Thứ Hai, 13 tháng 5, 2013

Đồng Tháp Mười/ Nghiên cứu địa phương/ sưu tầm

Vùng đất ngập Đồng Tháp Mười

                                              Chim về tràm chim

                                                       Mùa cấy ĐTM
                                                              chợ Tháp Mười
                                              Hoa Đồng Tháp ra chợ Tết
                                                  Hồng hạc
TRẦN NGUƠN PHIÊU

Ðồng Tháp Mười là một địa danh quen thuộc đối với những người sanh trưởng ở miền Nam. Tuy nhiên, số người thật sự có cơ hội đặt chân lên vùng xa xôi này hay được sinh sống trên phần đất này có thể nói là rất ít. Vì vị trí đặc biệt, thiếu phương tiện đường sá lưu thông nên Ðồng Tháp Mười vẫn được coi là một vùng đất hẻo lánh, nhiều bí ẩn. 

Ðồng Tháp Mười là một cánh đồng rộng lớn, hằng năm bị ngập lụt lối bốn, năm tháng khi nước sông Cửu Long dâng cao. Biển Hồ Tonlé Sap ở Campuchia và Ðồng Tháp Mười ở Việt Nam là hai nơi lưu trữ nước thiên nhiên, nên đến mùa nước nổi, sông Cửu Long từ từ dâng cao, sau đó nước sẽ lần lần rút ra biển. Vì thế nên ở miền Nam, không có nhu cầu phải đắp đê để ngăn nước như sông Hồng ở miền Bắc. Mực nước mỗi năm tuy dâng cao nhưng từ từ nên ở miền Nam, không có cảnh thiệt hại to lớn của các trận lụt thình lình và chớp nhoáng gây chết chóc như thường thấy ở miền Trung. Diện tích Ðồng Tháp chiếm khoảng 8 ngàn cây số vuông, độ 800.000 mẫu tây. Chiều Nam-Bắc, từ Cao Lãnh tới Svay Riêng dài khoảng 70 cây số; chiều ngang từ Hồng Ngự đến Tân An tính ra khoảng 120 cây số.

Trên các bản đồ thời Pháp thuộc, vùng này có cái tên là Plaine des Joncs (Ðồng Cỏ Lác). Sau 30 tháng Tư năm 1975, tỉnh Sa Ðéc được đổi tên thành tỉnh Ðồng Tháp, diện tích bao trùm gần trọn Ðồng Tháp Mười. Tỉnh Ðồng Tháp nay giáp Campuchia ở phía Bắc, đường biên giới dài khoảng 52 cây số. Phía Nam giáp tỉnh Vĩnh Long, phía Ðông giáp tỉnh Long An và Tiền Giang, phía Tây giáp Cần Thơ và An Giang. Toàn diện tích tỉnh Ðồng Tháp tính ra vào khoảng 3 ngàn 300 cây số vuông.

Nhắc đến địa danh Ðồng Tháp, không thể nào không nhắc đến anh hùng kháng Pháp: Thiên hộ Võ Duy Dương. Võ Duy Dương đã lập nhiều đồn lũy và đã đóng tổng hành dinh tại vùng Tháp Mười. Truyền thuyết của người Miên cho rằng vùng này có tên là Tháp Mười vì nơi đây là nơi đặt ngọn tháp Chùa Miên thứ mười kể từ trên Campuchia xuống. Một số người am hiểu lịch sử miền Nam lại giải thích: tên Tháp Mười thật sự chỉ có từ thời kháng Pháp của Thiên hộ Dương. Ông Võ Duy Dương đã đặt nhiều đồn và tháp để canh chừng tàu của Pháp, kể từ sông lớn Vàm Ba Sao vào đến Tổng hành dinh và cái tháp nơi hành dinh là tháp thứ mười? Tổng hành dinh Tháp Mười được bao vây che chở từ xa bởi ba đồn: Ðồn Tả, Ðồn Hữu và Ðồn Tiền. Mỗi đồn có thể chứa 200 đến 300 nghĩa binh, trang bị với súng, thớt súng bắn đá, đại bác... Ngày 14 tháng Tư năm 1866, Ðô đốc De Lagrandière đã chia 500 quân làm ba mặt tiến vào Ðồng Tháp, xuất phát từ Gò Bắc Chiên đi xuống để đánh Ðồn Tả, từ Cần Lố đi lên tấn công Ðồn Hữu và cánh thứ Ba từ Cái Nứa để đánh Ðồn Tiền. Nghĩa quân đã chống trả từ ngày 15 cho đến ngày 18 thì các đồn Tả, Hữu thất thủ và Thiên hộ Dương phải bỏ Tháp Mười. Quân Pháp đã đốt phá, bình địa đồn, sau khi đã phải chịu thiệt hại trên 100 lính. Thiên hộ Dương tiếp tục chống Pháp nhưng sau chết vì bịnh. Về sau, trên một gò cao của di tích đồn Tháp Mười này, một ngôi chùa Phật đã được dựng lên, trang hoàng theo lối chùa Miên. 

Một người Pháp tên Sylvestre, chức vụ Thanh tra, làm việc ở Cai Lậy và Sa Ðéc từ 1869 đến 1878 đã nhiều lần đến viếng Chùa Tháp Mười. Chùa được xây cất trên một gò đất cao độ bốn thước, rộng khoảng ba mươi thước đường bán kính. Nền chùa cất trên đá ong, tháp hình ngũ giác năm mặt, được người Miên gọi là Prasah Préam Loveng (Tháp Năm Căn). Người Việt thì lại gọi là Tháp Mười, có thể vì xưa tháp có 10 tầng nhưng đã đổ nát? Ông Sylvestre có lấy từ Tháp Mười (Ruines de la tour à cinq faces), một phiến đá có chạm hình bánh xe Pháp Luân còn nguyên vẹn với 12 căm bánh xe, gởi về tặng một viện bảo tàng nhỏ “Musée municipal de Rochefort sur Mer” ở Pháp. Các nhà khảo cổ danh tiếng như Etienne Aymonier và Henri Parmentier thuộc trường Viễn Ðông Bác Cổ đều đã viếng thăm Tháp Mười nhiều lần. Từ chợ Sa Ðéc, dùng ghe máy theo kinh Cái Bèo, Tháp Mười và kinh 4 bis (Cát Bích), đi khoảng bốn giờ sẽ đến Tháp. Một giáo sư Pháp văn trường Petrus Ký, sau làm quản thủ viện Bảo tàng Sài Gòn và được thăng Viện trưởng trường Viễn Ðông Bác Cổ, tên L. Malleret là người có công nghiên cứu nhiều nhất về Tháp Mười. Louis Malleret là tác giả bộ Le Delta du Mékong (Lưu vực sông Cửu Long), trong đó quyển thứ IV (Le Cisbassac) là quyển chuyên khảo về Ðồng Tháp. Các viên gạch di tích Tháp Mười còn được lưu giữ ở Bảo tàng viện Sài Gòn là do công của L. Malleret. 

Trước thời Kháng chiến Nam Bộ, dân cư sống trong vùng Ðồng Tháp, gồm người Việt, người Miên và Trung Hoa chỉ vào độ 150.000. Hiện nay, theo các thống kê mới nhất của riêng tỉnh Ðồng Tháp, số dân được trên 1,6 triệu người. Cách xa thành phố Sài Gòn độ 162 cây số, ngoài một số đường nhỏ, Ðồng Tháp chỉ có 136 cây số Quốc lộ IA.

Thời Việt Nam Cộng Hòa, người có công phát triển Tràm Chim, từ một vùng cỏ lác hoang vu bên bờ kinh Ðồng Tiến, biến thành một trung tâm sung túc hiện nay, phải kể đến linh mục Bạch. Linh mục Bạch đã xin Tổng thống Ngô Ðình Diệm để hướng dẫn một số giáo dân vào khai khẩn lập nghiệp ở nơi đây. Trước thời Cha Bạch, vùng trung tâm Ðồng Tháp này vào mùa nước nổi bao la như một miền biển rộng. Cha Bạch đã xây dựng được nhiều công trình như: nhà thờ, trường học, chợ, phố xá bằng vật liệu nặng, xi măng, bê tông cốt sắt, vôi gạch... nên đến mùa nước nổi, giữa biển nước mênh mông, nhờ có các công trình kiến trúc mới, Tràm Chim đã trở thành một ốc đảo vững chắc cho ghe thuyền dân chúng neo, tụ họp sinh hoạt trong mùa nước lụt. Người viết bài đã có một thời phục vụ ở bộ Xã Hội nên đã có được cơ hội giúp linh mục Bạch trong các chương trình xây cất định cư các gia đình cơ cực trong vùng. 

Tràm Chim Tam Nông nay là một địa điểm du lịch đặc biệt vì là nơi để du khách có thể quan sát loại sếu đầu đỏ, một giống chim hiếm có, mình cao trên một thước. Tháng Giêng đến tháng Năm là mùa mà các hồng hạc này bay trở lại vùng để du khách có được dịp quan sát, chụp ảnh.

Ngoài tên Tràm Chim, nhắc đến Ðồng Tháp, không thể không kể thêm một vài địa danh khác đã đi vào lịch sử như Cù lao Ông Chưởng, nơi danh thần Nguyễn Hữu Cảnh đã chết vì bịnh khi kéo binh trở về, sau chiến thắng vua Chân Lạp vào năm 1699. Gần nhất, phải kể đến rạch Ðốc Vàng Thượng, nơi Việt Minh đã bày mưu đặt kế để ám hại Ðức Thầy Huỳnh Phú Sổ cũng như những vùng xa xôi, sát biên giới Miên là Tân Thành, Cái Cái, nơi Việt Minh đã thủ tiêu, chôn sống tập thể hàng ngàn tín đồ Phật giáo Hòa Hảo.

Phật giáo, một tôn giáo lớn, dạy người đời nên làm lành, lánh dữ, giữ tâm trong sạch, đã được phổ biến ở Việt Nam trên hai ngàn năm. Khi được truyền bá vào Nam nhân cuộc Nam Tiến, Phật giáo đã uyển chuyển hòa hợp vào điều kiện sinh sống mới của dân chúng, vào vùng đất trù phú “làm chơi, ăn thiệt.” Phật giáo Hòa Hảo được Ðức Thầy Huỳnh Phú Sổ phát triển ở đồng bằng sông Cửu theo phương pháp hành đạo của Phật Thầy Tây An, đã được nông dân Nam Bộ hưởng ứng chấp hành. Một nền Phật giáo Thời đại, không chủ trương dựng chùa to, đúc tượng lớn, không hệ thống Tăng ni, Sư sãi, không chuông mõ, đã được hằng triệu tín đồ miền Nam chấp nhận. Thay vì xây các chùa lớn, giáo dân theo chủ trương của Phật Thầy Tây An đã hình thành những trại ruộng là nơi để vừa cấy cày sinh sống, vừa tu học, hành đạo; tự túc không nhờ đến sự cúng dường của dân chúng. Các Trại ruộng lớn như Láng Linh, Cần Lố... cũng là các nơi nuôi dưỡng tinh thần chống thực dân Pháp.

Thời Gia Long phải bôn tẩu ở miền Nam, Sa Ðéc ven biên Ðồng Tháp là nơi Gia Long đã có một thời ẩn trú lâu dài. Vì thế nên ở làng Long Hưng tức Nước Xoáy, có sự tích Cây da bến Ngự là nơi chúa Nguyễn thường ngồi câu cá và suy tính tìm mưu chống Tây Sơn. Năm 1787, Gia Long cho xây một đồn nơi đây, nay còn di tích. Chúa Nguyễn và binh lính cũng đã được một gia chủ tên Nguyễn Văn Hậu ở Long Hưng nuôi cơm. Chúa Nguyễn nhận Ông là cha đỡ đầu, vì thế ở Long Hưng năm 1807 có xây Lăng Ông Bõ (cha đỡ đầu của vua). Bảo Ðại lên ngôi vua năm 1932 nhưng mãi đến năm 1942, lần đầu tiên, chánh quyền thực dân mới đồng ý cho Bảo Ðại vào thăm Nam Kỳ, nhân dịp Bảo Ðại được vua Shihanouk mời viếng Campuchia. Trong thời gian cư ngụ ở Sài Gòn, Bảo Ðại đã ngỏ ý muốn đến viếng Lăng Ông Bõ ở Long Hưng. Chánh quyền Sa Ðéc viện cớ là từ Sa Ðéc đến làng Tân Dương có đường bộ nhưng từ đây vô Nước Xoáy, tức Tân Hưng phải đi tàu máy, rất bất tiện để đưa vua Bảo Ðại đi thăm Lăng. Thật sự thì Pháp không muốn cho Bảo Ðại được có cơ hội gây cảm tình và uy tín đối với dân chúng miền Nam. Bằng cớ là trong việc vua Bảo Ðại muốn đến thăm Bến Tre là sinh quán của Ðức bà Từ Dũ, mẫu thân của vua Tự Ðức, Thống Ðốc Ðông Dương là Ðô đốc Decoux chấp nhận, nhưng chánh quyền Pháp ở Nam Kỳ lại ra chỉ thị cấm dân chúng dọc đường không được tụ tập hoan hô! 

Cao Lãnh cũng là một địa danh thường được nhắc đến. Dân mê thích đá gà ngày trước đã kháo nhau:

Gà nào hay bằng gà Cao Lãnh,
Gái nào đẹp bằng gái Nha Mân?


Nha Mân, vùng Cái Tàu Hạ, có con rạch Nha Mân êm đẹp, hiền hòa. Theo sử sách Miên, nơi đây vốn là nơi có các thiếu nữ đẹp khiến các vua Miên thường chọn làm hoàng hậu.

Cao Lãnh nằm vào ven biên Ðồng Tháp, một vùng ruộng vườn xanh tốt nhưng vì ngày xưa không có đường lộ giao thông như con đường nối liền An Hữu đến Hồng Ngự hiện nay, nên là nơi đất lành chim đậu, nơi nương náu của nhiều nhà cách mạng chống Pháp. Nơi đây đã từng là nơi có những cuộc biểu tình của dân chúng chống thực dân. Người viết bài còn nhớ chỉ hôm sau ngày 9 tháng Ba năm 1945, ngày quân Nhật đảo chánh thực dân Pháp ở Sài Gòn, thì ngay sáng hôm đó đã có truyền đơn rải ở vùng Cao Lãnh để thông báo cho dân chúng tình hình chánh trị mới! 

Ðồng Tháp là vùng đất thấp nên từ trước đến nay chưa có các công trình xây cất đường sá hẳn hoi. Tuy nhiên, nhờ được có nhiều kinh lạch được đào nên giao thông bằng đường thủy đã được sử dụng cho việc chuyên chở. Việc đào kinh đã được thực hiện từ xa xưa do người Chân Lạp như hố Cái Bác từ ngọn Cái Cái đến ngọn Vàm Cỏ Tây, hoặc những con kinh đứt khúc vùng Ðông-Bắc. Ðặc biệt dưới thời các chúa Nguyễn trong cuộc Nam tiến, nhiều kinh chiến lược quan trọng đã được thực hiện như Thoại Ngọc Hầu đã đào kinh Vĩnh Tế... Thời Pháp chiếm đóng, nhiều kinh lớn khác đã được thiết lập trong ý đồ thâm nhập và phát triển vùng đất hoang vu, nơi trú ẩn của các người ái quốc chống Pháp. Con kinh Lagrange, được người Việt một thời kêu là kinh Lạc Giăng (tên của viên Chánh Tham biện tỉnh Tân An đã chủ trương) là một kinh quan trọng trong trung tâm Ðồng Tháp, rộng trên 20 thước, tàu bè có thể chạy thông thương lên phía Gẫy để đến rạch Cái Cái. Ðặc biệt có con kinh Cát Bích, nghe tưởng là tên chữ Hán-Việt nhưng thật ra là lối phát âm bình dân để đọc tên Pháp là kinh số “4 bis”! Thời Việt Nam Cộng Hòa, việc hoàn tất con kinh Ðồng Tiến, bề ngang rộng đến 100 thước, là một thành tích đáng ghi nhớ. Bác sĩ Phan Quang Ðán và tác giả bài này, trong chương trình Khẩn hoang Lập ấp, đã vô cùng kinh ngạc khi có được dịp trở lại thăm vùng kinh được đào sau một năm. Trên hai bờ kinh, suốt dãy đất được xáng múc đổ lên, các nông dân đã năng động biến thành các vườn dưa hấu bạt ngàn! 

Nếu sát nhập vào khu Ðồng Tháp vùng kế tiếp là khu phía Ðông sông Vàm Cỏ Tây tới tận sông Vàm Cỏ Ðông thì mới hiểu vì sao Ðồng Tháp là một chiến khu quan trọng trong suốt cuộc chiến. Chiến khu Ðồng Tháp như vậy là một vùng rộng lớn giữa sông Tiền và sông Vàm Cỏ Ðông. Ðây là một trũng nước lõm, thâu nhận nước sông Tiền từ mặt Ba Nam chảy xuống. Mé Ðông là các gò chạy dài từ Mỹ Tho qua Bến Lức, Tân An. Mé Nam cũng có nhiều giồng để chận nước lại. Vùng bùn lầy bất tận này có lõm ở giữa là Gò Bắc Chiên và Tháp Mười. Ðây là một vùng dân cư thưa thớt. Ðồng Tháp năm nào cũng lụt lội, thảo mộc thường là cỏ năng, lác, bàng. Khu giữa hai con sông Vàm Cỏ mỗi năm cũng lụt vào mùa mưa và là một vùng đầy loại thảo mộc khác hẳn Ðồng Tháp là lau sậy. Thời Pháp, quân đội chưa có phương tiện trực thăng chuyển quân nên hành quân vào vùng rất khó khăn, chỉ có thể dùng các toán nhảy dù. Ðể ngăn chặn các chuyển quân hoặc tuần tiễu bằng đường thủy, kháng chiến quân đã đóng nhiều cản chặn trên các ngõ vào các kinh lạch. 

Quân đội Pháp đã không có khả năng hành quân quan trọng vào Ðồng Tháp vì bốn trở ngại chánh: bùn, muỗi, đỉa và nắng. Mỗi năm Ðồng Tháp bị lụt lội gần năm tháng. Vào mùa khô đất vẫn còn rất nhiều nơi bùn lầy. Lội bùn với giày nhà binh là một việc vô cùng vất vả. Cây cối ở Ðồng Tháp rất thưa thớt, ít tìm được nơi có bóng mát, nắng nóng cháy da mà nguồn nước ngọt lại rất hiếm. Ðối với muỗi, dân địa phương quen dùng nóp ngủ nên không thấy trở ngại. Nóp là một bao đệm bàng, loại túi ngủ rất ấm áp lại tránh khỏi bị muỗi cắn, một vật bất ly thân của nông dân và bạn chèo ghe Nam Bộ.

Ðỉa Ðồng Tháp thường là loại đỉa trâu, rất lớn con, bám vào da rất khó gỡ ra. Thời Kháng chiến, tác giả bài này có biết một nữ sinh đã có can đảm thoát ly gia đình, bỏ học tham gia tranh đấu. Nhưng chị lại có một cái sợ khủng khiếp đến ngất xỉu khi bị đỉa đeo! Những khi liên lạc viên dẫn đường, phải qua các trũng nước sâu, rộng, mọi người đều phải cố sức vượt qua rất mau vì là vùng trống trải. Nếu bị phi cơ tuần thám phát hiện thì kể như tàn đời. Một anh bạn đã ra tay nghĩa hiệp tình nguyện cõng chị khi phải vượt qua các vũng nước. Cuối cùng là về sau, anh chị đã là bạn đời với nhau! 

Toàn khu Ðồng Tháp, đến mùa nước lụt lớn, nhìn mênh mông như mặt biển. Nhấp nhô trên mặt, thỉnh thoảng có những nơi cao, có cây cối, bụi rậm, được gọi là các giồng. Mùa nước lớn nơi các giồng là chỗ tụ tập tránh lụt của hằng trăm rắn rít, chuột. Các rắn đủ loại thường quấn nhau thành nuồi trên các cành cây, trông rất dễ sợ. Gặp mùa nước lên, nếu có ghe thuyền thì chống chèo đi đâu cũng dễ dàng nếu biết rõ phương hướng. 

Ðến mùa khô, di chuyển trong Ðồng Tháp cũng không phải là chuyện dễ nếu không phải là người địa phương biết tránh các vũng bùn lầy, biết len lỏi định hướng theo các giồng quen thuộc. Nhiều nơi trong Ðồng Tháp là những đầm sen to lớn giữa thiên nhiên. Có nhiều dịp được di chuyển bằng trực thăng bay trên các đầm sen bạt ngàn này, nhất là vào các buổi sáng sớm hay chiều hôm, mùi hương sen do cánh quạt trực thăng khuấy động đã bay lên ngào ngạt khắp không gian! Lúc còn trẻ, mỗi năm người viết bài thường tháp tùng theo các người lớn trong gia đình, bơi xuồng vào các đầm sen để cắt bông sen về làm trà, dùng cho cả năm. Cánh bông sen và gương non được phơi sấy khô để làm trà dùng thường ngày. Riêng nhụy sen vàng được chọn để sấy trên ơ bằng đất nung, dành để cúng trong các buổi lễ lớn. Trà nhụy sen này khi được pha nấu với nước mưa, ngoài hương vị đặc biệt lại còn có một màu ửng hồng trông rất đẹp mắt. 

Một độc đáo khác thường được thấy ở Ðồng Tháp là những nơi có loại “lúa trời.” Ðây là những vùng đất thấp, thường ngập nước, có loại lúa mọc từ lòng đất vươn cao lên khỏi mặt nước, giống như loại lúa nổi. Dân nghèo dùng xuồng nhỏ, thấp, len lỏi vô các bưng có lúa trời, dùng thanh tre dài lùa đập các cộng lúa để hột lúa rụng rớt vô xuồng. Ði đập mót lúa trời cũng là một nguồn sinh sống cho dân cư cùng khổ, không đất canh tác.

Ðồng Tháp Mười, như trên đã nói là một vùng đất trũng rộng lớn. Có giả thuyết đã cho rằng có thể nơi đây, khi xưa, là dấu vết cũ của sông Cửu Long. Vì một lý do thiên nhiên nào đó, sông Cửu Long đã bỏ lòng sông cũ để chảy qua vị trí hiện nay. Hai vùng trũng thiên nhiên rộng lớn là Ðồng Tháp Mười và Ðồng Cà Mau là hai hồ nước để chứa nước sông Cửu vào mùa nước nổi. Ðến mùa nước đổ, cá con sanh từ Biển Hồ Tonlé Sap tràn vào hai hồ nước thiên tạo này, lớn lên nhờ rong, rễ non và sanh trưởng nhanh chóng. Ðây là một vựa cá trời cho dân miền Nam. Phải có dịp sống ở miền này vào mùa cá linh mới hiểu được cái diễm phúc trời dành cho miền này: Cá linh nổi lền trên mặt nước. Dân chúng chài vớt hay đóng đáy bắt cả hàng tấn cá, lớp ăn tươi, lớp làm mắm, lớp dùng làm phân để bón cây, thuốc lá... vì ngày trước không có kỹ nghệ ướp lạnh cá hay làm đồ hộp! Ðến mùa gió chướng, cá hình như có linh tính biết mùa hạn sắp đến nên lại lội ngược dòng về Tonlé Sap để gây giống mùa năm sau. 

Kinh rạch là một phương tiện giao thông rất quan trọng ở miền Nam để chuyển vận hàng hóa. Các kinh đào đã tiếp nối để ghe thuyền có thể giao lưu từ các sông Tiền Giang, Hậu Giang vận chuyển tiếp tế đến thủ đô Sài Gòn. Ðối với giới thương hồ, tên các kinh Tháp Mười hay kinh Phong Mỹ, kinh Tổng đốc Lộc từ Rạch Ruộng (Sa Ðéc) đến Rạch Bà Bèo (Cai Lậy), kinh 12, kinh Cái Bèo, kinh Bo Bo, kinh Ngang, kinh Chợ Gạo..., các chỗ giáp nước như Thủ Thừa, Ba Cụm, Chợ Ðệm... là những tên quen thuộc được nhắc đến hằng ngày trong các câu chuyện làm ăn. Sau Hiệp định Genève năm 1954, các địa danh như Mỹ An, Mỹ Trà, kinh Phong Mỹ... thường được báo chí nhắc đến hằng ngày vì là nơi tập trung để bộ đội Việt Minh vùng Ðồng Tháp được lên tàu tập kết ra Bắc. 
Ðường bộ giao thông trong Ðồng Tháp không có là bao. Thông thường, phần lớn toàn là những đường mòn chỉ người địa phương mới biết xử dụng. Việc vận tải hàng hóa chỉ nhờ ở các thủy trình, kinh rạch. Trong suốt cuộc chiến, lực lượng quan trọng để bảo vệ an ninh đường thủy là Lực lượng Giang đoàn của Hải Quân. 

Thời Pháp và thời Việt Nam Cộng Hòa, trên các kinh, rạch Ðồng Tháp thường có đặt các trạm Thủy lợi, còn được gọi là nơi thiết trí “cây đo nước.” Mực nước được ghi mỗi giờ để các chuyên viên điều nghiên, trù liệu việc đào kinh tháo nước phèn. Dòng nước phải được tính toán trước để trù liệu cho chảy từ chỗ cao đến nơi thấp để tháo nước. Sau ngày 30/4/1975, chánh quyền Xã Hội Chủ Nghĩa đã bắt dân chúng, trí thức, sinh viên đi làm công tác thủy lợi. Họ bắt đào thế nào mà thay vì tháo phèn lại làm việc trái ngược ở vài nơi, khiến nước mặn tràn vào vườn tược, làm hư hại cây cối mùa màng đang tươi tốt của dân!

Ðồng Tháp Mười, giữa Sông Tiền và sông Vàm Cỏ Ðông rộng trên 930.000 mẫu, nếu cộng thêm Ðồng Cà Mau sẽ là một cánh đồng bất tận ở miền Nam, có tiềm năng kinh tế vĩ đại khi có được chương trình phát triển quy mô. Chỉ tính riêng Ðồng Tháp Mười, với gần một triệu mẫu tây đất, nếu được điều nghiên phát triển, thì nơi đây sẽ nuôi sống được biết là bao dân chúng? Sau ba mươi năm chinh chiến, một chánh quyền thời bình, nếu có thực tâm vì dân vì nước, thì đã xây dựng xứ sở để đem lại hạnh phúc thiết thực cho mỗi gia đình. Sau 30 tháng Tư 1975, tương lai đất nước thay vì được cơ hội vươn lên trong hoàn vũ, lại bị để sa lầy trong một thời gian dài ở Campuchia, uổng phí mấy mươi năm quý báu để có dịp phát triển cơ sở nông nghiệp thiết thực và vững chắc! Nhưng vùng “Phật Ðịa” bao la trời dành cho miền Nam vẫn còn đó, trông chờ muôn vạn bàn tay xây dựng của các thế hệ thanh niên mới, trong một chánh quyền mới. 

06/ 2006


Trần Nguơn Phiêu, sanh năm 1927, lớn lên ở quê nội Cao Lãnh Sa Ðéc. Cựu học sinh Petrus Ký và Chasseloup Laubat. Ðã tham gia báo Nam Thanh của tổ chức Nam Bộ Thanh Niên Kháng Chiến Ðoàn. Tốt nghiệp Y Khoa Bordeaux Pháp. Trước 1975, phục vụ trong Quân Y Hải Quân, nguyên Tổng trưởng Xã Hội. Ðã cộng tác với các tập san: Thế kỷ 21, Văn Hóa, Lướt Sóng, Y Tế, tập san Y-Nha-Dược... Ðã xuất bản hai tác phẩm: Phan Văn Hùm ( Thân thế và Sự nghiệp );  Những Ngày Qua

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét