh (mulitflora), đường kính của hoa khoảng 5 – 7.5 cm, dễ trồng và ít bị ảnh hưởng bởi sâu bọ.
Hoa Dã Yến thảo gốc có hình phễu, nhưng các loại Dã Yến thảo lai tạo có hình dáng đa dạng và phong phú hơn nhiều. Cánh có thể đơn lớp hoặc đa lớp, dạng gợn sóng. Hoa có thể có sọc, đốm hoặc viền quanh cánh với nhiều màu sắc khác nhau như đỏ tía, màu hoa cà, màu oải hương, hồng, đỏ, trắng, vàng. Khi chạm vào lá và cuống hoa thấy hơi dính và có mùi thơm rất khác biệt.
Hoa Dã Yến thảo gốc có hình phễu, nhưng các loại Dã Yến thảo lai tạo có hình dáng đa dạng và phong phú hơn nhiều. Cánh có thể đơn lớp hoặc đa lớp, dạng gợn sóng. Hoa có thể có sọc, đốm hoặc viền quanh cánh với nhiều màu sắc khác nhau như đỏ tía, màu hoa cà, màu oải hương, hồng, đỏ, trắng, vàng. Khi chạm vào lá và cuống hoa thấy hơi dính và có mùi thơm rất khác biệt.
Hoa Dành Dành-Gardinia
Chi
Dành dành danh phá khoa học Gardenia là một chi của khoảng 250 loài
thực vật có hoa trong họ Thiên thảo (Rubiaceae), có nguồn gốc ở các
vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới ở châu Phi, miền nam châu Á và Úc.
Chúng
là
các loại cây xanh dạng bụi có loài thân gỗ nhỏ cao từ 1–15 m. Lá của
chúng mọc đối hay thành vòng của 3 đến 4 lá, dài từ 5–50 cm và rộng từ
3–25 cm, có
màu lục thẫm và bóng mặt với kết cấu giống như da thuộc. Các hoa mọc
đơn hay thành cụm nhỏ, có màu trắng hay vàng nhạt, với tràng hoa hình
ống có 5-12 cánh hoa đường kính 5–12 cm. Loại cây này ra hoa từ khoảng
giữa mùa xuân đến giữa mùa hè và nhiều loài có mùi thơm rất mạnh.
Việc trồng cây dành dành cần có độ ẩm cao để
phát triển. Chúng sinh trưởng tốt trên các loại đất chua,
không úng nước .
Hoa Diên Vĩ –IRIS, Lay Ơn
Diên Vĩ tên
khoa hoc là Iris thưộc chi Iris trong khi Lay ơn thuộc chi Gladiolus cùng họ Iradaceae
Iris
có khoảng 300 loài, nhưng tên Iris cũng được dùng gọi cho những giống
có dạng như Iris như loài Junos . Diên vĩ được trồng thương mại và
rất được ưa chuộng.
Chi
Diên Vĩ hay chi Lay ơn có cùng họ Iridaceae. Tên gọi Diên vĩ là lấy
theo chi Diên vĩ (Iris), còn tên gọi lay ơn (lay dơn) là lấy theo chi
Lay ơn
(Gladiolus). Nó bao gồm một số loài cây trồng được nhiều người biết đến
như Diên vĩ (Iris spp.), nghệ tây (Crocus spp.), sâm đại hành
(Eleutherine spp.), rẻ quạt (Belamcanda spp.).
Quốc Hoa : Diên vĩ đen là quốc hoa của Jordan
Để
phân biệt Diên Vĩ với Lay Ơn , Diên Vĩ có 3 cánh hoa mọc hướng lên và 3
hướng xuống, mỗi cuống hoa Diên Vĩ có tứ một đến 6 hoa nở một lúc trong
khi hoa Lay ơn có dáng hoa kèn nở đầy, bao trùm hết đến đầu cọng hoa.
Cả hai loại hoa đều có nhiều màu sắc , tuy nhiên hoa Lay ơn không có màu
xanh da trời (true Blue).
Loài Diên Vĩ trồng bằng củ hoặc khúc rể (Rhizomes.) Củ ngù vùi trong đất có cấu trúc như củ hành tây, còn khúc
rể thường thì sống trong đất nhưng cũng có loài ngủ cuối Hè, đầu Thu.
Ý
nghĩa: Lòng trung thành, sự khôn ngoan, lòng dũng cảm, niềm hy vọng, lời hứa
Hoa Đào (Peach Blossom)
Cây
đào có nguồn gốc từ
China, danh pháp khoa học là Prunus persica thuộc họ Rosaaceae, là một
loài cây được trồng thường để lấy quả. Nó là một loài thay lá mổi năm,
thân gỗ nhỏ, có thể cao tới 5–10 m. Lá hình mũi mác, dài 7–16 cm và rộng
2–3 cm. Hoa đơn hay kép nở vào đầu mùa xuân, đường kính 2,5–3 cm, màu
hồng với 5 cánh hoa. Quả đào cùng với quả của anh đào(cherry)
,mận(plum) ,mơ(apricot) là các loại trái cây
quả hạch (stone fruits). Trái đào có một hạt to được bao bọc trong một
lớp vỏ gỗ cứng, cùi thịt màu vàng hay ánh trắng, có mùi thơm nhẹ và lớp
vỏ có lông tơ mềm như nhung.
Phần
đông các giống Đào thích khí hậu lành lạnh, nếu lạnh quá cũng không
thích hợp, nếu quá lạnh -26 to -30c , mầm hoa bị chết và như vậy không
cho trái.
Đào cần nắng để nuôi trái trưởng thành, nhiêt độ thời gian này khoảng 20 đến 30C.
Đào cần nắng để nuôi trái trưởng thành, nhiêt độ thời gian này khoảng 20 đến 30C.
Vùng
sản xuất đào từ lâu gồm China,Iran, France, Italy, Spain, Greece . More
recently, the United States tiểu bang trồng nhiều nhất là California
and Georgia , Georgia được biết là tiểu bang Đào, Canada(British
Columbia) và Australia (vùng Riverland) cũng là nơì sản xuất đào quan
trọng .
Anh Đào (cherry, tiếng Pháp cerisier) không phải là loại Sơ ri (tên khoa học là Malpighia glabra thuộc Malpighiaceae ở Việt Nam)
Hoa Đổ Quyên (Azalea, Rhododendrons)
Đổ Quyên loài thân bụi trổ hoa thuộc chi Rhododendron thuôc họ Ericaceae. (Azalea là
một nhánh cũng thuộc trong họ cây đỗ quyên này). Đổ quyên trổ hoa vào
mùa Xuân, hoa nở kéo dài nhiều tuần. Chịu đựng bóng mát và thích sống
gần hoặc dưới cây to.
Cây hoa Đổ Quyên
thường lớn chậm, phát triển khá hơn trong đất hơi acid (4.5 đến 5 ph). Không cần phân bón nhiều nhưng
cần nước và một vài loại phải thỉnh thoảng chăm sóc tỉa cành
Đổ
Quyên mọc thiên nhiên ở Á châu, Âu châu, Bắc Mỹ châu. Được trồng nhiều
như cây cảnh trang trí ở Úc và vùng đông nam nước Mỹ.
Tuy
nổi tiếng vì đẹp , Đổ Quyên có độc chất cao vì chứa đụng chất
andromedotoxins trong lá và cả mật hoa. Chi giống Đổ Quyên, có một thời
nổi tiếng xấu vì hoa có chất độc nên nếu cho ai bó hoa để trong bình
đựng hoa màu đen có ý là hăm dọa bị giết.
Quốc Hoa : Azealea là quốc hoa của Bỉ (Belgium) và Rhododendrons là quốc hoa của Nepal.
Hoa Gạo Bombax ceiba
Bombax
ceiba cũng giống như các cây khác giống Bombax thường được biết là loại
cây bông gòn. Bombax thuộc họ Malvaceae. Cây sống miền nhiệt đới có
thân thẳng và lá rụng mùa Đông. Hoa đỏ có 5 cánh hoa trổ vào mùa Xuân
trước khi mọc lá mới. Trái có hình dáng quả nang, khi chin chứa sợi
trắng như bông. Thân gỗ mềm nhưng có gai để cản trở thú vật
đến tấn công.
Cây
bông gạo đưọc trồng nhiều ở Mã Lai, Nam Dương, Nam Trung quốc, Hong
Kong, Đài Loan và Ấn Độ. Cây được trồng trong công viên và dọc đường
phố vì màu hoa đỏ đẹp nở rộ khoảng tháng ba, tháng tư. Cây bông gạo khá
thông thường ở New Delhi, thủ đô của Ấn Độ nhưng cây không bao giờ cao
đền 60m vì đất nửa khô cằn. Những sợi bông bay trong gió vào khoảng đầu
tháng năm. Cây Bông gạo được goi là cây anh hùng (hero) ở Hong kong vì
bông nở đỏ lúc học sinh chuẩn bị đi thi .
Sử Tàu nói đến Chui To, vua nước Nam Viêt ( Nam Yuet) tặng hoàng đế triều đại Hán (Han dynasty) cây này khoảng thế kỹ thứ hai trước công nguyên (2nd century BC).
Bông Gòn Ceiba pentandra
Ceiba
là một trong những giống cây thân to thuộc họ Malvaceae, có khoảng
10-20 loài, tìm thấy trong vùng nhiệt đới gồm cả Mexico , South America, The Bahamas, Belize and the Caribbean, West Africa,
và Đông Nam Á, một vài loại có thể mọc cao đên từ 70m, thân thẳng đường
kính có thể đến 3m, có gai, ít lá, ít cành. Tiêu biểu và thường được
trồng là cây Bông Gòn Kapok, tên khoa học làCeiba pentandra. Cây trưởng thành cho vài trăm seed pods, trong mổi seed pod có chứa hạt bao phủ
bởi lông tơ màu hơi
vàng vàng mịn mượt là một hổn hợp trộn lẩn giữa lignin và cellulose
Hoa Hải Đường
Họ Thu Hải Đường
(begoniaceae)
Hải đường trong
tiếng Việt không phải là tên gọi để chỉ một loài cây cụ thể. Về mặt phân loại thực vật, nó có thể là các nhóm thực vật sau:
- Trong tên gọi của chi Hải đường (Malus), bao gồm tây phủ hải đường, thùy ti hải đường.
- Tên gọi khác của một số loài trong chi Mộc qua (Chaenomeles) họ Hoa hồng (Rosaceae), bao gồm thiếp ngạnh hải đường, mộc qua hải đường, hải đường Nhật Bản.
- Thiếp ngạnh hải đường (Chaenmoeles lagenaria, Chaenomeles speciosa): còn gọi là mộc qua vỏ nhăn, mộc qua hoa, thiết cước hải đường.
- Hải đường Nhật Bản (Chaenomeles japonica).
- Mộc qua hải đường (Pseudocydonia sinensis, đồng nghĩa: Chaenomeles sinensis): còn gọi là minh trà.
- Trong tên gọi của các loài thuộc họ Thu hải đường (Begoniaceae), bộ Bầu bí (Cucurbitales), bao gồm tứ quý hải đường
- Tên gọi khác của chi Hoa vân anh (hay hoa đèn lồng-Fuchsia) họ Anh thảo chiều (Onagraceae): đăng lung hải đường, điếu chung hải đường.
- chi Tiên khách lai (Cyclamen) của họ Xay (Myrsinaceae) còn gọi là la bặc hải đường.
- Tên gọi của một loại trà có danh pháp khoa học: Camellia amplexicaulis
Ý Nghĩa : Thờ ơ
Hải Đường Việt Nam
Hải đường Việt Nam
Hải
Đường Việt Nam
có tên khoa học là Camellia Amplexicaulis, chi Camellia thuộc họ trà
Theaceae. Cây có nguồn gốc Việt Nam, thân gỗ nhỏ có thể cao đến 2-3m, lá
to xanh
bóng láng, cuống lá mọc bao quanh cọng lá, cũng là nơi hoa trổ hoa màu
đỏ tím có nhụy vàng nở vào dịp Tết. Giống Hải đường này chỉ mới khám phá
được ở Việt Nam khoảng đầu thế kỹ 20, được đặt tên khoa học năm 1916,
giống này thường thấy trồng từ vùng Thừa Thiên Huế ra đến Lạng Sơn.
Hoa hoè
Tên
khoa học Styphnolobium japonicum thuộc họ Fabaceae, có nguồn gốc Nhật ,
mặc dù trồng nhiều ở Trung Quốc, là một loại cây trang trí , hoa màu
trắng , nở cuối hè, được trồng ở Âu Châu, Bắc Mỹ và Nam Phi. Cây có thể
cao đến 10-20m .
Hoa Hồng Môn-Athurium Spp
Anthurium
thuộc chi Arum, họ Araceae, giống phát xuất từ vùng nhiệt đới Mỹ Châu
gồm khoảng 900 loài, thực vật thân thảo và dây leo lưu niên xanh. Rất
thông thường được xem là
loại cây trồng trong nhà, nhưng cũng rât quen thuộc trong vườn cây
nhiệt đới. Hoa này được trồng thương mại và là một kỹ nghệ quan trọng
cuả Hawaii, xuất cảng khắp chợ hoa trên thế giới. Mặc dù có những bộ
phận của Anthurium được dùng làm thuốc nhưng không đươc khuyến cáo, tốt
hơn nên tránh vì tất cả các bộ phận của cây đều có độc tố.
Huệ Ta ở Việt Nam
Huệ
ta còn gọi là dạ lai hương (thơm ban đêm) hoặc vũ lai hương (thơm lúc
mưa), tên khoa học Polianthes tuberose, là một loài hoađặc biệt, nở về
đêm, có khả năng tỏa hương về ban đêm với mùi hương ngào ngạt. Ở Việt
Nam, hoa huệ dùng để cắm trong các dịp cúng, lễ, còn gọi là Hoa huệ
thuộc Agavaceae, hình giáng giống cây tỏi. Cần phân biệt với hoa huệ
Tây Lilium longiflorumm hay còn gọi là hoa Loa kèn thuộc họ Liliaceae.
Ý Nghĩa: Khao khát vật chất,
Hoa Huệ tây, hoa Loa kèn- Lilies
Lilium
là loại hoa trồng
bằng củ (bulbs), hoa to và rực rở. Huệ Tây –hay Loa kèn có khoảng 110
giống thuộc họ Liliaceae, có nguồn gốc ôn-hàn đới Bắc bán cầu, nhưng có
loài cũng thích hợp với vùng ấm ôn
đới. Huệ Tây là một loài hoa thường thấy trồng trong các vườn hoa,
thường đề cập trong văn chương văn hoá nhiều nơi trên thế giới, nhất là
phương Tây. Các giống trong chũng loại Lilium mới đúng Huệ Tây, trong
khi có nhiều loại hoa cũng có chữ lily trong tên thường
gọi, nhưng thật ra là hoàn toàn giống khác không phải là Lilies -Huệ
Tây.
Lily of the valley là quốc hoa của Phần Lan (Finland) và Serbia
Ý Nghĩa: Trong trắng, tinh khiết, tình bạn thật lòng
Hoa Kim Đồng Tristellateia australasiae
Tên khoa học Tristellateia australasiae , thuộc họ Malpighiaceae
Nguồn
gốc Châu Á nhiệt đới, tìm
thấy ở Miền Nam Việt Nam, cây leo thân gỗ, phân cành nhánh nhiều. Lá
đơn mọc đối dạng trái xoan, dày, nhẵn, màu xanh bóng có hai tuyến ở gốc.
Cụm hoa màu vàng ở đầu cành, tràng 5 tỏa rộng, nhị màu vàng khi chín
chuyển nâu đỏ.
Tốc độ sinh trưởng nhanh thích ánh sáng, không cần nhiều nước. Nhân giống từ hạt.
Hoa Kim Ngân-honeysuckle
Kim
Ngân – honeysuckles -dạng bụi cây
hoặc dây quấn tên khoa học là Lonicera
Caprifolium thuộc họ Caprifoliaceae, nguồn gốc Bắc bán cầu. Có khoảng
180 loài , mà 100 loài tìm thấy ở China, Europe, India và Bắc Mỹ . Chim
Hummingbirds thích hoa Kim Ngân nhất là loại Kim Ngân màu vàng Lonicera
ciliosa.
Lá
Kim Ngân đối nghịch, bầu dục dài khỏang 1-10cm. phần đông lá rụng, một
ít xanh quanh năm, phần đông hoa hình chuông có mùi vị ngọt, mật hoa ăn
được , nhánh bị bẻ cũng thoát ra mùi
vị ngọt. Trái nhỏ máu đỏ, xanh hay đen phần đông
có
độc tố chỉ có trái của loài Lonicera caerulea ở Nhật , Nga là ăn được.
Ý nghĩa : Người bạn trung thành
Hoa Lạc Tiên-Chùm bao-Passion Flower
Chi
Passifloraceae thuộc họ Malpighiales có khoảng 530 loài cây có hoa hình
dáng cây, bụi, dây, tìm thấy nhiều nơi trên thế giới nhất là vùng nhiệt
đới ngoại trừ Âu Châu, Nam Cực và Phi Châu.
Chi
Passifloraceae như các loại dây có trái ăn được và có hoa màu tím-
trắng hay màu xanh- trắng giống như mặt đồng hồ rất đẹp. Người Anh gọi
những trái đó là Passion fruit
Passiflora Edullis
Thân thuộc của dòng Passiflora là dây chùm bao Passiflora Foetida L có ở Việt Nam.
Dược tính độc
đáo của loài Maypop:
• Lá Maypop xanh hay khô có thể làm trà uống trị bịnh mất ngủ, đau, động kinh, cuồng loạn (hysteria).
• Một vài loài Maypop được tìm thấy có chứa chất chống trầm cảm beta-carboline harmala alkaloids
• Lá Maypop xanh hay khô có thể làm trà uống trị bịnh mất ngủ, đau, động kinh, cuồng loạn (hysteria).
• Một vài loài Maypop được tìm thấy có chứa chất chống trầm cảm beta-carboline harmala alkaloids
Hoa Lồng Đèn-Vân Anh-Hoa Đăng (Fuchsia)
Hoa
đăng hay hoa Lồng đèn hay hoa Vân anh, gọi là Fuchsia, tên khoa học là
Fuchsia x hybrida, ở còn có tên là hoa bông tai (lady eardrops) hoặc
, giọt nước mắt (teardrops) vì hoa rực rỡ và vì hoa hướng thòng xuống
đất. Màu sắc thay đổi từ trắng, đỏ hồng, tím hay pha lẫn lộn giữa các
màu này.
Hoa
đăng Fuchsia gồm khoảng 110 loài, mọc như lùm bụi cao từ .2m đến 4m và
thuộc họ thực vật Onagraceae. Đa số hoa có nguồn gốc Nam Mỹ nhưng phát
triển tốt vùng nhiệt đới (tropical and sub-tropical climates). Đặc biệt ở
Tân Tây Lan có loài thân
cây hoa đăng cao từ 12m đến 15m
New Zealand Kotukutuku (Fuchsia
excorticata),
Myosotis
là loài thực vật trổ hoa thuộc họ Boraginaceae mọc nhiều ở vùng ôn đới,
được gọi là Forget-me-nots -Đừng quên tôi, có nguồn gốc tiếng
Pháp ne m’oubliez pas và dịch sang tiếng
thời khoảng 1532. Những tên này thường tìm thấy trong nhiều ngôn ngữ
trên thế giới. Forget me not sống 1, 2 năm thân thẳng mọc, hoa mọc sai
nhỏ màu xanh da trời, giữa có mắt màu vàng kéo dài cuối Đông đến đầu Hạ.
Tán lá mềm có lông, lá dài 1 dến 5cm dọc theo cọng cây. Cây có thể sống
lâu trong vườn vì hạt rớt rồi nẩy mầm trở lại trên đất. Loại Lưu Ly có
tên khoa học là Myosotis Scorpioides có hương thơm mát.
Quốc hoa: Denmark
Ý Nghĩa :
Xin đừng quên tôi
Hoa Lục Bình- Eichhornia crassipes
Tên
khoa
học là Eichhornia crassipes thuộc họ Pontederiaceae. Tất cả các bộ phận
của cây đều có độc gây chứng ăn không tiêu, ói mửa trên chó, mèo và một
số vật
nuôi khác khi ăn phải.
Water
hyacinth, Lan dạ hương nước là loại thực vật có hoa nổi trên nước,
thích hợp với ao hồ. Kích thước lớn nhỏ tùy trong nước có chất bổ và mực
độ ánh sang trên mặt ao hồ. Ở Việt Nam , lục bình mọc tự nnhiên ở sông
rạch miền Nam, nhất là miền Tây, trổ hoa màu tím. Lục bình mọc hoang
không kiểm soát là một hiểm họa vì nó phủ cả mặt nước tai hại cho
những sinh vật khác.
Hoa
Lục bình trôi dạt trên sông, màu tím rất đẹp nhưng cánh hoa rất mong
manh, đem ra khỏi nước đôi ba phút thì héo rủ vì thế không được dung
trang trí cắm hoa. Hoa Lục bình có thể ăn được như dùng nấu canh chua.
Hoa Mai Địa thảo- Bóng Nước Impatiens
Mai dạ thảo hoặc
Mai địa thảo, Impatiens, Busy Lizzie, tên khoa học
Impatiens walleriana thuộc họ Balsaminaceae, phân bố rộng rải ở Bắc bán cầu và vùng Nhiệt đới, có khoảng 850 đến 1000 loại.
Mai
dạ thảo thuộc giống cây bóng nước với đặc điểm hình thái rất đa dạng.
Tuy nhiên khi nói đến Mai dạ thảo với tên khoa học là Impatiens
walleriana thì đấy là loài có xuất xứ từ vùng Đông Phi; thân cỏ mọng
nước cao từ 15-60cm; lá
hình mác có răng cưa dài từ 3-12cm, rộng từ 2-5cm. Hoa có 5 cánh với
cánh hoa xòe rộng, phẳng. Màu sắc hoa có khi đơn sắc như đỏ tía, cam,
hồng, tím nhưng có khi pha thêm một màu khác như trắng hồng, hồng tía…
Hạt cây hình trái xoan rất dễ bung nếu chạm phải. Đây là hình thức phát
tán hạt giống độc đáo của các loài cây thuộc họ Balsaminaceae.
Cây rất thích hợp để trồng trong luống và trong chậu. Cây ưa sáng nhưng có thể bị héo nếu bị phơi dưới ánh nắng trực tiếp. Nhu cầu nước tưới và phân bón ở mức độ trung bình. Nếu mật độ trồng thưa, thân cây sẽ phát triển thêm nhiều nhánh và cho nhánh to, nhiều bông.
Cây rất thích hợp để trồng trong luống và trong chậu. Cây ưa sáng nhưng có thể bị héo nếu bị phơi dưới ánh nắng trực tiếp. Nhu cầu nước tưới và phân bón ở mức độ trung bình. Nếu mật độ trồng thưa, thân cây sẽ phát triển thêm nhiều nhánh và cho nhánh to, nhiều bông.
Cây
cho hoa màu sắc rực rỡ. Hoa nở hầu như quanh năm, nhưng chóng tàn và dể
bị dập, ít bị sâu bệnh. Thích hợp để trang trí ở các khu vực ban công,
vĩa hè, lối đi. Cây dễ nhân giống bằng hạt hoặc cắm cành. Thường được
trồng để buôn bán vào dịp Tết ở các xứ Tây phương.
Hoa Mận (Plum)
Trống vùng Đà lạt Lâm đồng và cao nguyên Bắc hà
Prunus
salicina (còn gọi là Prunus triflora hay Prunus thibetica), thường được
gọi là mận Trung quốc hay mận Nhật Bản là loại cât trút lá có nguồn gốc
ở Tàu. Bây gìờ được trồng trong vườn cây ăn trái ở Đại Hàn, Nhật, Mỹ và
Úc
Không
nên lẩn lộn giữa Prunus salicina với Prunus mume,
vì loại này cốt chỉ cần cho trổ hoa đẹp trang trí, cũng được trồng ở
China, Japan, Việt Nam, Lào, Đài Loan and Korea. Prunus mume, cũng
như
gọi là mận Trung quốc hay mận Nhật Bản có nguồn gốc Á Châu thuộc chi
Prunus họ Rosaceae cho hoa rất đẹp, thường được thông dịch là hoa mận
Plum blossom. Giống này liên hệ đến hai giống Mận và Mơ. Loại hoa này
tìm thấy ở vùng rừng thưa, hai bên
dòng suối , triền núi hoặc nơi có độ cao từ 1700 đến 3100m.
Hoa mận nở trong khoảng thời gian không dài, chỉ kéo dài từ 2 đến 3 tuần lễ.
Ở Việt Nam,
vùng Lào Cai , Lai Châu , Mộc Châu
có
trồng loại mận gọi là Mận Tam Hoa
Quốc Hoa: Hoa Mận ( Plum blossom) là quốc hoa của China
Trong Nam, Mận là loại cây trái khác có
nguồn gốc miền Nam Việt
Nam , Mã Lai và Nam Dương, còn gọi là táo Mả Lai hay Pommerac, tên khoa học là Syzygium malaccense, thuộc họ Myrtaceae , Bắc gọi là quả Roi
Mận
là cây thường xanh nhiệt đới, cao đến 15m , lá dài 10–25 cm và
rộng 5–10 cm . Hoa màu trắng, đỏ hoa mọc thành ngù 5-30 hoa ở ngọn hay
nách lá đã rụng đường kính 3-4cm . Trái mọng, hình chuông, ăn được, màu
xanh, trắng đến đỏ đậm, màu tía. Hoa và trái không chỉ mọc từ nách lá
mà có thể mọc ở gần như bất kỳ điểm nào trên thân cây và nhánh cây. Thịt
mận trắng chin thì ngọt và dòn trong chứa 1-4 hột màu nâu. Mận có thể
làm mức .
Cây
Mận
hoa trắng được
trồng nhiều ở Việt Nam, Đài Loan, Thái, Â Độ, Hồi, Bangladesh và Tích
Lan. Giống Mận đỏ (gốc Nam Dương) cũng được trồng
nhiều ở Viêt Nam, Nam Dương và Thái Lan. Ờ miến Tây, có Mận Trung Lương
nổi tiếng ngon ngọt nhất miền Nam. Trái mận lớn, da ửng hồng và có sọc,
ăn dòn và ngọt lịm hoặc màu xanh, trái to, vừa ngọt vừa dòn.
Hoa Mẫu đơn
Loại
hoa thuộc chi Thược dược, danh pháp khoa học Paeonia là chi duy nhất
trong họ Mẫu đơn (Paeoniaceae). Các loài trong chi này có nguồn gốc ở châu Á, miền nam châu Âu và miền tây Bắc Mỹ.
Phần
lớn các loài là cây thân thảo thường xanh, cao khoảng
0,5–1,5 m, nhưng một số loài là cây bụi thân gỗ cao tới 1,5–3 m.
Chúng có các lá phức, xẻ thùy sâu và hoa lớn, thường có mùi thơm, có
màu từ đỏ tới trắng hay vàng, hoa nở vào cuối mùa xuân hay đầu mùa hè.
Trong quá khứ, các loài mẫu đơn/thược dược này đã được phân loại trong
họ Ranunculaceae, cùng với các loài cỏ chân ngỗng Animone
Hoa Mộc Lan magnolia sprengeri họ Magnoliaceae
Mộc lan có khoảng 210 giống có hoa thuộc họ Magnoliaceae. Được đạt tên theo nhà thực vật học ngưới Pháp Pierre Magnol.
Môc Lan là một chi giồng cổ xưa, tiến hóa trước loài ong xuất hiện, hoa phát triển để khuyến khích bọ cánh cứng ( beetles)
thụ phấn. Tránh hoa bị hủy hoại bởi bọ, lá noãn carpels của
hoa rất dai cứng. Người ta đã tìm thấy những mẩu hoá đá của giống
Magnolia acuminate khoảng 20 triệu năm trước đây và nhửng loại cây thực
vật thuôc họ Magnoliaceae cách đây khoảng 95 triệu năm. Diện mạo sơ khai
là hoa không có đài hoa (sepals)
hơặc cánh hoa (petals) .
loại
giống thiên nhiên của Mộc lan được phân bô tách rời, với trung tâm
chính ở Đông và Đông Nam Á và trung tâm phụ ở vùng đông Bắc Mỹ
châu, Trung Mỹ châu, vùng West Indies và vài chủng loại ở Nam Mỹ Châu. Mộc lan được trồng làm cây cảnh trong vườn và trong công viên.
Hoa mơ-Apricot Prunus armeniaca Linn
Mơ
tiếng Anh là Apricot (Hán Việt: hạnh) danh pháp khoa học Prunus
armeniaca) là một loài thực vật thuộc chi Prunus, họ Rosaceae
Cây mơ có gốc gác ở miền Trung Á hay Đông Á (Miền Hoa Bắc, Mông
Cổ. Nay ở Trung Đông, vùng Địa Trung Hải có trồng rất nhiều cây mơ. Ở
Thổ Nhĩ Kỳ ,Úc và ở Hoa Kỳ, nhất là ở tiểu bang California có trồng nhiều mơ.
Hoa Mua
Melastoma
malabathricum, cũng gọi là Malabar Melastone, Indian Rhododendron and
Singapore Rhododendron là loài thực vật ra hoa thuộc họ Melastomataceae.
Được
tìm thấy ở Trung Quốc, Nhật, Miến Điện, Miên, Lào, Ấn Độ, Mã Lai, Thái ,
Phi, Úc, Việt Nam và Nepal . Thuộc loại thân gỗ bụi, không cao 2-5m,
hoa rực màu tím đậm hay mọc ở đồng cỏ cao nguyên hay rừng thưa. Ở Mỹ
đây là cỏ độc hại. Cây mua ở Việt Nam thường sống ở những nơi ẩm như
ven sông hoặc bờ ruộng ở khắp Việt Nam. Hoa mua có nhiều loại như mua
bà, mua ông, mua đa hùng, mua thường,
mua lông …
và có nhiều màu khác nhau nhưng chủ yếu là màu tím. Màu tím của mua
cũng có nhiều loại: tím thẫm, tím pha hồng, và nhiều khi chúng bị lầm
tưởng là hoa sim. Dù hoa rất đẹp nhưng cây mua không được chuộng làm cây
cảnh vì cành rất giòn và khó đâm tược. Theo thống kê trong sách Cây cỏ
Việt Nam, họ hoa mua ở Việt Nam có hơn 135 loài, kể cả những loài nhập
nội.
Hoa Mười Giờ
Hoa mười giờ hay rau sam hoa lớn tên khoa học Portulaca grandiflora một loài cây thân
mọng nước, nhỏ, nhiều nhánh và lớn
nhanh trong họ Rau sam (Portulacaceae).
Tên gọi mười giờ là do hoa thường chỉ nở từ khoảng 8/9 giờ đến 10 giờ
sáng rồi lại khép lại vào buổi chiều trong ngày. Là loại cây thân thảo,
mọc bò trên đất hay chậu, cao khoảng 10–15 cm. Lá hình dải hơi dẹt, dài
1,5–2 cm, mép nguyên, thân có màu hồng nhạt, lá có màu xanh nhạt, trái
hình cầu đường kính 3-4 mm.
Loài
thực vật này có nguồn gốc Nam Mỹ, nhưng được trồng rộng rãi trong các
khu vực ôn đới. Hoa sặc sỡ, với màu sắc đỏ, cam, hồng, trắng hay vàng.
Theo tạp chí Birds & Blooms,
tháng 6 năm 2006 thì “Hoa mười
giờ được đưa vào các khu vườn của châu Âu khoảng 300 năm trước…nhanh
chóng thu
được sự phổ biến vì các tính chất y học của nó, bao gồm làm mất đi
tiếng nghiến răng, co thắt cơ và làm dịu vết bỏng do thuốc súng”.
Loài cây thích
hợp với chỗ đất ráo nước và nhiều nắng.
Tại
Việt Nam, hoa được trồng làm một loại cây cảnh. Trong Đông y người ta
cũng dùng hoa trong điều trị một số bệnh như viêm họng, eczema, ghẻ, mụn
nhọt…
Hoa Ngọc Nữ -Clerodendrum thomsoniae
Ngọc
nữ (hay Rồng nhã ngọc) là một loài của 400 loài Clerodendrum thuộc họ:
Verbenaceae có nguồn gốc nhiệt đới ở phía tây châu Phi, từ tây Cameroon
sang Senegal, được trồng nhiều nơi trên thế giới làm cảnh trang trí. Cây
Ngọc nữ là dây leo xanh, cao tới 4 m,
với lá hình trứng thuôn dài 8-17 tới cm. Các hoa được sản xuất từng cụm
8-20 hoa, phần hoa màu trắng- chính ra là đài hoa đường kính khoảng 5
cm – bao bọc lấy đóa hoa năm cánh nhỏ xíu màu đỏ máu, đường kính khoảng 2
cm
Hoa còn tượng trưng cho vẽ đẹp tinh khiết như ngọc của thiếu nữ
Hoa còn tượng trưng cho vẽ đẹp tinh khiết như ngọc của thiếu nữ
Ngọc Nữ có các tên Anh như Glory-bower, Bagflower, Bleeding Glory-bower, hay Bleeding Heart
Vine
Hoa Ngải tiên-White Ginger Lily
Ngải tiên tên khoa
học Hedychium coronarium Koenig, thuộc họ Zingiberaceae (Gừng)
Thân
giống cây Gừng cao khoảng 1-2m, lá không cuống, hình mũi mác, nhọn cả
hai đầu, nhẵn ở mặt trên, có lông mặt dưới, dài tới 60cm, rộng 12cm,
thon. Cụm hoa nở màu trắng, rất thơm từ tháng 6 đến tháng 10 ở Việt Nam.
Tìm
thấy ở Nam Trung Quốc, Việt Nam (Ngải tiên phân bố tự nhiên ở một số
vùng núi có độ cao 1400 – 1800m tại một số tỉnh Lào Cai, Lai Châu, Hà
Giang), Mã Lai, Úc. Cây mọc vùng có khí hậu lạnh, ẩm ươt, thân rể và quả
có mùi thơm, vị cay, ấm
được dùng làm dược thảo chửa nóng lạnh, phong thấp,
đau bụng, trừ giun
Ở Hawaii và các hải đảo Thái Bình dương, ngải tiên được dùng làm lẳng hoa, hoa được đeo trên tóc phụ nữ ở phía sau lổ tai.
Quốc
Hoa: Cuba
Hoa Ngọc Trâm –Primula
Primula là một trong 400-500 loài cỏ thảo (herb) trong họ Primulaceae, gồm các loài primrose,auricula, cowslip and oxlip.
Thường được trồng làm hoa cảnh, mọc ở vùng có khí hậu lạnh hay lành
lạnh như Đà Lạt. Có nguồn gốc ôn đới Bắc bán cầu, vùng lạnhNam
Phi Châu. Ngọc Trâm sống lâu, lưu niên, trổ hoa suốt mùa Xuân, có đủ
sắc màu tím, đỏ, vàng, hồng, trắng và không thích ánh nắng chiếu thẳng.
Có nhiều loại Ngọc Trâm thích ứng với khí hậu vùng núi cao.
Hoa Oải Hương –Lavender
The lavenders tên khoa học Lavandula) là một
chi giống có 39 loại thực vật ra hoa thuộc họ Bạc
Hà (mint) Lamiaceae. Được tìm thấy từ Cape Verde và Canary Islands,
southern Europe qua
phía Bắc và Đông Bắc Phi Châu , Địa trung hải, tây nam Á Châu đến đông
nam Ấn độ. Nhiều loại Lavender được canh tác qui mô ở vùng Ôn đới như
hoa cảnh trang hoàng và trích dầu thương mại ( the extraction of
essential oils).
Ý nghĩa: Sự ngờ vực
Quốc hoa : Bồ đào nha
(Portugal)
Hoa Ô Môi
Cây
gỗ trung bình, cao 10 – 20 m, phân cành lớn, mọc ngang thẳng, vỏ thân
nhẵn, những cành non có lông màu rỉ sắt, cành già màu nâu đen. Lá kép
lông chim với 8 – 20 đôi lá phụ dạng thuôn dài tròn cả hai đầu, dài
7–12 cm, rộng 4–8 cm, có phủ
lông mịn, màu xanh bóng, gân rõ. Cụm hoa nở rộ khi lá rụng, dạng chùm
dài mang hoa lớn, xếp thưa, màu hồng đậm, thõng xuống. Hoa màu hồng tươi
mọc thành chùm ở những kẽ lá đã rụng. Quả hình trụ dẹt dài 40–60 cm,
cong như lưỡi liềm, đường kính 3–4 cm, có 50-60 ô, mỗi ô chứa một hạt
dẹt màu vàng cứng, quanh hạt có cơm màu nâu đen, vị ngọt, mùi hắc.
Hoa Ô Môi rất đẹp, thường
trồng làm cây cảnh vì hoa đẹp.
Cơm quả dùng ăn chơi hoặc ngâm rượu làm thuốc có tác dụng giúp ăn ngon miệng, tiêu hóa tốt, chữa đau lưng, đau xương, nhức mỏi.
Hạt
ô môi ngâm nước
nóng tới khi lớp vỏ cứng bong mềm ra, lấy nhân bên trong, đem nấu với
nước đường cho mềm, dùng trong chè giải khát, tương tự như các loại hạt
trong sâm bổ lương.
Lá
ô môi dùng tươi đem giã nát, xát vào những vết hắc lào, lở ngứa, có thể
chữa khỏi. Lá ô môi sắc nước làm thuốc cũng có công dụng chữa đau lưng,
nhức mỏi.
Với nhiều công dụng làm thuốc, cây ô môi còn được ví như là Canh ki na (Cinchona
succirubra Pavon) của Việt Nam, khiến nhiều người lầm
tưởng cây ô môi là cây Canh ki na. Nguồn gốc Nam Mỹ được trồng lấy bóng
mát, hoa đẹp trồng nhiều nước trên thế giới. Ở Việt Nam, Ô môi trồng ở
miền Nam. Vỏ cây Canh kina có chất kí ninh dùng làm thuốc trị sốt rét
Hoa Ông Lảo (Clematis)
Tên
khoa học là Clematis uncinata, thuộc họ Ranunculaceae, có nguồn gốc
Trung Quốc. Dây leo, nhánh tròn, có khía, không lông, cao từ 7 – 15 cm.
Cụm hoa có cuống
dài, ở nách lá, cánh hoa dẹt, trắng, đỏ sẫm hay tím , ra hoa tháng 5
tháng 6. Đặt biệt loài Ông Lảo miền lạnh thì trúc lá, nhưng ở miền nóng
thì vẩn xanh quanh năm
Phần lớn các chủng là loại cây lưu niên cần có nắng, thích khí hậu mát lạnh. Ở Việt Nam loại này thường gặp tại Lào Cai, Lạng Sơn, Quảng Ninh và Ninh Bình mọc ở bìa rừng , trong lùm bụi
Phần lớn các chủng là loại cây lưu niên cần có nắng, thích khí hậu mát lạnh. Ở Việt Nam loại này thường gặp tại Lào Cai, Lạng Sơn, Quảng Ninh và Ninh Bình mọc ở bìa rừng , trong lùm bụi
Rễ, thân được dùng làm thuốc trị phong thấp đau xương, đau răng, thân dùng trị tiểu tiện bất lợi.
Ý Nghĩa : Tài khéo léo, mưu mẹo
Hoa Pensée (Viola tricolor)
Tên tiếng Việt là Hoa Bướm, Păng-xê, Tử La Lan. Tên tiếng Anh: Pansy Tên tiếng Pháp: Pensée, Tên khoa học là Viola Tricolor, thuộc họ Violaceae. Loại hoa lai giống (hybridized), thường trồng làm cảnh trong vườn, có nhiều màu sắc, đường kính khoảng 5cm-8cm, có thể sống đến 2 năm nhưng chỉ cho hoa vào năm thứ hai, nên người mua hoa chỉ trưng được có một mùa .
Hoa không thích
hợp với khí hậu nóng, trong điều kiện thích hợp cây hoa có thể cao đến 25cm.
Ý nghĩa : Tương tư, nghỉ về em (thinking of You); Người đã chiếm giữ mọi ý nghĩ của tôi.
Hoa Phong Lan (Orchids)
1-Bulbophyllum hay chi Lan
lọng, chi Lan
2- Chi Cát lan hay chi Lan hoàng hậu Cattleya. Cũng là quốc hoa của Ba Tây
(Brazil)
3- Lan hoàng thảo-Dendrobium
4-Epidendrum
5-Oncidum
6- Chi Lan hồ điệp (danh pháp: Phalaenopsis ),
7-Pleurothallis
8-Vanda
9-Vanilla
Họ Phong Lan, hay họ Lan, danh pháp khoa học Orchidaceae là một họ thực vật có hoa , thuộc bộ Măng tây (Asparagales),
lớp thực vật một lá mầm. Họ Orchideceae là một trong những họ lớn nhất
của thực vật và có các thành viên mọc trên toàn thế giới, ngoại trừ Nam
Cực; có cây hoa lan sống dưới mặt đất và chỉ nở hoa trên mặt đất cũng
như có cây hoa lan sống tại vùng cao nguyên của dãy núi Himalaya hoa lan có thể tìm thấy tại các vùng có khí hậu nhiệt đới như trong rừng già
của Brasilđến các vùng có tuyết phủ trong mùa đông như tại bình nguyên của Manitoba, Canada Các
loài lan chủ yếu mọc trên cây cao, sống biểu sinh lâu năm. Chúng được
gọi chung là phong lan. Bên cạnh đó cũng có các loài mọc trong đất, tức
là địa lan và có một số loài mọc trên đá tức thạch lan.
Vườn thực vật hoàng gia Kew liệt
kê 880 chi và gần
22.000 loài được chấp nhận, nhưng số lượng chính xác vẫn không rõ (có
thể
nhiều tới 25.000 loài) do các tranh chấp phân loại học. Số lượng loài
lan cao gấp 4 lần số lượng loài động vật có
vú hay hơn 2 lần số lượng loài chim. Nó chiếm khoảng 6–11% số lượng
loài thực vật có hoa. Khoảng 800 loài lan mới được bổ sung thêm mỗi năm.
Các chi lớn nhất là Bulbophyllum (khoảng 2.000 loài), Epidendrum (khoảng 1.500
loài), Dendrobium (khoảng 1.400 loài) và Pleurothallis (khoảng 1.000 loài). Họ này cũng bao gồm chi Vanilla (chi chứa loài câyvani), Orchis (chi điển hình) và nhiều loài được trồng phổ biến như Phalaenopsis hay Cattleya.
Ngoài
ra, kể từ khi du nhập các loài từ khu vực nhiệt đới vào trong thế kỷ 19
thì các nhà làm vườn châu Âu và Bắc Mỹ đã bổ sung thêm khoảng 100.000
loại cây lai ghép và giống cây trồng.
Hoa
lan được người
tiêu dùng ưa chuộng vì vẻ đẹp đặc sắc và các hình thức đa dạng của
chúng. Cũng giống như cây lan, hoa lan hầu như có tất cả các màu trong
cầu vòngvà những kết hợp của các màu đó. Hoa lan nhỏ nhất chỉ bằng hạt
gạotrong khi hoa lan lớn nhất có đường kính khoảng 1m.
Đa số các loại hoa lan được bán rộng rãi trên thị trường thường không có hương thơm nhưng trong tự nhiên có rất nhiều
loại hoa lan có mùi thơm đặc trưng. Vanilla là một loại hoa lan mà hương thơm được dùng trong các loại ẩm thực của thế giới và có nguồn gốc từ Mexico; trong khi đó
có các loại hoa lan tỏa ra mùi như thịt bị hỏng để hấp dẫn các côn trùng.
Quốc Hoa : Phong Lan là quốc hoa của Mexico, Venezuela; giong Vanda Miss Joaquim là quốc hoa của Singapore; Cát Lan
(Cattleya) của Argentina và Brazil
Ý Nghĩa: Giàu sang, tình yêu và vẻ đẹp hiếm có
Hoa Phù Dung
Phù dung có tên khoa học Hibiscus mutabilis,
hay còn
gọi là phù dung thân mộc, mộc phù dung, địa phù dung, phù dung núi, hoa
phù dung, mộc liên, là một loài thực vật có hoa thân nhỏ hoặc bụi thuộcMalvaceae.
Cành
phù dung mang lông ngắn hình sao. Lá có năm cánh, cuống lá hình tim,
mép có răng cưa, đường kính có thể tới 15 cm, mặt dưới nhiều lông hơn, 5
thùy hình 3 cạnh ngắn có 7 gân chính. Hoa lớn, có 2 loại: hoa đơn
(có 5 cánh), hoa kép (có nhiều cánh); hoa nở xoè to bằng cái bát, chất
cánh xốp, trông như hoa giấy; hoa thay đổi màu sắc từ sáng đến
chiều (sáng trắng, trưa hồng, chiều đỏ) vì trong cánh hoa có chất anthoxyan bị
oxi hoá dần khi tiếp xúc với không khí, kích thước hoa 10–15 cm. Giống
‘Rubra’ có hoa màu đỏ. Quả hình cầu, có lông vàng nhạt. Hạt hình trứng,
có nếp nhăn nhỏ mang lông dài.
Cây
được trồng
ở Trung Quốc, Ấn Độ, Phi Luật Tân, Nhật Bản, Hoa Kỳ. Cây mọc tốt trong
điều kiện có nắng và thích hợp với loại đất giàu chất dinh dưỡng.
Ý nghĩa : Hồng Nhan bạc phận
Hoa Quỳnh (Night Blooming Cereus-Epiphyllum grandilobum)
Hoa
quỳnh tên khoa học là Epiphyllum grandilobum thuộc chi Epiphyllum họ
Cactaceae có nguồn gốc Trung Mỹ (Panama, Costa Rica). Thực tế hoa Quỳnh
được nhận định có
19 loại chính thiên nhiên và hàng ngàn loại lai giống cho nhiều màu sắc
khác nhau. Hoa Quỳnh cũng được gọi là “nữ hoàng của bóng đêm, Queen of
the Night “
Trước đây trong các tác phẩm văn chương hoa Quỳnh đã được đề cập đến như một huyền thoại dành cho giới thượng lưu và tao nhân mặc khách thưởng lãm vì sự quý hiếm và chăm sóc rất công phu. Bởi thứ hoa nầy mỗi năm chỉ nở một lần vào dịp cuối năm và đúng nửa đêm. Do đó nhiều người cho là hoa hiếm quý nhất trong các loại hoa nở về đêm, có duyên mới được ngắm nhì hoa nở.
Trước đây trong các tác phẩm văn chương hoa Quỳnh đã được đề cập đến như một huyền thoại dành cho giới thượng lưu và tao nhân mặc khách thưởng lãm vì sự quý hiếm và chăm sóc rất công phu. Bởi thứ hoa nầy mỗi năm chỉ nở một lần vào dịp cuối năm và đúng nửa đêm. Do đó nhiều người cho là hoa hiếm quý nhất trong các loại hoa nở về đêm, có duyên mới được ngắm nhì hoa nở.
Sấu trắng (Dracontomelon duprreanum)
Tên khoa học là Dracontomelon
duprreanum thuộc chi Dracontomelon thuộc họ Anacardiaceae.
Cây
thuộc loại đại mộc sống lâu năm, lớn, xanh lưu
niên, có thể cao 30-40m. Vỏ thân màu nâu. Cành nhỏ có cạnh và có lông
nhung màu tro ; cành non mập màu hơi xám, có lông. Tán lá tròn và rậm.
Lá kép hình lông chim, mọc so le, gồm 19 đến 23 lá chét hình trái xoan
mọc đối, có gốc lệch, đầu nhọn. Lá ở gần gốc dài 5-6 cm, rộng 1-2 cm; lá
ở ngọn lớn hơn : 10-14 cm x 3-4 cm. Hai mặt nhẵn. Lá vò ra có mùi thơm.
Cụm hoa mọc thành chùm ở ngọn hay gần ngọn,
có lông mềm. Lá bắc to và thuôn hình mác. Hoa nhỏ,
lưỡng tính, màu xanh lục-trắng nhạt.
Quả
hạch, hình cầu đường kính khoảng 2cm, khi chín màu vàng hay vàng-cam.
cùi màu trắng đục giòn có vị chua, quả chứa một hạt to, vi đắng.
Cây
trổ hoa trong các tháng 5-7, ra quả các tháng 8-10. Việc ra quả tùy
thuộc vào thời tiết lúc trổ hoa , nếu lúc trổ hoa trời mưa nhiều, cây sẽ
cho it quả. Cây trồng có thể cho quả sau 7-8 năm, sản lượng quả tăng
dần đến khi đạt 50 tuổi..
Cây sâu trắng phân bố trong vùng nhiệt đới Đông Nam Á, tại
vùng Nam Trung Hoa, Thái
Lan, Lào, Việt Nam mọc
tự nhiên và được trồng tại những vùng cao độ đến
600m.
Tại
Việt Nam, cây mọc tự nhiên và được trồng nhiều từ Lạng Sơn xuống đến
vùng Quảng Nam, Cao nguyên như Ban Mê thuột Tại Hà Nội, đường Phan đình
Phùng (gọi là Phố Sấu) có rất nhiều cây sấu hai bên đường.Vườn Cúc
Phương có những cây
sấu đại thụ, cao đến 45m.
Hoa Sen (Lotus) Hoa Súng (Water Lilies).
Hoa sen
có tên khoa học là Nelumbo nucifera, thuộc họ Nelumbonaceae.
Hoa sen là loại thực vật sống trong nước lâu năm. Hột sen có thể sống
được rất lâu hàng trăm năm. Sen có rất nhiều công dụng, hạt sen thường
để nấu chè, tâm sen nhị sen để ướp trà, làm thuốc an thần, ngó sen dùng
làm gỏi, lá sen dung để gói bánh, làm
thuốc an thần và thuốc trị bệnh về máu. Sen (Lotus) thường bị lầm lẩn
với Súng (Waterlily). Nhìn từ tâm của hoa, sẽ nhận ra sự khác biệt vì sự
hình thành của đài sen trong tâm của hoa sen
Quốc Hoa: Hoa Sen là quốc hoa của Ấn Độ, Ai Cập. Loài hoa sen đỏ là quốc hoa
của Việt Nam
Ý Nghĩa: Độ lượng, từ bi, cung kính, hân hoan
Hoa SÚNG
Họ
Súng (Waterlily) có tên khoa học là
Nymphaeaceae) là một họ trong thực vật có hoa. Đối với một số nền văn
hóa phương Tây thì nó là loài hoa biểu tượng của những người sinh vào
tháng 7.
Các loài súng sinh sống ở các khu vực ao, hồ và đầm lầy, với lá và hoa nổi lên trên mặt nước. Lá súng hình tròn, các chi Nymphaea (có 35 loài ở Bắc Bán cầu) và Nuphar có lá bị khía chữ V nối từ mép lá tới phần cuống lá, nhưng chi Victoria (có
hai loài) lại có lá rất to, ,hoàn toàn tròn và không bị khía. Lá đơn,
mọc cách. Hoa xếp xoắn vòng: lá đài 4 – 12 (thường 5 – 6) đôi khi có màu
và lớn hơn cánh hoa như ở chi Nuphar. Cánh hoa nhiều, xếp lợp (ở chi
Nuphar cánh hoa rất nhỏ và có dạng vảy). Nhị nhiều, xếp xoắn. Bộ nhụy
gồm 5 – 35 lá noãn, hợp nguyên lá noãn với bầu thượng, trung hoặc hạ.
Tổng cộng 4-6 chi và khoảng 60-80 loài (tùy theo hệ thống phân loại),
phân bố rộng khắp thế giới. Ở Việt Nam có 3 chi là Nymphaea,
Euryale và Barclaya với khoảng 5 loài.
Theo
phân loại của nghề làm vườn thì các loài súng bao gồm 2 thể loại chính
là: súng chịu rét và súng nhiệt đới. Các loài súng chịu rét chỉ nở hoa
vào ban ngày còn các loài súng nhiệt đới có thể nở hoa vào ban ngày hoặc
ban đêm cũng như là nhóm duy nhất có chứa các loài súng với hoa có màu
xanh lam.
Khả năng tồn tại của
hạt súng cũng như hạt sen rất lâu có đến 2000 năm (nguồn nghiên cứu ở China).
Hoa
súng có thể có mùi thơm (chẳng hạn loài súng thơm Nymphaea odorata).
Hiện nay tồn tại khoảng vài trăm giống hoa súng khác nhau.
Họa sĩ người Pháp Claude Monet đã có một loạt các tranh vẽ về cây và hoa súng.
Quốc Hoa: Hoa Súng xanh tím là quốc hoa của Tích Lan (Sri Lanka), hoa Súng trắng là quốc hoa của Bangladesh
Hoa Sim
Tên
khoa học Rhodomyrtus tomentosa, họ Myrtaceae. Thuộc loại cây hoang dã
mọc ở vùng gò đồi khô cằn châu Âu, châu Á, châu Úc, nhiều nhất là vùng
Đông Nam Á. Ở
Philippine, người ta trồng sim để hái trái. Ở Việt Nam sim mọc ở nhiều
tỉnh miền Bắc, miền Trung, Đông Nam Bộ và Tây
Nguyên. Sim hoang dã chỉ cao chừng 2m. Sim trồng làm cảnh lâu năm có
thể cao hơn 5m.
Hoa
sim mọc thành chùm. Trong một chùm có thể có hoa màu tím thẩm, tím hồng
và màu trắng. Trái sim chín mọng có mầu tím than, vị thơm và ngọt. Trái
chưa chín có mầu nâu tươi, vị chát. Trái và lá có dược tính, trị bệnh
tiêu chảy và viêm nhiễm. Ở vùng gò đồi tỉnh Quảng Trị có 3 giống sim cho
trái lớn nhỏ, vị
ngọt nhạt khác nhau. Đặc biệt giống sim ngân ba, cho trái
lớn nhất. Cây sim tính lành, có sức thu hút các loài chim bướm và
những đàn ve rừng. Qua đầu mùa mưa,
dưới gốc thường có nấm mối là loại nấm ngon nhất. Ở huyện đảo Phú Quốc,
trái sim được chế biến thành rượu ngọt màu tím – là một đặc sản quí
hiếm, rất được du khách ưa thích)
Hoa Soan (Xoan, Sầu đông, Thầu đâu)
Sầu
Đông còn có nhiều tên gọi khác, Bắc gọi là cây X(S) oan, ở miền Nam gọi
là Thầu Đâu. Cây Sầu Đông thân thẳng, cao lại mau lớn (15-20m hay hơn
nữa) được trồng để lấy gỗ hoặc làm vị thuốc, được trồng khắp nơi trong
vùng nhiệt đới và bán nhiệt đới, lá cây thường xanh nhưng
rụng lá vào
mùa Đông hoặc gặp khi hạn hán. Nở hoa mùa nắng, màu tim tím,
trăng trắng.
Hoa Soan có tên khoa học Azadirachta indica, thuộc chi Azadirachta thuộc họ Meliaceae, nguồn gốc
ở Ấn, Miến Điện và
Hồi.
Hoa Sói
Họ hoa Sói tên khoa
học Chloranthaceae, tên đồng nghĩa: Hedyosmaceae Caruel thuộc họ Chloranthaceae, là
một họ trong thưc vật có hoa. Họ này chứa 4 chi, với khoảng 75 loài cây
thân thảo hay thân gỗ chủ yếu sinh sống trong khu vực nhiệt đới và cận
nhiệt đới nhưng không có ở Phi châu đại lục. Tại Madagascar chỉ có chi Ascarina. Các thành viên của họ này có hương thơm và các lá thường xanh, mọc đối với mép
lá khía răng cưa đặc biệt và các lá kèm bao quanh cuống lá (tương tự như
các lá kèm ở các loài trong họ Rubiaceae)
cùng các đốt phồng to. Hoa nhỏ, không dễ thấy, mọc thành các cụm hoa.
Hoa không có cánh hoa và đôi khi các lá đài cũng không có. Hoa có thể
lưỡng tính hay đơn tính, tùy theo loài. Quả là dạng quả hạch, bao
gồm một lá noãn. Gỗ mềm. Hoa sói pha trộn với trà có mùi thơm đặc biệt (nhất là trà Bảo Lộc)
Hoa Sống Đời
Sống
đời còn gọi là cây
thuốc bỏng, lạc địa sinh căn, thổ tam thất, trường sinh, tên khoa học
là Kalanchoe thuộc họ Crassulaceae có khoảng 125 loài khác nhau. Sống
đời rất dể trồng và không cần nhiều nước, nhiều màu sắc khác nhau nên
hay dùng như loại
hoa cảnh trang trí , hoa mọc thành chùm trên đầu lá. Hoa sống đời với 2
loại hoa cánh kép và hoa cánh đơn. Hoa sống đời ở Việt Nam cũng được
dùng làm thuốc Nam.
Hoa sửa
Hoa
sữa, hay còn
gọi là mò cua, mù cua (danh pháp khoa học: Alstonia scholaris L. R.
Br.; đồng nghĩa: Echites scholaris L. Mant., Pala scholaris L. Roberty)
là một loài thực vật nhiệt đới thường xanh thuộc chi Hoa sữa, họ La bố ma (Apocynaceae).
Hoa
sữa có mùi thơm nếu trồng với mật độ vừa phải và nồng nặc khi trồng với
mật độ cao. Ở Việt Nam, một số tỉnh như Quảng Bình, Quảng Trị , Quảng
Nam và thành phố Đà Nẵng , vào năm 1994, người dân đã gửi đơn “kiện” hoa
sữa do nó được trồng dày đặc trên các đường phố, gây ảnh hưởng đến sức
khỏe hoặc xem
bài Lạng sơn khốn khổ vì hoa sữa
Cây
hoa sữa không có mùa trút lá, chỉ lác đác rụng lá vàng, nên suốt năm
cây luôn xanh tốt. Hoa sữa nở
vào độ cuối thu đầu đông, những cụm hoa nhỏ xíu chen chúc từng đám mầu
trắng phớt. Ðộ hoa nở, những ngày lặng gió, không gian xung quanh như
được ướp bằng mùi hương hắc
thơm ngào ngạt, một mùi hương như mơ như thực, bởi hoa nở trên cao
không nhìn thấy, còn cái mùi hương nồng nàn quyến rũ ấy cứ lan xa, dưới
gốc
cây rơi rắc những chấm hoa nho nhỏ, như tấm voan mỏng mịn màng còn
phảng phất mùi hương.
Thạch Thảo (Bắc) Cúc cánh mối (Nam)
Hoa Thạch thảo (Aster amellus L) thuộc họ Cúc (Asteraceae).
Tại Việt Nam, người miền Nam hay gọi là Cúc Sao, Cúc Cánh mối, người
Bắc gọi là Thạch thảo. Thạch thảo hay mọc thành bụi, nhiều bông với cánh
đơn xoè rộng ra. Hoa Thạch thảo có ba màu chính: tím, hồng, trắng.
Thạch thảo ngày nay được lai tạo thêm thành loại hoa
cánh kép. Hoa Thạch thảo cánh mối cũng như các loại hoa cúc thường nở
vào mùaThu, khi mà đa số các loại hoa khác đã tàn.
Như vậy, hoa Thạch Thảo (hay cúc Sao, cúc Nhật, cúc Cánh
Mối) là 1 tên Việt của loài Aster amellus L. thuộc họ Cúc (Asteraceae),
tên Anh ngữ là Aster và Pháp là Astère. Nhóm Cúc (cả trồng làm hoa hay
mọc hoang) thường được gọi chung là Chrysanthemum/Aster, trong đó các
loài mọc hoang thường có 1 chùm lông ở cuối mỗi hột (khi trái chín) và
phát tán nhờ gió (nên mọc hoang, rải rác vào mùa xuân khi có nắng ấm ở
Âu châu, hoa chỉ sống trong vài tháng!). Các loài cúc trồng thì không
phát tán tự nhiên được vì hột không có lông như Vạn Thọ (marigold), cúc
Giấy (zinnia). Có loại được trồng từ hột, có loại trồng bằng củ, cúc
Thạch Thảo (cúc sao/Aster), và nói chung loại nhiều loại cúc thường
trồng từ cây con nhảy chồi (do mọc thành bụi, hoa thường bất
thụ).
Hoa Thạch Thảo ở Ấu Châu-(calluna vulgaris )
Hoa Thạch thảo Ấu châu là thuộc cây Bruyère (tiếng Pháp) hay Heather (tiếng Anh) còn gọi là Common Ling hay Briar.
Từ
điển Sinh Học Anh Việt và Việt Anh, nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật
dịch heather là cây Thạch nam. Erica. Trung hoa gọi là Hồng phương bách
hay thạch nam. Từ điển phổ thông Pháp Việt gọi là cây thạch thảo.
Tất cả các loại thạch thảo đều trong gia đình Ericaceae có khoảng 4000 giống , có một loại hoa thạch thảo duy
nhất thuộc giống
Calluna, ngoài ra là loại Erica.
Loại Calluna vulgaris là loại thạch thảo thật sự (true heather), loại cây nhỏ, có hoa nhỏ hình chuông màu tím, hay hồng nhạt.
Loại Erica thuộc họ Ericaceae gồm
nhiều giống khác nhau từ giống cây nhỏ mọc từng bụi nhỏ hoặc có thể là
cây lớn, không thích đất có vôi (calcufuge) màu sắc có đỏ , hồng , tím ,
trắng, cam. Có nhiều loài rất thông dụng và có giá trị kinh tế quan
trọng mà nguời ta thường biết đến như các giống việt quất (như
blueberry, cranberry, huckleberry) hay đổ quyên (như azalea,
rhododendron).
Hoa Thiên Điểu Strelitzia reginae
Hoa thiên điểu hay hoa chim thiên đường tê
khoa học Strelitzia reginae là một loại cây thân thảo sống nhiều
năm, thuộc họ Strelitziaceae Chuối rẻ quạt. Cây này có nguồn gốc từ các nước miền nam châu Phi và Châu Mỹ nhiệt đới. Tên khoa học của nó là để tưởng nhớ tới Charlotte của
Mecklenburg-Strelitz, hoàng hậu của vua George III của Anh.
Thân
cây cao khoảng 2 m (6,5 ft), rễ chùm, thân lá to hình bầu dục, hình kim
hoặc hình
trứng, có cuống dài, mọc đối xếp thành 2 hàng, dài khoảng
25–70 cm (10-28 inch), phiến lá rộng 10–30 cm (4-12 inch), cuống lá dài
tới 1 m (40 inch). Các lá thường xanh này
tạo thành một tán lá hình quạt. Hoa mọc phía trên tán lá, trên đỉnh của
một cuống dài. Bao hoa gần như vuông góc với thân cây, làm cho bề ngoài
của nó giống như đầu và mỏ chim, tạo thành chỗ đậu vững vàng cho các
loài chim hút mật thụ phấn cho hoa. Hoa bao gồm ba lá đài màu da cam rực
rỡ, ba cánh hoa màu lam ánh tía. Tràng hoa màu lam sẫm, nhụy màu trắng.
Hai trong số ba cánh hoa hợp cùng nhau tạo thành tuyến mật hình mũi
tên.
Hoa thiên Lý
Thiên lý là
loại cây dây
leo, ra hoa thành từng chùm tên khoa học Telosma cordata (Burn F.) Merr, thuộc họ Asclepiadacaceae. Hoa thiên lý
có thể dùng để nấu canh cua, ăn với lẩu hoặc xào với các loại thịt. Thiên lý còn có tác dụng làm cảnh và cho bóng mát.
“Tóc em dài, em cài bông hoa lý,
Thấy em cười, anh để ý… anh thương!”
Hoa Thiết Mộc Lan
Thiết
mộc lan hay phát lộc, phát tài hoặc phất dụ thơm (danh pháp khoa học:
Dracaena fragrans, đồng nghĩa: Dracaena deremensis) là một loài thực vật
có hoa trong họ Tóc tiên (Ruscaceae). Nó là loài bản địa của Tây Phi,
Tanzania và Zambia nhưng hiện nay được trồng làm cây cảnh ở nhiều nơi.
Dracaena fragrans
có các lá mọc thành hình nơ (hoa thị), bóng và sẫm màu, phiến lá có sọc
rộng nhạt màu hơn và ngả vàng ở phần trung tâm. Nó là loại cây
bụi phát triển chậm với các lá có thể dài tới 1 m (3 ft) và rộng 10 cm
(4 inch). Khi trồng trong đất nó có thể cao tới 6 m (20 ft) nhưng sự
phát triển bị hạn chế khi trồng trong chậu. Thiết mộc lan có hoa
trắng-nâu tím với hương thơm, vì thế mà trong tên gọi khoa học có từ
fragrans (nghĩa là hương thơm).
Ý nghĩa : Quý
phái
Hoa thủy Tiên(Daffodil)
Chi
Thủy tiên Narcissus, họ Amaryllidaceae, là tên gọi để chỉ một nhóm cây dạng thân
hành cứng, chủ yếu ra hoa về mùa xuân, trong tiếng Việt có tên gọi
chung là thủy tiên. Có một vài loài thủy tiên ra hoa vào mùa thu. Các
loài cây này chủ yếu có nguồn gốc ở khu vực Địa Trung Hải, nhưng một số loài được tìm thấy tại Trung Á và Trung Quốc.
Các giống cây thủy tiên khá nhiều và nói chung chúng đã được biến đổi
và mở rộng rất nhiều, với các giống mới được đưa ra từ các vườn ươm mỗi
năm.
Tất cả các loài thủy tiên có bao hoa hình
loa kèn trompet ở trung tâm được bao quanh bằng một vòng các cánh hoa.
Các loài hoa thủy tiên truyền thống có màu vàng kim, nhưng bao hoa
thường có màu tương phản. Các nhà nhân giống đã tạo ra một số loại thủy
tiên với 2 hoặc 3 hàng cánh hoa, làm cho chúng trông giống như một quả
cầu nhỏ màu vàng. Các giống khác có các cánh hoa xếp nếp hoặc bao hoa
trung tâm được kéo dài hay nén nhỏ.
Củ và thân thủy tiên chứa chất độc Alkaloids có thể gây chóng mặt, buồn nôn,
tiêu chảy, run rẩy toàn thân, hôn mê, có thể dẫn đến tử vong khi ăn phải.
Hoa của thủy tiên là loại hoa trang trí phổ biến trong ngày Tết cổ truyền Trung Hoa.
Quốc Hoa : Hoa thủy tiên là quốc hoa của Wales. Một loài , “Narcissus obvallaris“, chỉ được trồng tại một khu vực nhỏ xung
quanh Tenby. Tại Wales, theo truyền thống người ta đeo hoa thủy tiên vào ngày lễ Thánh David (1 tháng 3).
Ý Nghĩa: Tính khí kiêu căng, hợm hỉnh, kiêu
hảnh
Hoa thược dược DAHLIA
Thược dược còn là tên gọi của một vài loài mẫu đơn (chi Paeonia).
Thược dược có danh pháp khoa học Dahlia, họ là Asteraceae có đến 30 loài, 20,000 giống sếp vào những chi tùy hình dáng của hoa
đơn, trang trí, hình cầu, chân ngỗng (anemone) , viền đăng ten (collerette), như bông súng,
xương rồng…Hoa nở mùa Hè và mùa thu, có nguồn gốc ở Mexico và là quốc hoa của Mexico.
Năm 1872một hộp cây thược dược non đã được gửi
từ Mexico tới Hà Lan.
Chỉ có một cây sống sót sau chuyến đi, nhưng nó đã tạo ra các bông hoa
đỏ ngoạn mục với các cánh hoa nhọn. Các vườn ươm đã nhân giống
(hybridise) loài cây này tên khoa học là Dahlia juarezii với
các loài thược dược được phát hiện sớm hơn và những giống này là tổ
tiên của tất cả các loại thược dược lai ngày nay. Kể từ đó, các nhà nhân
giống thực vật đã tích cực trong việc nhân giống thược dược để tạo ra
hàng ngàn giống mới, cho ra các bông hoa có màu sắc lộng lẫy
Tên
gọi Dahlia được đặt theo tên của một nhà thực vật học người Thụy Điển thế kỷ 18 là Anders Dahl.
Hoa thược dược cũng là loài hoa chính thức của thành phố Seattle, bang Washington.
Quốc Hoa : Mexico
Hoa Thược Dược -Mẩu Đơn Tàu
Danh pháp khoa học Paeonia là chi duy nhất trong họ Mẫu đơn Paeoniace. Các loài trong chi này có nguồn gốc ở châu Á, miền nam châu Âu và miền tây Bắc Mỹ.
Phần
lớn các loài là cây thân thảo thường xanh, cao khoảng 0,5–1,5 m,
nhưng một số loài là cây bụi thân gỗ cao tới 1,5–3 m. Chúng có các lá
phức, xẻ thùy sâu và hoa lớn, thường có mùi thơm, có màu từ đỏ tới trắng
hay vàng, hoa nở vào cuối mùa xuân hay đầu mùa hè. Trong
quá khứ, các loài mẫu đơn/thược dược này đã được phân loại trong họ Mao lương (Ranunculaceae), cùng với các loàicỏ chân
ngỗng và lê lư.
Hoa Mẩu Đơn (peony) là
quốc hoa của Mông Cổ (Mongolia)
Hoa Ti Gôn
Hai sắc hoa Ti Gôn
Ti-gôn
hay Ăng-ti-gôn là tên gọi chung để chỉ các loài dây leo thuộc chi có danh pháp khoa học:
Antigonon, một chi thực vật thuộc họ Rau răm (Polygonaceae), có nguồn gốc từ Trung Mỹ.
Ti-gôn
có thể bám vào giàn hoặc bất cứ vật gì
ở gần để leo lên độ cao
9-12 m, là loại cây thường xanh tại các vùng khí hậu không có băng giá,
lá hình trái tim kích thước khoảng 4 cm, mùa hè ra hoa thành chùm với
các sắc độ từ trắng đến hồng và đỏ san hô.
Ti-gôn dễ trồng, cần nhiều ánh nắng để ra được nhiều hoa, ưa đất ẩm
nhưng cũng chịu được đất khô hạn.
Tại Việt Nam loài du nhập là A. leptopus, thường được trồng leo tường rào hoặc giàn cho đẹp và lấy bóng mát.
Hoa tóc tiên
Tên phổ thông: Tóc
tiên, móng lan, lan đất, hoa vũ , tên tiếng Anh: Rain lily
Tên khoa học: Zephyranthes carinata Herb Họ: Amaryllidaceae (Thủy tiên)
Tóc tiên
có màu tím, hồng diễm lệ, tóc tiên vàng, trăg rực rỡ , sáng trong.
Tóc
tiên được trồng từ củ. Cây dễ sống, nhảy nhiều cây con. Trồng lâu lâu
rồi lại tách bớt củ ra để nhân thêm cây mới. Nếu trồng tóc tiên viền
quanh bồn hoa hay men theo các lối đi, khi hoa nở hàng loạt
trông rất đẹp.
Hoa Trang
Bông
Trang có tên khoa học là Ixora coccinea, thuộc họ Rubiaceae (Cà Phê)
là loại cây bụi rậm , có nhiều nhánh, lá xanh quanh năm
hình bầu dục hơi nhọn đầu, mọc đối cao khoảng 1 đến 2m , có khi đến
3-4m, dáng bụi gọn tròn có thể xòe ra hơn chiều cao. . Hoa hợp thành
cụm khá lớn ở ngọn cành, đài 4, tràng 4, ống
tràng hẹp , hoa có thể ra suốt cả năm, nhưng thường là mùa hè. Bông có
mật ngọt, ở Miền Nam , trước đây hay trồng gần bàn Thiên.
Miền
Bắc còn gọi là hoa Mẫu đơn hay hoa Đơn. Trang có nhiều màu : Trang đỏ,
Trang trắng, Trang cam, Trang thái, Trang son, Trang lùn, Trang hường,
Trang đen. Giống cho hoa màu đỏ thấp cây, hoa nhỏ gọi là đơn Thái Lan,
giống hoa to gọi là giống Nhật Bản. Hoa Trang có nguồn
gốc nhiệt đới, đều thuộc họ cà phê (Rubiaceae).
Giống hoa đỏ thường mọc dại ở vùng đồi núi trung du.
Hoa Trà (Camellia)
Chi
Trà tên khoa học là Camellia là chi thực vật có hoa trong họ Trà/chè
Theaceae, có nguồn gốc ở khu vực miền Nam và Đông Á, chạy dài từ Nepal
đến Nhật và Indonesia. Hiện vẫn còn
mâu thuẫn liên quan tới số lượng loài đang tồn tại, với khoảng 100–250
loài được chấp nhận tùy theo hệ thống phân loại.
Các
loài trong chi này là các cây bụi hay cây thân gỗ nhỏ và thường xanh,
cao khoảng 2–20 m. Lá sắp xếp theo kiểu so le, lá đơn, dày, mép lá có
khía, thông thường có mặt ngoài bóng láng, dài 3–17 cm. Hoa lớn và dễ
thấy, đường kính 1–12 cm, với 5–9 cánh hoa; có
màu từ trắng tới hồng hay đỏ, còn màu vàng có ở một
số loài. Quả là loại quả nang khô được chia thành 1–5 ngăn, mỗi ngăn
chứa 1–8 hạt.
Các
loài trong chi này nói chung thích nghi với các loại đất chua, và không
thích hợp với các loại đất giàu vôi. Phần lớn các loài đòi hỏi có lượng
mưa lớn và không chịu được khô hạn. Có nhiều giống được trồng làm cây
cảnh vì có hoa đẹp; khoảng 3.000 giống và thứ lai ghép đã được chọn lọc,
nhiều giống có hoa kép, như trong thư viện ảnh dưới
đây. Camellia japonica (tên thông thường trà mi, trà Nhật Bản) là loài
nổi tiếng nhất trong nuôi trồng cây cảnh, với trên 2.000 giống có tên
gọi; kế tiếp là C.reticulata với trên 400 giống có tên gọi, và C. sasanqua với trên 300 giống có tên gọi.
Giống trà/chè (Camellia sinensis) là loài cây có giá trị thương mại chính do trà được
sản xuất từ lá của nó. Dầu trà, một loại gia vị ngọt và dầu ăn
được sản xuất bằng cách ép hạt của cây chè Camellia sinensis hay trà dầu (Camellia oleifera).
Các
loại cây lai ghép có C. × hiemalis (C. japonica × C. sasanqua) và C. ×
williamsii (C. japonica × C. salouenensis). Chúng được giới chơi cây
cảnh đánh giá cao vì ra hoa
sớm, thông thường trong số các loại hoa đầu tiên xuất hiện vào cuối mùa
đông. Các trận băng giá
muộn có thể làm tổn thương hoa. Các loài cây này có tốc độ tăng trưởng
chậm. Thông thường chúng chỉ cao thêm khoảng 30 cm mỗi năm cho đến khi
trưởng thành mặc dù điều này phụ thuộc vào từng loài và từng khu vực.
Camellia japonica là loài hoa biểu tượng của bang Alabama, Hoa Kỳ cũng như của thành phố Trùng Khánh, Trung
Quốc.
Ý nghĩa : Đề Phòng, dè dặt
Hoa Trâm Ổi, Ổi, Ngủ Sắc
Cây bông ổi tên khoa học Lantana camara,
còn gọi là Trâm ổi, cây hoa ngũ sắc, trâm hôi, cây hoa cứt
lợn, tứ thời,
tứ quý là một loài thực vật thuộc họ Verbenaceae . Bông ổi là loài cây
nhỏ, nhiều cành ngang, có lông và gai nhỏ. Lá hình bầu dục, nhọn, mặt
lá xù xì, mép lá có răng cưa; mặt trên có lông ngắn cứng, mặt dưới lông
mềm hơn; phiến lá dài 3–9 cm, rộng 3–6 cm; cuống lá ngắn, phía trên
cuống có dìa. Hoa không cuống, nhiều giống màu trắng, vàng, vàng cam,
tím hay đỏ mọc thành bông dạng hình cầu; hoa có lá bắc hình mũi giáo.
Đài hình chuông, có hai môi. Tràng hình ống có bốn thùy không đều. Quả
hình cầu, màu đỏ nằm trong lá đài, chứa hai hạch cứng, xù xì.
Hoa
trâm ổi , có mùi thơm như trái ổi chín, có người không thích cái mùi
nồng nầy nên còn gọi là hoa cứt lợn. Đây là loại hoa có nhiều màu sắc,
nở quanh năm góp phần làm đẹp sân nhà đường phố, còn được gọi là hoa ngũ
sắc hoặc hoa tứ quý. Hoa xuất thân từ những xứ Trung Mỹ rồi phát triển
nhanh chóng qua các xứ nhiệt đới, dễ sống trong nhiệt độ nóng, khô hoặc
ẩm, và có lẽ do điều kiện sống quá dễ dàng mà ở VN hầu như nó không được
để ý tới. Ở Mỹ, Úc loại hoa nầy cũng được bày bán vào đầu Xuân ở chợ.
Hoa Trinh Nữ-Mimosa
Mimosalis, một trong 400 giống cây thuôc loại bụi cây hay cây gia vị, thuôc họ Fabaceae. Có hai loài chinh thức, một là loài Mimosa pudica,
loái này lá khép
lại khi bị đụng đến hoặc bị nắng gắt , có nguồn gốc ở Trung, Nam Mỹ
nhưng được trồng nhiều nơi vì đặc điểm của nó. Nhiều nơi nhất là ở vùng
nhiệt đới mọc tràn lan biến thành cỏ dại, nhất là loại bò trên mặt đất.
Loài khác là Mimosa tenuiflora, được biết có chứa chất thuốc phiện Dimethyltryptamine (DMT)
tìm thấy trong vỏ của rể loại cây này. Hoa màu trắng có hương thơm, cụm
hoa hình trụ, lá tựa như lá dương sỉ, mọc dài đến 5 cm. Cây có thể cao
đến 4m.
Một loại hoa Mimosa đặc biệt, tên khoa học
là Acacia pycnantha, cũng thuộc họ Fabaceae, lá xanh, bông vàng, hình
cầu, kết thành chùm ( là loại hoa mimosa ở Việt Nam), gọi là Golden
Wattle
và là quốc hoa của Úc Đại Lợi (Australia)
Quốc Hoa: hoa Mimosa chùm vàng (Golden Wattle) là quốc hoa của Úc Đại Lợi (Australia)
Ý nghĩa : tình yêu vừa chớm nở, e ấp, kín đáo
Hoa Trúc Đào- Nerium Indicum
Trúc
đào tên khoa học là Nerium Indicum Mill, giống Nerium, còn gọi là
Nerium Oleander thuộc họ Apocynaceae, loại thân cây hoa nhỏ, cao từ 2
đến 6m , lá xanh đậm, dày và dài từ 5-21cm, mọc chùm đôi, ba, hoa nhiều
màu sắc rực rở đỏ, hồng, vàng , trắng , có nguồn gốc ở Mauritania,Morocco, và Portugal và đươc phát hiện nhiều nơi trên thế giới.
Trúc
Đào là
loại cây độc từ rễ, thân, lá cho đến hoa, và đặc biệt là mủ trúc đào
(chất độc Oleandrin, Nerin) Người ta có thể bị ngộ độc do chạm vào cây
hoặc nuốt phải. Nhẹ thì gây buồn nôn, ói mửa, tiêu chảy, rối loạn nhịp
tim, nặng thì có thể mất kiểm soát cơ thể, hôn mê. Nếu không xử lý kịp
thời sẽ dẫn đến tử vong. Trúc Đào thường được trồng trang trí dọc lề
đường, trong công viên và phát triển tốt nơi có khí hậu ấm, nhiều nước
trên thế giới cấm trồng nơi công cộng và khuyến cáo dân chúng về tính
cách độc hại của Trúc Đào.
Ờ Việt Nam , Trúc đào được thấy trồng nhiều nơi ở Hà Nội.
Ý Nghĩa: cảnh cáo điều tai hại
Hoa tuyết cầu (Snow Ball)
Hoa
này có tên khoa học là Viburnum
opulus Roseum, chi Viburnum thuộc họ Adoxaceae, có nguồn gốc Á Châu v à
Âu Châu. Hình dạng thân cây gỗ bụi, nhỏ, dáng tròn, tàn khoảng
2.5 m, cao 3m, mùa thu lá rụng, hoa là một quả cầu biến từ xanh sang
trắng muốt, trước khi tàn đổi sang hồng nhạt , hoa phủ toàn cây rất đẹp,
thích
vùng có ánh nắng, đất không úng nước, thoáng không cần nước nhiều,
trổ hoa đầu Xuân đến giữa Xuân.
Hoa Tử Đằng-Wisteria
Chi Tử Đằng Wisteria l à chi th ực v ật c ó hoa thu ộc h ọ Đ
ậu Fabaceae, gồm 10 loài dây leo cây
có nguồn gốc phía Đông Mỹ (giống Wisteria frutescens), Trung Quốc giống
(Wisteria sinensis), Hàn Quốc, and Nhật (Wisteria floribunda). Tử
Đằng
Nhật nở vào dịp giữa tháng 4 đến giữa tháng 5, chỉ nở trong 1 đến 2
tuần rồi tàn. Các giống hoa Wisteria có đủ màu, từ tím, hồng, xanh, vàng
cho đến trắng. Dây Tử Đằng có thể leo cao đến 20m và trải ngang ra đến
10m, thích hợp với đất ẩm, nhưng thông thoáng.
Ý Nghĩa : Hoa Tử đằng Fuji, theo quan điểm của người
Nhật có nghĩa là tình yêu bất diệt. Nếu đem tặng ai đó hoa tử đằng màu
tím thì có nghĩa là “Tôi chờ đợi sự đáp ứng của em!”
Hoa Tường Vi-Hoa Hồng Leo
Hoa hồng leo
Tên
khoa học: Rosa spp, Họ Rosaceae có hơn 100 giống được trồng khắp nơi
trên thế giới.
Thân thực vật ra hoa , có nhiều gai nhọn. Có một số loại hoa hồng có
khả năng leo như hồng tường vi, hồng dây hoa trắng nhỏ thường thấy ở
Việt Nam.
Hoa
hồng thích ứng với khí hậu nhưng phát triển tốt ở vùng không có ẩm độ
và nhiệt độ cao. Hoa hồng là loài hoa được ưa chuộng khắp nơi và được
lai giống để tìm ra màu sắc đặc biệt
Hoa tường vi, tên khoa học là “Rosa multiflora thunb”, là một giống
hoa hồng leo (climbing rose) của họ Rosaceae.
Quốc hoa :
Hoa hồng là quốc hoa của Anh quốc, Mỹ, Ý, Turkey ; hoa Hồng đỏ có
tên khoa học là “Rosa Gallica L” cũng là quốc hoa của Iraq và Bulgaria.
Ý nghĩa : Tương kính, yêu thương, ngưỡng mộ
Hoa Uất Kim Hương (Tulip)
Đây
là loài hoa sống lâu năm trồng bằng củ, giống Tulipa gồm có 109 loại
thuộc họ Liliaceae. giống Tulip phát hiện thiên nhiên khắp nơi từ miền
Nam Âu Châu, Bắc Phi Châu, Iran đến Tây Bắc Trung Quốc. Có nhiều giống,
lai giống được trồng trong
vườn, trong chậu, trồng để bán.
Tùy
loại hoa tulip có thể cao từ 10cm đến 70cm. Chỉ có một hoa trổ trên đầu
một cọng cây hoa, nhưng cũng có một vài loại đặc biệt có hơn một hoa
như loài Tulipa turkestanica
Hoa
Tulip có nhiều màu, ngoại trừ màu xanh (blue)
thực sự, có một vài loại có màu tím xanh. Khi nói đến Tulip người ta
hay
nghỉ đến xứ Hoà Lan-Hà Lan- vì người Hoà Lan rất thích và nổi tiếng về
cách trồng Tulip) nhưng thật sự Tulip đưọc trồng kỹ nghệ bắt đầu thời
đế quốc Ottoman (area includes now Iran và Turkey). Sau đó được truyền
bá trồng khắp nơi Ngày nay hàng năm, ngày hội Tulip được tổ chức nhiều
nơi trên thế giới, đặt biệt nơi có người Hoà Lan lập nghiệp
như Albany (New York); Ottawa (Ontario); Gatineau (Quebec); Montreal (Quebec); Holland (Michigan); Lehi (Utah);Orange City (Iowa); Pella (Iowa); Mount Vernon (Washington); and Woodburn (Oregon), and in other countries such as Australia (Melbourne), India và
Anh Quốc.
Củ cây có chất Tulipene, ăn phải sẽ gây chóng mặt, buồn nôn.
Quốc Hoa: Hoa Uất Kim hương là quốc hoa của Ba Tư (Iran), A Phú Hản
(Afghanistan) và Hung Gia Lợi (Hungary), Thổ ( Turkey) và Hòa Lan.
Ý Nghĩa: Tỏ bày tình yêu
Hoa Ý Lan Zantedeschia aethiopica
Zantedeschia
aethiopica còn có tên là Lily of the Nile, Easter lily, Arum lily,
Varkoor ( tiếng gọi của người Nam Phi có nghỉa là lổ tai
heo-an Afrikaans name meaning pig’s ear), là một giống thuộc họ Araceae
có nguồn gốc ở vùng Nam Phi Châu. Loài này đã
được tự nhiên hóa (naturalised) ở Úc, đặc biệt Tây Úc ở những vùng mà
mực nước ngầm theo chu kỳ lên cao, đất có cát. Ý Lan được xem như loài
cỏ có chất độc và gây hại.
Là
loại thuộc dạng thân cỏ sống lâu năm, xanh nếu có mưa và nhiệt độ ấm,
lá rụng nếu bị khô hạn. Thích hợp nơi gần ao, hồ, bờ sông rạch, có thể
mọc cao đến 0.6-1m, chùm lá rộng xanh đậm có thể dài
đến 45cm. Hoa to nở suốt năm trừ mùa đông, với mo hoa
trắng tinh cao đến 25cm và bông mo vàng có thể dài đến 90 mm
Zantedeschia
có chứa đựng chất calcium oxalate, nếu ăn sống có thể gây ra cảm giác
đốt cháy nặng và sưng môi, lưởi, cuống họng, đau bụng và ỉa chảy.
Loại hoa quý hiếm
Lunaria annua (Cây Đồng Tiền)
Lunaria Annua –Cây Đồng Tiền thuộc họ Brassicacease gồm có hai giống mà thôi, Lunaria Annua and Lunaria
Rediviva. Tiếng Anh có nhiều tên gọi như Honesty, Silver dollar, Penny flower, Money plant, Moneywort, Moonwort
Loại hoa này có nguồn gốc miền Trung và Nam Châu Âu, thích ứng với nhiếu vùng khí hậu, loại hoa trang trí trong vườn.
Đây
là loại cây chỉ sống
từng năm có khi hai năm, hoa màu tím, nhánh có thể cao đến 1m, vỏ có
đựng hạt bên trong , lúc nhỏ màu xanh, khi chin và khô thì có màu bạc
rất đẹp, được dùng để trưng với các loài hoa khô trang trí.
Ở
Việt Nam còn có một loại hoa cũng gọi là Đồng tiến Gerbera – hoa này là
một loài hoa Cúc thuộc họ Asteraceae (được đặt theo tên nhà tự nhiên
học người Đức Traugott Gerber). Còn gọi
là cúc Phi Châu (African Daisy) Một loài hoa rất phổ biến,
được dùng để trang trí trong những khu vườn do màu sắc rực rỡ đỏ, hồng,
trắng,cam.
Ý nghĩa : Hoa Đồng tiền Việt Nam may mắn, sôi nổi nhiệt tình, tin tưởng.
Rafflesia arnoldii
Rafflesia arnoldii
Rafflesia
arnoldii là một thành viên thuộc họ Rafflesia,
nổi tiếng với khả năng tạo ra những bông hoa đơn lớn nhất thế giới.
Loài hoa này chỉ xuất hiện ở những khu rừng nhiệt đới Sumatra và Borneo ở
Nam Dương (Indonesia).
Theo
Guiness book of records, sách ghi những kỹ lục trên thế giới, đây là
loại hoa lớn nhất thế giới với đường kính khoảng .7m, dày 1.9cm và cân
nặng . Đặc biệt Raflesia arnoldii là loài cây hoa ký sinh không có lá,
rể hay cuống hoa.
Cây
hoa không có diệp
lục tố, sống bằng cách hút chất dinh dưởng của dây bị
kí sinh như Tetrastigma thường bò trên mặt đất trong rừng nhiệt đới.
Sauk hi hoa nở một tuần thì tàn, cây lại nằm ẩn trong than dây bị ký
sinh. Hoa có mùi thối kỳ lạ.
Quốc Hoa : Hoa Rafflesia là một trong ba quốc hoa của Indonesia, bên cạnh Moon Orchids và Dạ lý hương Ả Rập
Drosera capensis-Gọng Vó
Cây Gọng Vó, tên khoa học là Drosera
capensis, thuộc họ Droseraceae có nguồn gốc ở vùng Mủi (Cape) ở Nam Phi (South Africa).
Họ Droseraceae có hơn 170 loài cây ăn thịt phổ biến trên thế giới,
được tìm thấy ở khắp nơi, trên hầu hết các châu lục (ngoại trừ nam cực).
Cây
Gọng Vó sống trong các đầm lầy hay các bãi than bùn. Lá có rất nhiều
lông tuyến (tentacles) có thể mọc dài đến 15cm, ngang 1cm , ở đầu lông
tuyến
này có một chất
dính lỏng giống như một giọt nước giúp thu hút các loài côn trùng. Nếu
như một con côn trùng bị thu hút bởi giọt nước sáng lấp lánh dưới ánh
nắng,
đậu lên chiếc lá và chạm vào các lông tuyến, các lông tuyến này lập tức
co lại, bao phủ và làm cho con mồi bất động.
Con
mồi không ngừng kháng cự và sẽ chết trong vòng 15 phút do kiệt sức và
do các chất nhầy bao quanh khiến chúng bị ngạt thở. Những chiếc lông
tuyến này bắt đầu tiết ra chất tiêu hoá và con mồi sẽ bị ăn hoàn toàn
trong vòng 1 đến 2 ngày. Trong thời gian đó, những chiếc lông
tuyến sẽ không thực hiện bất kỳ kích thích hoá học
nào khác và trở lại vị trí ban đầu của chúng. Sau khi nhấm nháp con
mồi, những phần còn lại không được
tiêu hoá của con mồi sẽ bị những luồng gió thổi bay.
Venus Flytrap- Hoa bẩy ruồi
Venus
Flytrap tên khoa học Dionaea muscipula
thuộc họ Droseraceae, loài thực vật ăn thịt , hoa bắt và tiêu hóa mồi
phần đông là côn trùng và loài nhện. Trên mặt bẩy lá có lông và khi lông
này bị đụng đến thì bẩy sập trong vòng 20 giây, nhưng đặc điểm là có
thể phân biệt con mồi sống và những gì không phải là mồi như giọt nước
rơi. Tốc độ mở đóng bẩy tùy thuộc ánh sang, ẩm độ, kích thước con mồi,
điều kiện được trồng và là dấu hiệu biểu lộ sức lành mạnh của cây. Hoa
Venus Flytrap không tùy thuộc nhiều về ẩm độ như những cây ăn thịt
khác như các loài Nepenthes, Cephalotus, Heliamphora, và vài loại Drosera.
Amorphophallus titanum
Amorphophallus
titanum chỉ có một bông hoa khổng lồ duy nhất nổi lên trên mặt đất, hoa
có thể cao đến 3m, lá hoa đến 6m. Cùng với đặc điểm hình dạng kì
dị này là một mùi hôi thối không thể tả nổi được tỏa ra khiến nó trở
thành một trong những loài hoa quý hiếm và kì lạ bậc nhất trên hành tinh
này, hoa tỏa nhiệt (có thể lên đến 37 độ) lúc trổ hoa. Có nguồn gốc ở
rừng nhiệt đới ở đảo Borneo, Indonesia. Đặc biệt hoa chỉ trổ vài lần
trong suốt khoảng thời gian 40 năm!
Hoa nở trong khu bảo tồn rừng nhiệt đới Princess
of Wales Conservatory, England , cây được trưng bày tại
nhà kiếng nhiệt đới (tropical glasshouse) trong Vườn Thảo Mộc (botanical garden) in Melbourne, Australia
Dracuunculus vulgaris
Dracuunculus
vulgaris, cây chân bê thuộc họ Araceae, thân cây thảo có ít lá (2
đến 4) có khi cao đến 2m , l á to có cụm bông hoa màu tím mọc thẳng ở
giữa hoa có một nhụy thanh
mảnh màu sẫm tím nhô ra có khi đến 1m và bao quanh là những lá xanh sọc
trắng rẩt ngoạn mục..
Hoa rồng (Dracunculus vulgaris) có màu đỏ tía hay màu tím. Lá th ường ch ết khi hoa trổ . Loài hoa này toả mùi hương thối rất khó chịu, thiên nhiên tạo ra để hấp dẩn ruồi tới để thụ phấn. Loài này thích đất ẩm và phì nhiêu có nguồn gốc ở vùng Balkans, dàn ra đến Hy Lap, Crete và Aegean Islands.Dracuunculus vulgaris được đưa vào Mỹ và phát hiện ở nhiều tiểu bang như Oregon, California,Camano Island, Washington và Tennessee cũng như ở Puerto Rico.
Hoa rồng (Dracunculus vulgaris) có màu đỏ tía hay màu tím. Lá th ường ch ết khi hoa trổ . Loài hoa này toả mùi hương thối rất khó chịu, thiên nhiên tạo ra để hấp dẩn ruồi tới để thụ phấn. Loài này thích đất ẩm và phì nhiêu có nguồn gốc ở vùng Balkans, dàn ra đến Hy Lap, Crete và Aegean Islands.Dracuunculus vulgaris được đưa vào Mỹ và phát hiện ở nhiều tiểu bang như Oregon, California,Camano Island, Washington và Tennessee cũng như ở Puerto Rico.
Nepenthes Tanax
Nepenthes,
là loài thực vật ăn thịt tìm thấy ở Á Châu, thuộc họ Nepenthaceae. Động
vật bò
trong hoa bị rớt vào bẩy có nước bị chết chìm. Ở Ấn Độ có loài ăn cả
chuột con. Nepenthes Tenax đặc biệt có thể cao đến 1m, chiều dài (cao)
của bầu hoa (bẩy) có đến 15cm so với những loài khác trong họ.
Nepenthes được gọi là loài cây Nấp Ấm , tiếng Anh là Tropical Pitcher Plants.
Tacca chantrieri
Loại hoa dơi , loài thực vật có hoa , tên khoa học Tacca chantrieri thuộc
họ Dioscoreaceae ,
khác thường vì hoa màu đen hay nâu đậm giống hình dạng của dơi, bề
ngang có thể đến 30cm và có râu mọc dài đến 70cm cũng màu xám đen. Loài
này mọc hoang vùng rừng nhiệt đới ở tỉnh Hồ Nam (Yunnan China), được
phát hiện Mã Lai, Ân Độ, Đông Á thích hợp đẩt thoát nước và ẩm độ cao
nơi có bóng mát, không chịu được khí hậu lạnh. Người Trung Quốc dùng rể
cây này trị chứng cao máu, phỏng (bỏng), viêm gan
và lở
loét dạ
dày.
Y Nguyên Mai Trân
Thơ nhạc giao duyên
Thân tặng
các bạn yêu nhạc
vàng tình tự quê hương.
Xin nhấn vào tên bài hát để xem Video nhạc.
Tôi đi tìm lại một mùa xuân
Tôi muốn, hương xưa, tuổi học tròLưu bút ngày xanh, trang nhật kýTình lỡ, tình xa, chuyện hẹn hò
Tôi đi tìm lại một mùa xuân
Tôi muốn, hương xưa, tuổi học tròLưu bút ngày xanh, trang nhật kýTình lỡ, tình xa, chuyện hẹn hò
Đường xưa lối củ, nhớ anh, khóng,Sắc hoa màu nhớ, thung lủng hồng,Mưa chiều kỹ niệm, hương tình củTình khúc cho em, cánh thiệp hồng
Một người đi,tiển bước sang ngang
Tiếc thương, trong nổi nhớ muộn màngBuồn trong kỹ niệm, sầu lẻ bóngDư âm, hoài cảm,lá thu vàng
Tiếc thương, trong nổi nhớ muộn màngBuồn trong kỹ niệm, sầu lẻ bóngDư âm, hoài cảm,lá thu vàng
Biết
nói gì đây,nếu vắng anh
Trách người đi, ước mộng không thành
Cho người tình lở, chiều tưởng nhớ
Niềm đau chôn dấu, mộng ngày xanh
Trách người đi, ước mộng không thành
Cho người tình lở, chiều tưởng nhớ
Niềm đau chôn dấu, mộng ngày xanh
Biệt ly, biết đến bao giờNghìn trùng xa cách , suối mơ, nghẹn ngàoTình yêu trả lại trăng sao
Điệu buồn dang dở, đường nào em đi
Điệu buồn dang dở, đường nào em đi
Y Nguyên
nguồn: maivantran.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét