Thứ Bảy, ngày 31 tháng 5 năm 2014
Huyeàn vi Taïo Hoùa
Thơ Bạn Trần văn Gòn/ Thay lời tưởng niệm Ngân Triều
Ngày mùng 2 tháng 6/2014 (nhằm mùng 5/5 Âm lich- năm 20014 ) là lần giỗ thứ 17 của bạn Trần văn Gòn- cựu HS.THTN niên khóa 1956-63.
Bạn là 1 trong 4 người đầu tiên về trường Nông Lâm Súc Tây Ninh (Nguyễn văn Đôi,Trần Minh Thấu,Trần văn Gòn,Phạm thị Hòa ) để phụ trách các môn phổ thông.Trường lúc đó mới được thành lập tại miền Nam đầu năm học 1965-66,cùng lúc với trường NLS Bình Dương.
Sau đó, Trần văn Gòn đã "cộng chỉ số" cùng bạn Nguyễn Kim Xuyến(k.3-SPSG)
Bạn đã qua đời ngày 5/5 A6L/1996 sau một cơn bạo bệnh.
Để tưởng nhớ người bạn của chúng ta,xin đăng lại 1 bài thơ của bạn viết trong những giờ phút cuối của cuộc đời.
Bạn là 1 trong 4 người đầu tiên về trường Nông Lâm Súc Tây Ninh (Nguyễn văn Đôi,Trần Minh Thấu,Trần văn Gòn,Phạm thị Hòa ) để phụ trách các môn phổ thông.Trường lúc đó mới được thành lập tại miền Nam đầu năm học 1965-66,cùng lúc với trường NLS Bình Dương.
Sau đó, Trần văn Gòn đã "cộng chỉ số" cùng bạn Nguyễn Kim Xuyến(k.3-SPSG)
Bạn đã qua đời ngày 5/5 A6L/1996 sau một cơn bạo bệnh.
Để tưởng nhớ người bạn của chúng ta,xin đăng lại 1 bài thơ của bạn viết trong những giờ phút cuối của cuộc đời.
Huyeàn vi
Taïo Hoùa
Cõi Trần nơi khách tạm dừng chân.
Đến lúc ra đi chẳng ngại ngần
Cuộc thế trả vay xong nợ thế.
Non Bồng hội ngộ vẹn Thiên Ân
Huyền vi tao hóa an bày đó
Sắc tướng Thiên cơ chuyển hóa dần
Cùng mái nhà chung nơi cửa Đạo.
Đệ huynh đối đãi Đạo Tâm cần.
Trần văn Gòn
*******
Thay lời tưởng niệm Ngân Triều
Tôi học chung với Bạn Trần Văn Gòn lớp Đệ Ngũ A (1958-1959)
và Đệ Tứ A năm học (1959-1960). Bạn có vóc dáng hơi gầy, trung người, tướng đi rất
nhanh nhẹn và nhất là đôi mắt sáng long lanh, thể hiện một tâm hồn nhạy cảm,
bao quát, thông minh. Gòn học khá, môn Toán, bạn thường đạt điểm cao. Trong giờ
giải bài tập, nhiều lúc tự tin, bạn thường mạnh dạn giơ tay, xung phong lên bảng chứng
minh và giải phương trình.
Bạn cũng rất niềm nỡ với bạn bè, ai nói tếu thì cười nhưng không hề chọc ghẹo ai cả. Đó là một nét đẹp mà tôi rất quý.
Năm học 63-64, khi đỗ TT2 ban B (Lâu quá tôi ko nhớ có học chung với Gòn ở lớp Đệ Nhất B ko). Khi vào Trường SPS, khóa 2, tôi học chung với Ẩn, Thấu, Đôi, Ánh, Mum, Mến Trí, Phước Trần...thỉnh thoảng có gặp Gòn, Hữu Lễ, Chị Hòa...vì các bạn nầy học khác lớp...
Trước và sau năm 1975, tôi ít có dịp về Tây Ninh...vì quê tôi ở Hậu Nghĩa, mặc dù Đất Tây Ninh còn mãi trong tâm hồn tôi của một thời mới lớn mộng mơ, những kỷ niệm hồn nhiên của một thời vụng dại dể thương, biết yêu ai rồi mà không cách nào thổ lộ, mở lời. Những tình cảm trong sáng ấy, vẫn quyện chặt trong tâm khảm, không thể nào phai...
Mãi đến năm 2010, "nợ đưa đò trăng trắng vỗ tay reo" (theo NCT) được 7 năm, con cái ổn định phần nào, chúng tôi mới trở về họp mặt thăm lại cảnh xưa...để thăm Thầy, thăm bạn, thăm trường xưa, nơi đã được học tập nên người,tìm những dấu chân kỷ niệm của mình của một thời mới lớn xa vời...thì mới biết tin bạn Gòn đã ra đi khoảng hơn 13 năm. 50 năm rồi còn gì! Thời gian sao nhanh quá! Coi như từ ngày hết năm đệ tứ (59-60), tôi chưa hề gặp lại bạn lần nào cả. thật rất ngỡ ngàng và rất buồn cho bạn!
Nhân ngày giỗ lần thứ 17 của Bạn, tôi xin đọc 2 câu đầu và xin bình mấy lời, để gọi là thay lời tưởng niệm bạn Trần Văn Gòn:
Bạn cũng rất niềm nỡ với bạn bè, ai nói tếu thì cười nhưng không hề chọc ghẹo ai cả. Đó là một nét đẹp mà tôi rất quý.
Năm học 63-64, khi đỗ TT2 ban B (Lâu quá tôi ko nhớ có học chung với Gòn ở lớp Đệ Nhất B ko). Khi vào Trường SPS, khóa 2, tôi học chung với Ẩn, Thấu, Đôi, Ánh, Mum, Mến Trí, Phước Trần...thỉnh thoảng có gặp Gòn, Hữu Lễ, Chị Hòa...vì các bạn nầy học khác lớp...
Trước và sau năm 1975, tôi ít có dịp về Tây Ninh...vì quê tôi ở Hậu Nghĩa, mặc dù Đất Tây Ninh còn mãi trong tâm hồn tôi của một thời mới lớn mộng mơ, những kỷ niệm hồn nhiên của một thời vụng dại dể thương, biết yêu ai rồi mà không cách nào thổ lộ, mở lời. Những tình cảm trong sáng ấy, vẫn quyện chặt trong tâm khảm, không thể nào phai...
Mãi đến năm 2010, "nợ đưa đò trăng trắng vỗ tay reo" (theo NCT) được 7 năm, con cái ổn định phần nào, chúng tôi mới trở về họp mặt thăm lại cảnh xưa...để thăm Thầy, thăm bạn, thăm trường xưa, nơi đã được học tập nên người,tìm những dấu chân kỷ niệm của mình của một thời mới lớn xa vời...thì mới biết tin bạn Gòn đã ra đi khoảng hơn 13 năm. 50 năm rồi còn gì! Thời gian sao nhanh quá! Coi như từ ngày hết năm đệ tứ (59-60), tôi chưa hề gặp lại bạn lần nào cả. thật rất ngỡ ngàng và rất buồn cho bạn!
Nhân ngày giỗ lần thứ 17 của Bạn, tôi xin đọc 2 câu đầu và xin bình mấy lời, để gọi là thay lời tưởng niệm bạn Trần Văn Gòn:
Hai
câu thơ đầu:
ngôn từ đơn giản như câu nói bình thướng, không tu từ nhưng hồn thơ
là một ý thức và một thái độ mang ý nghĩa triết lý nhân sinh:
Đến lúc ra đi chẳng ngại ngần
Tác giả tỏ ra đã thấu
hiểu lẽ sống ở đời. Đời là cõi tạm, nơi mà con người phải "tạm dừng
chân" để khi từ trần là trở về cõi hư vô, cõi cực lac, miền vinh hiển...Cái nghĩa về tử-tận là vĩnh hằng. Nó là một hằng số, là một con đường tất định mà con
người, trước sau, ai ai cũng phải đi qua như một tam đoạn luận bất hủ:
"Con người đều không sống mãi/ Tôi là con người/ nên tôi sẽ không sống mãi"/ (tức là sẽ phải từ trần).
"Con người đều không sống mãi/ Tôi là con người/ nên tôi sẽ không sống mãi"/ (tức là sẽ phải từ trần).
Từ
ý thức cõi trần là cõi tạm như trên (sinh ký, tử quy = sống gởi, thác về),nhưng nhà
thơ có một thái độ thanh thản, không vướng bận,của một con người ung dung tự tại,
hiểu lẽ đời; "Một khi cái chết đến với ta, ta không hề sợ nó, ta không bao
giờ tránh né, không bao giờ yếu đuối , ta "chẳng ngại ngần" gì cả,như
trong bài "La mort du loup" của Alfred de VIGNY (1797-1863):
La
mort du loup
(Cái chết của con chó sói)
(Cái chết của con chó sói)
*Nguyên bản tiếng Pháp
Les
nuages couraient sur la lune enflammée
J'ai reposé mon front sur mon fusil
sans poudre,
Me prenant à penser, et n'ai pu me résoudre
A poursuivre sa Louve et ses fils qui, tous trois,
Avaient voulu l'attendre, et, comme je le crois,
Sans ses deux louveteaux la belle et sombre veuve
Ne l'eût pas laissé seul subir la grande épreuve ;
Mais son devoir était de les sauver, afin
De pouvoir leur apprendre à bien souffrir la faim,
Me prenant à penser, et n'ai pu me résoudre
A poursuivre sa Louve et ses fils qui, tous trois,
Avaient voulu l'attendre, et, comme je le crois,
Sans ses deux louveteaux la belle et sombre veuve
Ne l'eût pas laissé seul subir la grande épreuve ;
Mais son devoir était de les sauver, afin
De pouvoir leur apprendre à bien souffrir la faim,
A ne jamais entrer dans le pacte des villes
Que l'homme a fait avec les animaux serviles
Qui chassent devant lui, pour avoir le coucher,
Les premiers possesseurs du bois et du rocher.
Comme sur l'incendie on voit fuir la fumée,
Et les bois étaient noirs jusques à l'horizon.
Nous marchions sans parler, dans l'humide gazon,
Dans la bruyère épaisse et dans les hautes brandes,
Lorsque, sous des sapins pareils à ceux des Landes,
Nous avons aperçu les grands ongles marqués
Par les loups voyageurs que nous avions traqués.
Nous avons écouté, retenant notre haleine
Et le pas suspendu. -- Ni le bois, ni la plaine
Ne poussait un soupir dans les airs ; Seulement
La girouette en deuil criait au firmament ;
Car le vent élevé bien au dessus des terres,
N'effleurait de ses pieds que les tours solitaires,
Et les chênes d'en-bas, contre les rocs penchés,
Sur leurs coudes semblaient endormis et couchés.
Rien ne bruissait donc, lorsque baissant la tête,
Le plus vieux des chasseurs qui s'étaient mis en quête
A regardé le sable en s'y couchant ; Bientôt,
Lui que jamais ici on ne vit en défaut,
A déclaré tout bas que ces marques récentes
Annonçait la démarche et les griffes puissantes
De deux grands loups-cerviers et de deux louveteaux.
Nous avons tous alors préparé nos couteaux,
Et, cachant nos fusils et leurs lueurs trop blanches,
Nous allions pas à pas en écartant les branches.
Trois s'arrêtent, et moi, cherchant ce qu'ils voyaient,
J'aperçois tout à coup deux yeux qui flamboyaient,
Et je vois au delà quatre formes légères
Qui dansaient sous la lune au milieu des bruyères,
Comme font chaque jour, à grand bruit sous nos yeux,
Quand le maître revient, les lévriers joyeux.
Leur forme était semblable et semblable la danse ;
Mais les enfants du loup se jouaient en silence,
Sachant bien qu'à deux pas, ne dormant qu'à demi,
Se couche dans ses murs l'homme, leur ennemi.
Le père était debout, et plus loin, contre un arbre,
Sa louve reposait comme celle de marbre
Qu'adorait les romains, et dont les flancs velus
Couvaient les demi-dieux Rémus et Romulus.
Le Loup vient et s'assied, les deux jambes dressées
Par leurs ongles crochus dans le sable enfoncées.
Il s'est jugé perdu, puisqu'il était surpris,
Sa retraite coupée et tous ses chemins pris ;
Alors il a saisi, dans sa gueule brûlante,
Du chien le plus hardi la gorge pantelante
Et n'a pas desserré ses mâchoires de fer,
Malgré nos coups de feu qui traversaient sa chair
Et nos couteaux aigus qui, comme des tenailles,
Se croisaient en plongeant dans ses larges entrailles,
Jusqu'au dernier moment où le chien étranglé,
Mort longtemps avant lui, sous ses pieds a roulé.
Le Loup le quitte alors et puis il nous regarde.
Les couteaux lui restaient au flanc jusqu'à la garde,
Le clouaient au gazon tout baigné dans son sang ;
Nos fusils l'entouraient en sinistre croissant.
Il nous regarde encore, ensuite il se recouche,
Tout en léchant le sang répandu sur sa bouche,
Et, sans daigner savoir comment il a péri,
Refermant ses grands yeux, meurt sans jeter un cri.
Que l'homme a fait avec les animaux serviles
Qui chassent devant lui, pour avoir le coucher,
Les premiers possesseurs du bois et du rocher.
Comme sur l'incendie on voit fuir la fumée,
Et les bois étaient noirs jusques à l'horizon.
Nous marchions sans parler, dans l'humide gazon,
Dans la bruyère épaisse et dans les hautes brandes,
Lorsque, sous des sapins pareils à ceux des Landes,
Nous avons aperçu les grands ongles marqués
Par les loups voyageurs que nous avions traqués.
Nous avons écouté, retenant notre haleine
Et le pas suspendu. -- Ni le bois, ni la plaine
Ne poussait un soupir dans les airs ; Seulement
La girouette en deuil criait au firmament ;
Car le vent élevé bien au dessus des terres,
N'effleurait de ses pieds que les tours solitaires,
Et les chênes d'en-bas, contre les rocs penchés,
Sur leurs coudes semblaient endormis et couchés.
Rien ne bruissait donc, lorsque baissant la tête,
Le plus vieux des chasseurs qui s'étaient mis en quête
A regardé le sable en s'y couchant ; Bientôt,
Lui que jamais ici on ne vit en défaut,
A déclaré tout bas que ces marques récentes
Annonçait la démarche et les griffes puissantes
De deux grands loups-cerviers et de deux louveteaux.
Nous avons tous alors préparé nos couteaux,
Et, cachant nos fusils et leurs lueurs trop blanches,
Nous allions pas à pas en écartant les branches.
Trois s'arrêtent, et moi, cherchant ce qu'ils voyaient,
J'aperçois tout à coup deux yeux qui flamboyaient,
Et je vois au delà quatre formes légères
Qui dansaient sous la lune au milieu des bruyères,
Comme font chaque jour, à grand bruit sous nos yeux,
Quand le maître revient, les lévriers joyeux.
Leur forme était semblable et semblable la danse ;
Mais les enfants du loup se jouaient en silence,
Sachant bien qu'à deux pas, ne dormant qu'à demi,
Se couche dans ses murs l'homme, leur ennemi.
Le père était debout, et plus loin, contre un arbre,
Sa louve reposait comme celle de marbre
Qu'adorait les romains, et dont les flancs velus
Couvaient les demi-dieux Rémus et Romulus.
Le Loup vient et s'assied, les deux jambes dressées
Par leurs ongles crochus dans le sable enfoncées.
Il s'est jugé perdu, puisqu'il était surpris,
Sa retraite coupée et tous ses chemins pris ;
Alors il a saisi, dans sa gueule brûlante,
Du chien le plus hardi la gorge pantelante
Et n'a pas desserré ses mâchoires de fer,
Malgré nos coups de feu qui traversaient sa chair
Et nos couteaux aigus qui, comme des tenailles,
Se croisaient en plongeant dans ses larges entrailles,
Jusqu'au dernier moment où le chien étranglé,
Mort longtemps avant lui, sous ses pieds a roulé.
Le Loup le quitte alors et puis il nous regarde.
Les couteaux lui restaient au flanc jusqu'à la garde,
Le clouaient au gazon tout baigné dans son sang ;
Nos fusils l'entouraient en sinistre croissant.
Il nous regarde encore, ensuite il se recouche,
Tout en léchant le sang répandu sur sa bouche,
Et, sans daigner savoir comment il a péri,
Refermant ses grands yeux, meurt sans jeter un cri.
Hélas ! ai-je pensé, malgré ce grand nom d'Hommes,
Que j'ai honte de nous, débiles que nous sommes !
Comment on doit quitter la vie et tous ses maux,
C'est vous qui le savez, sublimes animaux !
A voir ce que l'on fut sur terre et ce qu'on laisse
Seul le silence est grand ; tout le reste est faiblesse.
- Ah ! je t'ai bien compris, sauvage voyageur,
Et ton dernier regard m'est allé jusqu'au coeur !
Il disait : " Si tu peux, fais que ton âme arrive,
A force de rester studieuse et pensive,
Jusqu'à ce haut degré de stoïque fierté
Où, naissant dans les bois, j'ai tout d'abord monté.
Gémir, pleurer, prier est également lâche.
Fais énergiquement ta longue et lourde tâche
Dans la voie où le Sort a voulu t'appeler,
Puis après, comme moi, souffre et meurs sans parler. "
Alfred de VIGNY (1797-1863):
Que j'ai honte de nous, débiles que nous sommes !
Comment on doit quitter la vie et tous ses maux,
C'est vous qui le savez, sublimes animaux !
A voir ce que l'on fut sur terre et ce qu'on laisse
Seul le silence est grand ; tout le reste est faiblesse.
- Ah ! je t'ai bien compris, sauvage voyageur,
Et ton dernier regard m'est allé jusqu'au coeur !
Il disait : " Si tu peux, fais que ton âme arrive,
A force de rester studieuse et pensive,
Jusqu'à ce haut degré de stoïque fierté
Où, naissant dans les bois, j'ai tout d'abord monté.
Gémir, pleurer, prier est également lâche.
Fais énergiquement ta longue et lourde tâche
Dans la voie où le Sort a voulu t'appeler,
Puis après, comme moi, souffre et meurs sans parler. "
Alfred de VIGNY (1797-1863):
**********
Xin mạn đàm 4 câu thơ cuối:
Gémir, pleurer, prier est également lâche...
Fais énergiquement ta longue et lourde tâche
Dans la voie où le Sort a voulu t'appeler,
Puis après, comme moi, souffre et meurs sans parler. "
Gémir, pleurer, prier est également lâche...
Fais énergiquement ta longue et lourde tâche
Dans la voie où le Sort a voulu t'appeler,
Puis après, comme moi, souffre et meurs sans parler. "
(Gào thét, khóc lóc, van xin thảy đều hèn hạ,
Hãy phấn đấu hết sức cho công việc nặng nề dài lâu của ngươi,
Trong con đường mà Số phận đã dành riêng cho ngươi,
Rồi sau đó, như ta, đau đớn và chết trong lặng im).
"Van xin, trào lệ, kêu gào,
Ích gì! Như nước đổ vào lá khoai!
Nước còn, còn tát, mãi hoài,
Mặc cho Số phận an bài trêu ngươi.
Nghiến răng, vùng vẫy, không lời,
Như ta, đau đớn...để rồi tử quy."
Ngân Triều
* Tóm lại, có lẽ trong lúc đó, căn bệnh quái ác đã dày vò bạn rất nhiều, rất nhiều đau đớn và nghĩ rằng căn bệnh đó như đưa bạn sắp đến cuối đường định mệnh nhưng tác giả vẫn khảng khái, lạc quan và bình tâm đón nhận cái lẽ tử-tận một cách bình dị, " chẳng ngạingần".
Chỉ mới có hai câu đề thôi mà nghe như một tiếng lòng cất cao chất ngất , một nét nhân sinh quan tích cực, vững vàng, một phong cách của một Trần Văn Gòn, như một thời thiếu niên vời vợi, dễ
thương ...
Bạn Trần Văn Gòn ơi!
Bạn đi bên ấy, sao mà lạnh?
Nhớ bạn bên đèn, lạnh mấy mươi!
( Phỏng theo Hành phương Nam, Nguyễn Bính)
Thân áiHN ngày 03/06/2014
Ngân Triều
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét