TCS và những ngày Văn Khoa
Từ Thức
TRẦN CÔNG SUNG
(Nguyễn
văn Anh chuyển)
Trịnh Công Sơn và những
ngày Văn khoa
Gởi những người bạn Sài
Gòn ngày xưa.
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
(Vũ Đình Liên)
Hồn ở đâu bây giờ?
(Vũ Đình Liên)
Một ngày
đầu tháng tư (2001), tôi lên phi trường Charles de Gaulle đón một người bạn từ
Việt Nam qua. Trên xe về Paris, anh ta hỏi: Cậu có nghe tin về Trịnh Công Sơn
(TCS)? Tôi gật đầu. Mấy hôm trước, có người gọi dây nói cho hay TCS vừa từ
trần.
Anh bạn nói
đám tang Sơn rất đông. Người ta ở đâu đổ về như kiến, chật cả đường phố. Quen
có, lạ có. Không đủ chỗ đặt vòng hoa phúng điếu. Tôi nói với ông bạn: Như vậy,
cái xứ của ông vẫn còn văn minh, vẫn còn thuốc chữa.
Đó là cái
tin lạc quan nhất về Việt nam mà tôi được nghe từ nhiều năm nay. Dostoievski[1]
nói: Cái đẹp sẽ cứu vãn nhân loại[2]. Bỏ công ăn việc làm, đến tiễn đưa một thi
sĩ – TCS là một nhạc sĩ – thi sĩ – chứng tỏ người ta còn nghĩ đến cái đẹp,
người ta còn có tâm hồn.
Tự nhiên
tôi nghĩ đến “Bác sĩ Jivago” của Boris Pasternak. Cũng như Sơn, Jivago là một
thi sĩ. Cũng như Sơn, Jivago bị cuốn hút trong cơn lốc của lịch sử, bị quẳng
vào một bi kịch kinh thiên động địa từ trời giáng xuống. Như hàng triệu người
Nga, Jivago bị đánh bạt ra khỏi gia đình, quê hương khi cách mạng vô sản Nga ập
xuống nước Nga, cuốn trôi tất cả: gia sản, vợ con, bè bạn, tình ái trong một xã
hội thay đổi tận gốc rể.
Chỉ có
một điều không bao giờ thay đổi: là một thi sĩ, Jivago tiếp tục làm thơ. Lấy
thơ làm nhân chứng, lấy thơ làm cái phao. Lấy thơ làm một nguồn hy vọng để vươn
lên. Khi Jivago chết, người ta ở đâu đổ về rất đông, nhiều người không hề quen
biết. Pasternak viết: người Nga yêu thơ, yêu thi sĩ. Nghĩa là yêu cái đẹp,
nghĩa là chưa hoàn toàn tuyệt vọng. Chỉ hoàn toàn tuyệt vọng khi người ta không
còn thiết tha đến điều gì, ngay cả cái đẹp. Đó là nét lạc quan nhất trong một
cuốn sách đầy thảm kịch : chiến tranh, tang tóc, chia lìa, đổ vỡ. Một tia sáng
loé lên trong bầu trời đen tối.
mưa vẫn mưa rơi…
Khi
Charles Trenet[3] chết, hàng chục ngàn người kéo về đưa tang một nhạc sĩ – thi
sĩ hiện đại nổi tiếng nhất của Pháp. Đưa tang Trenet, người Pháp, trong vài
giờ, quên mình đang sống trong một xã hội vật chất, suốt ngày túi bụi giành
giựt. Trong vài giờ, thấy mình vươn lên, thấy đời có ý nghĩa hơn, bởi còn yêu
cái đẹp. Trenet viết: Những thi sĩ đã qua đời, nhưng tiếng hát của họ vẫn bay
nhẩy trên khắp đường phố.[4]
TCS đã
qua đời, nhưng tiếng hát của anh vẫn bay nhẩy trong các hang cùng, ngõ hẹp.
Không phải chỉ ở Việt Nam, mà trên khắp địa cầu. Người Việt, tan tác như một
đàn gà mất mẹ, nương thân trên khắp nẻo đường thế giới, mang theo những kỷ niệm
quê hương, mang theo mùi nước mắm, mùi sầu riêng, mùi phở và mang theo tiếng
hát TCS. Tôi đã nghe TCS qua tiếng hát nhừa nhựa khói thuốc của Khánh Ly, tiếng
hát thánh thót, không có tuổi của Thái Thanh, tiếng hát truyền cảm của Lệ Thu;
và rất nhiều tiếng hát vô danh, tiếng hát của những người sống ở ngoại quốc
nhưng chỉ nói tiếng Việt, của những người thuộc thế hệ sau này, hát TCS với một
thứ tiếng Việt pha giọng Mỹ, giọng Pháp, giọng Đức. Tôi đã nghe tiếng hát TCS
vọng ra từ những căn nhà ở New York, Tokyo, Budapest, Athènes hay Palerme…Một
buổi chiều tàn, trong một bìa rừng ở Brésil (Ba Tây), cách Rio de Janeiro hàng
ngàn cây số một nơi khỉ ho cò gáy, tưởng như không có hơi người, tôi nghe một
giọng khàn khàn vọng ra từ một căn nhà gỗ. Mưa
vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ/Dài tay em với mấy thuở mắt xanh xao. Người
hát là một ông già gốc Ấn Độ, sống ở Việt nam từ nhỏ.Vượt biển, thuyền đắm, ông
già được tầu Ba Tây vớt, ở lại Ba Tây, làm nghề canh rừng. Suốt ngày, lủi thủi
một mình, tháng năm dài đằng đẵng, ông già Ấn mơ đến những cơn mưa trên tầng
tháp cổ ở một xứ ông đã nhận làm quê hương.
Một ngày
ở ngoại ô La Havanne, trong một tiệm ăn nhỏ trên bờ biển, nơi người ta bán lậu
tôm hùm cho du khách (tôm hùm là tài sản quốc gia, chỉ để xuất cảng hay bán
trong những tiệm ăn quốc doanh), tôi nghe một giọng hát đàn bà, rất trong, rất
ngọt từ trong bếp vọng ra Ngày gió lớn
tôi đi môi gọi thầm/ Gọi tên anh tên Việt Nam/ Gần nhau trong tiếng nói da
vàng. Người hát là một bà Bắc kỳ, từ Hà Nội tới Cuba, trong một chương
trình hợp tác gì đó giữa hai nước “xã hội anh em”, có lẽ đã mệt nhoài sau nhiều
năm lữ thứ.
Tác phẩm
TCS đã đi sâu vào tâm hồn dân tộc. Nước ta có trên 80 triệu dân. Trừ trẻ con và
những người không biết đọc, biết viết, có khoảng 50 triệu người làm thơ. Sự
thực, không cần phải biết đọc, biết viết mới biết làm thơ: tác giả những câu
thơ đẹp nhất trong văn chương Việt Nam, ca dao, là những người nông dân không
biết đọc biết viết. Trong số 50 triệu người làm thơ, mỗi thế hệ cho vài ba thi
sĩ. Những thi sĩ đi sâu vào tâm khảm đám đông, gặp gỡ tâm hồn một dân tộc còn
hiếm hoi hơn nữa. TCS thuộc cái số hiếm hoi đó.
Sài Gòn,
những ngày xáo trộn
Tiếng hát
TCS đến với Sài gòn vào những năm 60, ở trường Đại Học Văn Khoa Sài Gòn, nằm
trên góc đường Gia Long – Nguyễn Trung Trực, ngay trung tâm thành phố. Sơn ở
Bảo Lộc trôi giạt về, lai vãng thường xuyên vì cái sinh hoạt trẻ ở đó rất náo
nhiệt. Trường đang rục rịch di chuyển một phần về cơ sở mới gần sở thú Sài Gòn
vì số sinh viên tăng rất nhanh, trường cũ không đủ chỗ. Văn Khoa là trường đông
sinh viên nhất ở Việt Nam. Xa rồi, cái trường Văn Khoa đầu tiên ngoài Bắc, do
giáo sư Cao Xuân Huy sáng lập năm 1949, với số sinh viên vỏn vẹn có bẩy người,
gọi là thất hiền.[5]
Trường di
chuyển, nhiều gỉảng đường bỏ trống. Gọi là giảng đường cho sang, sự thực đó chỉ
là những căn nhà tiền chế. Tất cả những gì gọi là sinh hoạt văn hoá xã hội của
giới trẻ Sài Gòn kéo về, chiếm đóng những căn nhà tiền chế. Một phần dành cho
CPS (Chương trình Phát Triển Sinh Hoạt Thanh Niên Học Đường), một phần dành cho
hội họa sĩ trẻ, đoàn văn nghệ Nguồn Sống. Phần còn lại, một số sinh viên chúng
tôi tịch thu làm nơi tập trung, hội họp. Hồi đó, người ta tự hào thuộc giới
trẻ, có lẽ vì thất vọng với những gì “lớp già” để lại. Gia tài của mẹ để lại cho con, gia tài của mẹ, một nước Việt buồn. Họa
sĩ trẻ, nhạc sĩ trẻ, ca sĩ trẻ… quên rằng người ta sớm muộn gì cũng …già. Các
“cụ” trong nhóm Người Việt, Thế Kỷ 21 ngày nay đều là những người trẻ ngày xưa
ở sân trường Văn Khoa.
Phải sống
ở Văn Khoa những ngày ấy mới thấy sinh hoạt văn nghệ, sinh hoạt xã hội là một
nhu cầu thiết yếu của tuổi trẻ, và nếu có cơ hội, sinh hoạt ấy bùng lên, tuổi
trẻ bùng lên, đất nước không còn là một nước Việt buồn. Sống ở đó rất tiện: Văn
Khoa nằm ngay trung tâm thành phố, đi vài bước là tới những tiệm cà phê nổi
tiếng trên đường Catinat, vài bước là tới Khai Trí, tiệm sách lớn nhất Sài Gòn,
tha hồ đọc sách cọp. Ông chủ Khai Trí là một người mê sách, muốn phát triển văn
hóa, ông ấy khuyến khích sinh viên đọc sách cọp. Nhà cửa điện nước đều của
chùa, rất tiện, trong khi hầu hết chúng tôi đều nghèo kiết xác, từ những ông
họa sĩ trẻ, những ông văn nghệ sĩ có tiếng nhưng không có miếng ở đất nước của
Tản Đà, Văn chương hạ giới rẻ như bèo, những ông ký giả đầu tháng đã hết lương,
những ngày cuối tháng khó khăn, nhất là 30 ngày cuối tháng, theo cách nói của
Coluche[6], đến đám sinh viên trong đầu đầy những mộng đổi đời, cải tạo xã hội
và trong túi không có đủ tiền uống một ly cà phê.
đại bác
đêm đêm vọng về…
Từ 1963,
sinh hoạt giới trẻ Sài Gòn cực kỳ náo nhiệt. Chúng tôi sống ở ngoài đường nhiều
hơn ở trong nhà hay trong lớp học. Hết biểu tình, hội thảo chống đàn áp Phật
giáo dưới thời ông Diệm, đến hội thảo, biểu tình chống các chính phủ thi nhau
lên xuống. Xuống đường trở thành một sinh hoạt thường nhật. Giữa những cuộc
biểu tình, những buổi hội thảo, thỉnh thoảng ghé vào giảng đường học vài chữ cho
phải phép. Đó là giai đoạn giới trẻ tham gia tích cực vào đời sống chính trị xứ
sở. Với lòng nhiệt thành, và cố nhiên với đôi chút ngây thơ. Ngây thơ tin vào
sức mạnh vạn năng của tuổi trẻ, nhất là khi thấy chỉ vài buổi xuống đường cũng
đủ lật đổ một chính phủ, một ông tướng, một chính khách; và quên mất rằng trong
cái hỗn loạn của đất nước, người làm như vậy chỉ là những quân cờ thí.
Trước Tết
Mậu Thân, lớp trẻ Sài Gòn còn tin tưởng, chưa hoàn toàn mệt mỏi, tuyệt vọng.
Những ngày đầu thập niên 60, chiến tranh chưa thực sự len vào thành phố, mặc dù
hàng ngày vẫn đọc trên báo những cuộc đụng độ nẩy lửa ở Pleiku, Cà Mâu, Đồng
Xoài, Bình Giả; thỉnh thoảng chứng kiến những vụ pháo kích; thỉnh thoảng họp
nhau, nhậu vài két la-de, lạc rang, củ kiệu, tiễn một người bạn lên đường nhập
ngũ. Chiến tranh còn ở xa, đại bác đêm
đêm dội về thành phố/Người phu quét đường dừng chổi đứng nghe. Dân Sài gòn
chưa thấy tận mắt thấy những xác người nằm chết như mơ, những xác người nằm bơ
vơ dưới mái hiên chùa, trong giáo đường thành phố, trên thềm nhà hoang vu.
Sinh hoạt
trẻ Sài Gòn ồn ào, sinh hoạt trẻ Văn Khoa còn náo nhiệt hơn nữa. Bên cạnh những
hoạt động chính trị, những cuộc xuống đường, còn rất nhiều những đêm không ngủ,
những hội Tết, những đêm văn nghệ Nguyễn Đức Quang, Nguồn Sống, những ngày túi
bụi làm báo Xuân, nguyệt san Đối Thoại. Ở đó, (và ở trụ sở Tổng Hội Sinh viên
Sài Gòn), Phạm Duy ra mắt trường ca Mẹ Việt Nam, Vũ Thành An ra mắt bài hát đầu
tay. Chúng tôi, tuổi 20, kề vai nhau nghe Lệ Thu ngủ đi em, mộng bình thường/ru em sẵn tiếng thùy dương đôi bờ,
nghe Thái Thanh ca tụng mẹ Việt Nam
không son không phấn, mẹ Việt Nam chân lấm tay bùn (nhạc Phạm Duy); và thực
tình xúc động với cái viễn ảnh Việt nam quê hương đất nước sáng ngời. Cái viễn
ảnh ấy, trong những đêm không ngủ, tựa vai nhau, chỉ tưởng tượng cũng đã muốn
khóc. Trước cái trống rỗng của hiện tại, và cái lo lắng cho một tương lại mù
mịt, người ta ngồi sát lại nhau, người ta nắm tay nhau, xin chờ những rạng đông. Những câu hát đẹp như thơ của Sơn đã đi
thẳng vào lòng người.
Phong
trào hoạt động xã hội cũng phát triển rầm rộ. Ảnh hưởng của phong trào thanh
niên chí nguyện quốc tế của Kennedy, những hội đoàn như CPS, Thanh Niên Thiện
Chí, Thanh Niên Chí Nguyện vv … mọc ra như nấm. Tuổi trẻ tích cực tham gia
những lần đi cứu trợ nạn lụt ngoài Trung, cải biến những xóm nghèo ở thành phố,
leo lên những làng Thượng dạy học, đào giếng, chữa bệnh. Có anh tham dự vào
những ngày cuối tuần, có anh bỏ học, hoạt động hai ba tháng, nhiều khi cả năm.
Đó là một tuổi trẻ còn đầy lý tưởng, còn yêu đời, yêu người, còn đầy tình người
trong mạch máu, ngày sau sỏi đá cũng cần
có nhau.
Điều đó
chứng tỏ tuổi trẻ rất tha thiết dến dân tộc, sẵn sàng đóng góp cho đất nước.
Nếu họ thờ ơ với đất nước như người ta than phiền, lỗi không phải ở họ: người
ta đã không tạo cơ hội cho tuổi trẻ tham gia. Họ bị gạt ra ngoài lề. Đất nước
không còn là đất nước của họ.
đường
phượng bay
Bìa album
Sơn Ca 7 với Khánh Ly hát những tình khúc Trịnh Công Sơn (1974)
TCS đến
với Văn Khoa trong bối cảnh đó. Sơn không phải sinh viên Văn Khoa; anh ở Huế
vào, bỏ học vì hoàn cảnh gia đình. Những đêm trăng, chúng tôi ngồi trên bãi cỏ
trước quán Văn, nghe Sơn đàn, nghe Khánh Ly hát. Khánh Ly sinh ra để hát TCS,
cũng như Thái Thanh sinh ra để hát Phạm Duy.
Quán Văn
là một ngôi nhà tiền chế, nằm giữa sân trường Văn Khoa. Một nhóm thổ công Văn
Khoa sửa sang lại, biến thành môt quán cà phê, làm nơi tụ họp, gặp gỡ. Đúng là
một cái quán, đơn sơ, nhưng đầy tình bè bạn. Giống như một cái quán ở miền quê,
nơi người nông dân ghé qua, uống một bát chè tươi, hút một điếu thuốc lào, ngâm
vài câu thơ, vài câu ca dao, tán gẫu với nhau sau những giờ lao động. Ở đó,
chúng tôi khám phá ra cái đậm đà của tình bạn, cái thi vị của những buổi hẹn
hò. Ở đó đã nở ra những mối tình, đôi khi dang dở, nhưng có nhiều cặp còn keo
sơn tới ngày nay.
Sơn,
người nhỏ bé, gầy gò, ăn nói nhỏ nhẹ, ôn tồn (tôi chưa hề thấy một TCS giận dữ,
gây gổ bao giờ), Sơn trở thành bạn của mọi người một người một cách rất tự
nhiên. Đôi mắt tinh anh, láu lỉnh, nụ cười hiền lành như một thầy tu, Sơn có
cái phong thái của một thi nhân, cái khiêm tốn của một người có thực tài. Từ
cách nâng ly uống một ly rượu, tiếp chuyện với bạn bè, cách trang phục, giản dị
nhưng trang nhã, cái phong thái thi nhân ấy hiện diện ở Sơn, thường trực, tự
nhiên. Đừng tưởng ông thi sĩ nào cũng có phong thái thi nhân. Sartre nói về
Heidegger, một triết gia hàng đầu mà chính ông chịu nhiều ảnh hưởng: “Có những
người ta chỉ nên biết tác phẩm, không nên biết đến con người, nếu không muốn
thất vọng”. Heidegger là một triết gia lỗi lạc, lại cũng là người theo chủ
nghĩa Nazi. Tôi đã quen những ông thi sĩ, tác giả những câu thơ rất đẹp mà lại
ăn uống, cư xử như một con heo đực.
TCS ở
ngoài đời rất giống TCS người ta tưởng tượng khi nghe những bản nhạc tình của
anh.
Chúng
tôi, mới đầu, ngạc nhiên thấy một gã người Huế, rất thanh nhã, rất ung dung, từ
tốn; không phải cái từ tốn của một ông già, mà là cái ung dung quí phái của một
con mèo, với nụ cười hiền hoà thường trực trên môi. Sơn học chương trình Pháp,
nhưng sử dụng tiếng Việt một cách tài tình. Nhiều chữ rất tầm thường, với Sơn,
chợt trở nên truyền cảm; nhiều chữ do Sơn bịa ra, nhiều hình ảnh đến từ một trí
tưởng tượng phong phú, nếu không nghe Sơn giải thích, chắn chắn không ai hiểu.
Mặc dù vậy, người ta cũng vẫn rung động, vẫn thấy cái Sơn nói đến rất thực, rất
gần gũi. Đó là cái ma lực của chữ nghĩa, của thơ khi thơ đạt, khi chữ nghĩa có
duyên nợ với nhau. Nhiều chữ, nhiều câu rất cũ, đột nhiên ở Sơn trở thành rất
mới. Nhiều chữ nhiều câu rất cầu kỳ, đột nhiên gần gũi. Khi thất tình, người
tình bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ, khi tuyệt vọng, mùa thu không về, mùa
xuân cũng ra đi, ngay cả
khi nói đến chiến tranh tang tóc, xác người nằm như mơ, TCS không lúc nào quên
mình là thi sĩ.
TCS nói
về những cái rất riêng tư, những kỷ niệm rất riêng tư, qua một ngôn ngữ rất
riêng tư. Và lạ lùng, cái riêng tư ấy của thi sĩ thấm vào lòng người nghe.
Người ta xúc động mặc dù không hiểu từng câu, từng chữ. Nhất là trong những bản
nhạc tình. Nói về chiến tranh, ngôn ngữ TCS là ngôn ngữ của mọi người; chiến
tranh là một tai họa chung, một thảm kịch của cả một dân tộc, không phải là
thảm kịch của một cá nhân, mặc dù mỗi cá nhân là một thảm kịch.
Một người
bạn tôi nói khi nghe Sơn hát đường phượng bay mù không lối vào, anh thấy hình
ảnh rất đẹp, rất mới, nhưng không biết tác giả nói gì, cho đến một hôm, ở một
tỉnh nhỏ, anh thấy hoa phượng rơi, bị gió cuốn mịt mù, đỏ rực cả con đường
trước mắt.
Nếu không
quen Sơn, ít ai biết trời cao níu bước
sơn khê, nói đến một người bạn gái tên Khê; ngàn cây thắp nến lên hai hàng/ để nắng đi vào trong mắt em mô tả
những tia nắng cuối cùng của một buổi chiều tà đọng trên những ngọn cây, giống
như ngàn cây thắp nến.[7]
Ngôn ngữ
TCS khác với ngôn ngữ Phạm Duy (PD). Ngôn ngữ PD là ngôn ngữ ca dao. Hình ảnh
của PD là hình ảnh của ca dao. Nhiều câu, nhiều hình ảnh trong nhạc PD không
hiểu là của PD hay mượn từ ca dao. Đó không phải một lời chỉ trích; đó là một
lời ca ngợi. Bởi vì dùng ngôn ngữ của một dân tộc, nói lên tình tự của dân tộc
không phải ai cũng làm được, là một điều rất đáng tự hào. Lời ca của PD ai cũng
hiểu, hình ảnh của PD ai cũng đã từng thấy, vì trong tiềm thức, chúng ta đã
sống với ca dao từ hàng ngàn năm nay. Trong một bài báo ngày xưa ở trong nước[8],
tôi viết tiếng hát Thái Thanh không có tuổi, vì đã làm say mê ba thế hệ. Tôi
nghĩ thêm: tiếng hát Thái Thanh qua nhạc PD không có tuổi vì chúng ta vẫn nghe
từ hàng ngàn năm nay. Tiếng hát ấy gợi ra trong đầu người nghe những cánh đồng
lúa xanh, tiếng cười rúc rích của cô thôn nữ, những làn khói lam trên những mái
nhà tranh, tiếng chuông chùa ngân nga, tiếng hò hát của người nông dân những
ngày được mùa, tiếng nghẹn ngào của bà mẹ mù mắt chờ con đi chinh chiến, tiếng
than vãn của những đời lầm than, đen tối. PD sống với ca dao, thở với ca dao,
cười khóc bằng ca dao. Ít có người Việt nam nào Việt Nam hơn PD. Có lẽ có một
người: Nguyễn Bính. Nguyễn Bính là ca dao, ca dao là Nguyễn Bính.
hai nghệ
sĩ, hai cuộc chiến
Trên bãi
cỏ trường Văn Khoa, trước quán Văn, TCS và Khánh Ly hát trước hàng ngàn người
hay chỉ năm, bẩy anh em. Không phải chỉ hát cho tình yêu. Sơn càng ngày càng bị
ám ảnh bởi chiến tranh. Từ hình ảnh lãng mạn của người phu quét đường dừng chổi
đứng nghe, chiến tranh trở thành cụ thể hơn, ghê rợn hơn :
Một buổi sáng mùa xuân / Một đứa bé ra đồng /
Đạp trái mìn nổ chậm / Xác không còn đôi chân.
Nhạc tình
TCS là những tiếng thở dài, có buồn cũng chỉ buồn thoang thoảng: mùa đông vời
vợi, mùa hạ khói mây, có trách cũng chỉ trách nhẹ nhàng: từng người tình bỏ ta đi, như những giòng sông nhỏ. Một thái độ
rất thiền, rất ‘zen’: trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt, rọi suốt trăm năm
một cõi đi về.
Nói về
chiến tranh, TCS kêu gào, phẫn nộ. Chiến tranh không còn từ xa vọng về như
những ngày đầu, nó ở trước mắt: Xác
người nằm trôi sông phơi trên ruộng đồng/trên nóc nhà thành phố trên những
đường quanh co. Cùng với cuộc chiến càng ngày càng dữ dội, tiếng kêu gào
của Sơn càng ngày càng thảm thiết. Anh nói đến những em bé loã lồ, suốt đời
lang thang, đến những xác người nằm bơ vơ, dưới mái hiên chùa, đến những trái
mìn nổ chậm, người chết hai lần. Chiến tranh trở thành khốc liệt, tang tóc đổ
xuống dân tộc kinh hoàng. Hàng vạn
chuyến xe, claymore lựu đạn/Hàng vạn chuyến xe mang vô thị thành/Từng vùng thịt
xương, có mẹ có em. TCS của chiến tranh trở thành một người dở điên, dở
dại, thất thểu, chiều đi trên đồi cao,
hát trên những xác người. Hình ảnh bi thảm, ma quái. Một thi sĩ thất thểu
trên Bãi Dâu, hát bên những xác người. Đi trên đồi cao, bên cạnh xác người là
một hình ảnh bi thảm, nhưng hát bên những xác người, hình ảnh mang thêm một cái
gì ma quái, điên dại. Bi đát như chiến tranh với những con ngựa hý điên cuồng
trong tác phẩm Guernica của Picasso.
Ngôn ngữ
TCS về chiến tranh khác với ngôn ngữ TCS về tình yêu. Chiến tranh trong nhạc
TCS cũng khác chiến tranh trong nhạc Phạm Duy. PD có “cái may” sống trong một
cuộc chiến tranh chống Pháp, có địch, có thù, chiến tuyến phân minh. PD 24 tuổi
lên đường tham gia kháng chiến, như hàng ngàn hàng vạn thanh niên khác. Chiến
tranh trong nhạc tiền chiến của PD nó hào hùng, nó bừng bừng khí thế. PD tiền
chiến không có cái cấu xé, cái dằn vặt. Cái chọn lựa của PD nó hiển nhiên. Nhạc
PD không có cái lưỡng lự, nó là một tiếng quân ca, tiếng gọi lên đường. Bên
cạnh cái hào hùng là cái lãng mạn của một trí thức tiểu tư sản ở tuổi 20, của
một nghệ sĩ giầu tình cảm. Đó là cuộc chiến của những cô nàng gánh lúa cho anh
đi diệt thù, của những chiến sĩ dừng chân trên chiếc cầu biên giới tưởng tới
người yêu ở quê xa.
Điều đó
không có nghĩa là trong nhạc PD không có cái bi thảm của chiến tranh. Nhạc PD
có Bà Mẹ Gio Linh lên đường đi kiếm xác con bị giặc chặt đầu, có bà mẹ đón
người con thương binh trở về, tiếc rằng ta đôi
mắt đã loà vì quá đợi chờ. PD nói ông làm tới ba bài người thương binh vì
ông sống qua ba cuộc chiến. Tác giả Con Đường Cái Quan nói ông khác xa những
nghệ sĩ khác thời tiền chiến vì họ chỉ làm nhạc hùng; trong khi ông nói cả đến
cái bi thảm của chiến tranh. Nhưng cái tàn phá của chiến tranh, cái thảm họa đổ
lên đầu dân tộc càng khiến PD thấy cuộc chiến tranh của mình có ý nghĩa hơn. PD
thuộc những người, như Malraux nói, không thích chiến tranh, (bởi vì có những
người thích chiến tranh, coi đó là lẽ sống) nhưng tham chiến một cách dứt khoát
vì là chuyện phải làm.
Cuộc
chiến của TCS khác, cái nhìn của TCS khác. Đối với Sơn, đó chỉ là một cuộc nội
chiến tương tàn. Nạn nhân là nước Việt, người Việt:
Hàng vạn tấn bom trút xuống ruộng đồng / Cửa nhà
Việt Nam cháy đỏ cuối thôn
Lật xác
người chết, chỉ thấy đồng bào, cha mẹ, anh em:
Bên xác người già yếu có xác còn thơ ngây / Xác
nào là em tôi dưới hố hầm này / Trong những vùng lửa cháy bên những vồng ngô
khoai
Những câu
hát làm người ta nghĩ đến chiến tranh của Quang Dũng:
Mẹ tôi, em có gặp đâu không / Những xác già nua
ngập cánh đồng / Tôi cũng có thằng em bé dại / Bao nhiêu rồi xác trẻ trôi sông
Ngay cả ở
cùng một thời điểm, cái nhìn về chiến cuộc của hai nhạc sĩ cũng khác nhau. Với
TCS, đó là một cuộc nội chiến mà người Việt Nam là nạn nhân. Với PD, đó là cuộc
chiến Quốc Cộng nối dài, mặc dù sau này, Phạm Duy, vì cơm ăn áo mặc, hay vì một
lý do gì khác, đã vứt bỏ cái hình ảnh của một nghệ sĩ dấn thân, đánh đổi vai
trò thần tượng của một thế hệ để đóng vai trò “hàng thần lơ láo”. Ca ngợi cái
chết của một phi công, Phạm Phú Quốc, PD nói: Ðặt tên cho anh anh là Quốc/Ðặt tên cho anh anh là nước/Ðặt tên cho
người đặt tình yêu nước vào nôi. Viết cho một phi công khác tử trận, TCS
không nói đến chiến công, không ca ngợi anh hùng, chỉ nói đến một kiếp người: Anh nằm xuống sau một lần đã đến đây/Đã vui
chơi trong cuộc đời này/Đã bay cao trong vòm trời này.
Trong bài
“Kỷ vật cho em”, thơ Linh Phương, PD phổ nhạc, có câu: anh trở về bại tướng cụt chân. Nếu Sơn là tác giả, tôi nghĩ chắc
Sơn viết anh trở về vì đã cụt chân. Đối với Sơn, không có thắng có bại; chỉ có
người Việt Nam bị cuốn hút vào một cuộc chiến tương tàn. Nếu chưa bị cụt chân
thì còn đánh nhau. Đó là một cái nhìn cực kỳ bi đát về cuộc chiến.
nghệ sĩ
và cuộc chiến
Trong
cuộc chiến ấy, TCS không có chỗ đứng.
Phía bên
kia chiến tuyến không chấp nhận anh là chuyện đương nhiên. Với họ, không có
chuyện lưng chừng, lưỡng lự, phân vân. Những người không hoàn toàn theo họ là
những kẻ thù. Những người bên này chiến tuyến lên án Sơn đã trở cờ. Nhưng đọc
kỹ những lời ca anh viết sau 75, không thấy một lời ca chứng tỏ anh về hùa,
tâng bốc nhà cầm quyền. Nó vẫn chỉ là những lời ca ngợi tình yêu; kêu gọi tình
anh em, nghĩa đồng bào. Không hề thấy hô hào thù hận, như Xuân Diệu chẳng hạn,
khi “nhà thơ của tình yêu” (!) kêu gọi đấu tố năm nào.
…………………………………………………………………………………………………….Còn
nhạc gọi là phản chiến trước 75? TCS chỉ làm công việc của một nghệ sĩ: diễn tả
cái thảm kịch của chiến tranh, cái đọa đầy của một dân tộc. Ai mà không chia sẻ
giấc mộng của Sơn: Khi đất nước tôi
không còn giết nhau, trẻ em đi hát đồng dao ngoài đường.
Một câu
hỏi đáng được đặt ra: TCS có ảnh hưởng xa gần đến việc miền Nam thua trận? Có
thể. Rất có thể. Một người lính xúc động vì hàng vạn tấn bom trút xuống ruộng
đồng/từng vùng thịt xương có mẹ có em chắc chắn không chiến đấu hăng say bằng
những người cuồng tín. Một người lính than vãn ôi chinh chiến đã mang đi bạn bè/Ngựa hồng đã mỏi vó/Chết trên đồi quê
hương, chắc chắn không chém giết hữu hiệu bằng một người lính suốt đời chỉ
đưọc dạy ăn gan uống máu quân thù. Một quân đội suốt ngày nghe (trên đài phát
thanh nhà nước!) những câu người già co
ro, buồn nghe tiếng nổ/Em bé lõa lồ, khóc tuổi thơ đi, chắc chắn không xả
súng tưng bừng bằng một cán bộ suốt đời chỉ biết vực sâu thăm thẳm, (Hò kéo
pháo). Nhưng nếu cuộc chiến đấu của miền Nam có ý nghĩa, cái ý nghĩa ấy chính ở
chỗ nó cho phép mọi người, trong đó có nghệ sĩ, được tự do diễn đạt tư tưởng
của mình. Đó là cái yếu của một chế độ dân chủ, ngay cả dân chủ tương đối. Năm
người mười ý, trống đánh xuôi, kèn thổi ngược. Đó cũng là lẽ sống của một nền
dân chủ. Đó là cái giá phải trả, bởi vì không có chọn lựa nào khác. Nói theo
kiểu Winston Churchill: dân chủ là chế độ dở nhất, nếu không kể các chế độ
khác.
Khó trách
người nghệ sĩ bày tỏ sự rung động của mình trước cái đau thương của đồng bào.
Ngay cả Phạm Duy, tác giả bài ca tụng Phạm Phú Quốc, người đã tử nạn trong
chuyến oanh tạc miền Bắc, Ðặt tên cho anh anh là Quốc/Ðặt tên cho anh anh là
nước/Ðặt tên cho người đặt tình yêu nước vào nôi, cũng đã kêu giết người đi thì
ta ở với ai? Khó trách nghệ sĩ bày tỏ sự rung động của mình. Cái điều lạ, cái
cảnh khó tin nhưng có thực, là những đêm không ngủ chống chiến tranh ở Văn Khoa
ngày xưa diễn ra ngay ở trung tâm Sài Gòn, với … cảnh sát, quân đội giữ an ninh
chung quanh sân trườngvà chúng ta sẽ không bao giờ có được những Diễm xưa, Tuổi
đá buồn…
huyền
thoại da vàng
Nhiều
người trách cái ngây thơ chính trị của TCS. Nhưng cái ngây thơ chính trị của
nghệ sĩ, của trí thức là chuyện rất phổ thông. Chỉ cần nêu trường hợp Jean Paul
Sartre, suốt đời hô hào ủng hộ cách mạng vô sản, nhắm mắt trước cái dã man, chà
đạp nhân quyền trong những goulag. Chiến tranh, chính trị phức tạp hơn là tình
cảm của nghệ sĩ.
Chẳng
hạn, TCS day dứt về thân phận “da vàng” đến kiếp nô lệ “da vàng”; hết tiếng nói
“da vàng” đến dư khúc “da vàng”. Làm như cái bất hạnh của dân tộc nằm trong cái
nghiệp sinh ra từ mầu da, quên rằng nhiều dân tộc khác, cũng vàng khè không
thua gì người An Nam ta, đang tiến nhanh, tiến mạnh. Nhật Bản đã làm Tây phương
thất điên bát đảo trên mọi phương diện, Đại Hàn trở thành một cường quốc, Trung
Cộng sẽ là một trong hai lãnh tụ thế giới, và những nước phát triển nhất trên
địa cầu, Đài Loan, Singapore là những nước da vàng. Một triết gia nói: “Có hai
loại người, những người chấp nhận làm nô lệ và những người không chấp nhận”.
Vàng, xanh, trắng, đỏ không liên hệ gì đến thân phận của một dân tộc. Ai đã gặp
một người Nhật có mặc cảm da vàng ? Họ không muốn thua ai, không muốn bằng ai,
họ muốn trên mọi người, đứng đầu thiên hạ, họ không biết hai chữ thân phận,
vàng hay xanh.
Những câu
hát phản chiến của TCS là những tiếng nói của tình cảm, không phải là một phân
tách chính trị, không phải những hô hào chính trị. Đó chỉ là những giọt nước
mắt, Giọt nước mắt thương đất, đất cằn cỗi bao năm, giọt nước mắt thương dân,
dân mình phận long đong, thoát ra từ trái tim, mặc dù những giọt nước mắt đó,
vì khả năng truyền cảm của nó, chắc chắn đã có ảnh hưởng đến chính trị, đến
chiến cuộc.
chữ nghĩa
ích gì
Từ những
năm 64-65, chiến tranh càng ngày càng dữ dội. Xã hội càng ngày càng xáo trộn,
tình hình chính trị càng ngày càng nát bét. Ngay cả trong bối cảnh đó, trường
Văn Khoa vẫn sinh hoạt mạnh. Số sinh viên càng ngày càng đông. Ban giảng huấn
đã rất tận tụy góp phần vào việc phát triển trường Đại Học Văn Khoa Sài Gòn. Cố
nhiên, đó chưa phải là một trường đại học tân tiến, kiểu mẫu. Phương pháp giáo
huấn còn cổ hủ, từ chương khoa cử, chưa thực sự có đối thoại, trao đổi giữa
thầy và trò. Nhưng ngay cả ở Sorbonne, cũng vẫn còn cái cảnh ông thầy ngồi trên
giảng đường, thao thao bất tuyệt, đám sinh viên ngồi dưới hí hoáy biên chép như
các cụ đồ ngày xưa dạy học.
Nền giáo
dục Việt Nam thời đó hoàn toàn miễn phí, từ mẫu giáo đến đại học. Trong một
nước chiến tranh, thực hiện một nền giáo dục hoàn toàn miễn phí là một cố gắng
đáng kể. Người ta có thể chê trách chế độ rất nhiều điểm, nhưng đó là một điểm
son phải ghi nhận. Điểm son đó là nhờ ý thức của những người có trách nhiệm,
hay nhờ truyền thống tôn trọng học vấn của một xã hội chịu ảnh hưởng Khổng
giáo? Khổng giáo, ít nhất trên phương diện đó, có khía cạnh tích cực với xã hội
VN. Điều chắc chắn: nếu không có nền giáo dục hoàn toàn miễn phí, hầu hết chúng
tôi đã bỏ học từ lâu.
Một câu
hỏi luẩn quẩn trong đầu tôi từ nhiều năm: một trường Văn Khoa đóng vai trò gì
trong một nước chiến tranh? Sách vở ích
gì cho buổi ấy ? (Nguyễn Khuyến). Bên cạnh bom nổ, thịt rơi, cái sống cái
chết gần kề, có phi lý không khi ngồi đó mổ xẻ “Tứ thư ngũ kinh”, phân tích tư
tưởng Socrates, tìm hiểu nguồn gốc chữ Nôm. Bên cạnh cái nghèo đói của một xã
hội lạc hậu, có vô nghĩa không khi ngồi đó tụng niệm kinh điển bách gia, rung
động với Lord Byron hay Beaudelaire? Sartre nói: Bên cạnh một đứa trẻ chết đói,
cuốn La Nausée không có một giá trị gì.
Câu hỏi
ấy lởn vởn trong đầu, rất nhiều năm, và tôi đã thực sự nhiều lúc hoài nghi,
không tìm được câu trả lời.
Câu trả
lời, mãi sau này tôi mới tìm ra. Câu trả
lời tên là Céline, một cô bạn Pháp. Một buổi chiều thứ bẩy, tôi lên phi
trường đón Céline từ Sarajevo về. Céline là một thiếu nữ thông minh, có bằng
cấp, có chỗ làm tốt trong một công ty lớn, sống nhàn hạ trong cái xã hội hưởng
thụ là cái xã hội Pháp. Weekend bay qua Madrid hay Marakech. Mùa đông trượt
tuyết ở Courchevel, mùa hè nghỉ mát ở Bali hay Bora Bora. Tóm lại, cô nàng có
đủ thứ để hạnh phúc. Nhưng thay vì hạnh phúc, Céline lúc nào cũng tất tả ngược
xuôi, mệt mỏi cả thể xác lẫn tinh thần; nhất là tinh thần. Rồi thuốc ngủ, thuốc
an thần, hết Lexomil đến Prozac.
Một buổi,
Céline dẹp hết, bỏ việc, bán nhà, bán xe. Và biệt tăm. Adieu Céline. Cho đến
cái hôm ở phi trương, tôi gặp lại Céline, nhưng một Céline khác, má rất hồng và
miệng rất tươi. Céline nói sau khi vứt bỏ mọi chuyện, cô nàng gia nhập một ban
hợp tấu, lưu diễn khắp nơi. Céline là
một tay violon thiện nghệ, từ nhỏ vẫn mơ thành nhạc sĩ. Céline lãnh một số
lương tượng trưng, đủ cà-phê, thuốc lá, vì ban nhạc thường đi trình diễn ở
những nước nghèo. Họ vừa ở Sarajevo về. Trình diễn hòa tấu ở Sarajevo, nơi
người ta giết nhau như ngoé, nơi người ta thí mạng để cướp một ổ bánh mì, một
cái mền? Ở đó, người ta chờ bột mì, thịt cá, đường muối, bột giặt, aspirine, ai
chờ Beethoven với Mozazt? Ban đầu, Céline cũng nghĩ như vậy. Nhưng đêm trình
diễn nào cũng đông nghẹt.
Trong một
ngôi nhà thờ đổ nát, một trường học còn đang cháy dở, mưa dột vì mái nhà bị
pháo kích loang lổ, người ta chen lấn nhau tới nghe nhạc. Ban ngày, người ta chạy
bom, giành giựt nhau miếng ăn, một mớ củi để sưởi. Đêm xuống, người ta kéo nhau
đi nghe nhạc. Đàn bà lục hành lý, lôi ra những nữ trang, những bộ quần áo đẹp.
Có ông thắt cà vạt chỉnh tề. Có bà vừa nghe nhạc vừa lặng lẽ khóc. Céline vừa
chơi nhạc vừa cầm nước mắt. Cô nàng vừa tìm thấy hạnh phúc. Chưa bao giờ cô
nàng thấy yêu đời như vậy, yêu mình như vậy. Lần đầu tiên, Céline thấy mình có
ích. Cô ta tìm thấy hạnh phúc của mình trong cái hạnh phúc của người khác. Y
chang tâm trạng của lớp người trẻ chúng tôi ngày xưa khi đi cứu lụt, đào giếng.
Céline
nói có thấy tận mắt cái cảnh người ta lấy tờ báo che mưa nghe nhạc trong một
ngôi nhà đổ nát, mới thấm thía cái câu quen thuộc của người Pháp: Người ta không phải chỉ sống bằng bánh mì.[9] Ngay cả trong những lúc khốn cùng, cái đẹp, cái
thẩm mỹ không phải là một xa xỉ, vô ích. Cái đẹp sẽ cứu nhân loại, không phải
Marx hay Lénine, không phải Bin Laden hay Bush.
Cái đẹp
sẽ cứu vãn nhân loại. Người ta đã từng giết nhau, hành hạ nhau, bỏ tù nhau nhân
danh thượng đế, nhân danh chính nghĩa, nhân danh giáo điều, nhân danh đất nước,
nhân danh đồng bào, nhân danh chân lý. Chưa bao người ta giết nhau nhân danh cái
đẹp. Người ta giết nhau vì thánh kinh, vì Coran, vì Hitler, vì Mao, vì Mác,
chưa bao giờ người ta giết nhau vì Picasso, vì Beaudelaire, vì Nguyễn Du. Sau
này, khi giận hờn sẽ quên, những gì người ta nhớ lại về TCS là những bài hát,
những câu thơ đẹp.
Cái đẹp
sẽ cứu vãn nhân loại. Cái đẹp không phải chỉ là những tác phẩm văn hóa. Cái đẹp
còn là, cũng là, nhất là tình người, một xã hội của những người tử tế, lương
thiện. Đem cái dối trá, đểu cáng, bất nhân làm tiêu chuẩn cho đời sống là cách
hữu hiệu nhất để làm tiêu vong dân tộc. Biến Xuân Diệu, tác giả của “tôi khờ dại quá, ngây thơ lắm. Chỉ biết
yêu thôi, chẳng biết gì”, của “ít
nhiều thiếu nữ buồn không nói, tựa cửa nhìn xa, nghĩ ngợi gì”, thành một
người gào thét, căm hờn là thành quả ghê rợn nhất của công cuộc hủy diệt cái
đẹp.
Ismail
Kadaré nói ngay cả trong những lúc cực kỳ khó khăn vẫn phải có thái độ nghiêm
trọng đối với văn hoá. Kadaré sinh ra, lớn lên và viết văn trong một hoàn cảnh
cực kỳ khó khăn, ở một nước độc tài bực nhất thế giới: Albanie. Kadaré viết văn
trong một xứ kiểm duyệt khắt khe, một nước vỏn vẹn ba triệu dân, nghèo đói,
người mù chữ đông hơn người biết đọc, biết viết. Và viết bằng tiếng Albanie.
Mặc dầu vậy, ông viết văn với một thái độ cẩn trọng. Ngày nay, Kadaré được coi
là một trong những nhà văn quan trọng nhất thế giới.
Nghệ
thuật, cái đẹp có công dụng gì? Chẳng có công dụng gì. Nhưng đời sống không có
cái đẹp sẽ buồn tẻ biết bao nhiêu. Bức tượng của Michel Ange, bức tranh của Van
Gogh không có công dụng gì, nhưng hãy tưởng tượng một thế giới không có Michel
Ange, Van Gogh. Hãy tưởng tượng Paris không có tháp Eiffel, New York không Nữ
Thần Tự Do.
Nghe cô
nàng Céline kể chuyện về những buổi trình tấu ở Sarajevo, tôi hiểu rằng trong
một xứ chiến tranh, nghèo đói, một trường Văn khoa chẳng có ích lợi thiết thực
gì, nhưng nó là cái cốt yếu cho một dân tộc còn muốn vươn lên.
đời sao
im vắng
Tôi gặp
lại TCS những ngày cuối cùng của năm 1999, khi về thăm Việt Nam. Sơn ngồi trước
một cái bàn nhỏ, trong sân Hội Văn Nghệ Sĩ gì đó ở Sài Gòn. Vẫn nụ cười hiền
lành, nhưng buồn bã, vẫn thái độ từ tốn, phong nhã,vẫn đôi kính đồi mồi nhưng
trước mắt tôi là một TCS lục tuần bịnh hoạn, mệt mỏi, mặc dầu đôi mắt vẫn sáng
lên khi nghe đến tin bè bạn. Sơn hỏi thăm tin tức về người này ở bên Tây, người
kia ở bên Mỹ. Sơn nói về những người ở lại, kẻ mất, người còn.
Bơi trong
cái áo sơ mi rộng thùng thình, Sơn nói: mình chỉ còn 39 kí. Sơn nói rượu đã tàn
phá lá gan đến độ không có thuốc gì chữa nổi. Có người sẵn sàng đưa anh đi
ngoại quốc giải phẫu gan nhưng anh từ chối. Sơn nói anh rất mệt, nhiều khi xây
xẩm mặt mày vì bịnh áp huyết thấp (hypotension).
Vừa nói
chuyện, Sơn vừa chào hỏi của những người qua lại. Vị nhạc sĩ lão thành, tác giả
bài Dư Âm nổi tiéng hồi nào ở Hà Nội (Đêm
qua mơ dáng em đang ôm đàn dìu muôn tiếng tơ…) kể chuyện đi thăm bác sĩ,
chuyện thuốc men. Nhạc sĩ Trần Tiến nói về đêm ca nhạc thành công tuần trước.
Ông Vũ Hạnh chạy qua chạy lại hối bài cho một đặc san kỷ niệm “cuộc chiến chống
Mỹ cứu nước”.
Sơn ngồi
đó, mỉm cười hiền lành, buồn bã. Tôi hỏi Sơn có tính đi ngoại quốc chơi một
chuyến, nhân tiện chữa bệnh, dù tôi biết Sơn đang sống những ngày tháng cuối
cùng. Nếu người nghiện rượu tiếp tục uống, dù có thuốc thánh, dù có gỉai phẫu
gan cũng không thay đổi gì. Sơn không muốn nghỉ rượu, hay không nghỉ được. Sơn
nói mình uống ít hơn trước nhiều. Sơn mỉm cười: mình sang đó, sợ các ông ấy đập
mình. Rồi tiếp: sự thực thì ở bên Pháp không có vấn đề gì, bên Pháp ít có người
quá khích; kỳ trước mình qua Pháp, anh em đãi ngộ rất tử tế.
Sơn tiếp:
nói cho đúng, mình mệt lắm, có muốn cũng không đi được. Sơn nói, từ tốn, không
lộ một chút xúc động. Anh đang ở một cõi khác, những cái lăng nhăng ở cuộc đời
này không liên hệ gì đến anh nữa. Nghe tôi sắp đi Nhật, Sơn nhắc đến một cô
sinh viên Nhật Bản đã làm một luận án về ngôn ngữ và chiến tranh trong nhạc
TCS.
Khi tôi
ra về, Sơn đưa cho tôi số điện thoại ở nhà riêng: “Ráng đến chơi, mình có chuyện muốn nói. Thằng em mình, biết cậu về,
chắc nó mừng lắm”. Em Sơn ngày xưa cũng la cà ở quán Văn.
Tôi nghĩ
Sơn muốn nói những gì không thể nói được ở một nơi có nhiều người qua lại. Tôi
ân hận vì không có thì giờ tới nhà Sơn như đã hứa, vì phải rời Việt Nam ngày
hôm sau. Tôi rời Sài Gòn ngày mùng 1 tháng giêng năm 2000. Thế giới đang bước
sang một thế kỷ mới. Tôi gọi điện thoại chào Sơn. Anh hỏi: Cậu đi ngày đầu năm
2000, không sợ ‘“sự cố” à? Tôi nói sự cố nó sợ tôi chứ tôi sợ gì nó. Hồi ấy, ở
Sài Gòn, người ta kỵ đi máy bay ngày đầu năm 2000. Sơn nói, giọng buồn: Nếu gặp
lại X,Y cho mình gởi lời hỏi thăm; chắc mình không có dịp gặp lại anh em nữa. Ôi chinh chiến đã mang đi bạn bè. Ngựa hồng
đã mỏi vó chết trên đồi quê hương.
Mỗi lần
nghe nhạc TCS, tôi nghĩ đến cái cô đơn cùng tận của người nhạc sĩ ngồi trước
cái bàn nhỏ ngoài sân, mỉm cười với người này người kia, nhưng đầu óc ở một nơi
khác. Sơn ngồi đó, cô độc. Một mình tôi về với tôi. Đem cái cô đơn của kiếp
người nhân lên gấp mười, bạn có cái cô đơn của người nghệ sĩ, nhân lên trăm lần
có cái cô đơn của người nghệ sĩ Việt Nam, nhân lên ngàn lần có cái cô đơn của
TCS. Cái cô đơn của một người suốt đời ca ngợi tình yêu, tình đồng bào, ngày
sau sỏi đá cũng cần có nhau, mà cuối cùng bị chỉ trích từ mọi phía. Sơn ngồi
đó, nâng niu cô đơn từng ngày…mà đời còn nhiều đắng cay (Vũ Thành An). Sơn ngồi
đó, một mình, giữa nhiều người:
Đời sao im vắng / Như đồng lúa gặt xong / Như
rừng núi bỏ hoang / Người về soi bóng mình / Giữa tường trắng lạnh câm
Cái sân
chỗ Sơn ngồi đông người qua lại, và ngoài đường xe hơi, xe gắn máy chạy loạn xà
ngầu, nhưng Sơn ngồi đó, giữa tường trắng lạnh câm.
anh đã
đến, đã vui chơi…
Trịnh
Công Sơn ra đi ngày 1 tháng tư 2001, hưởng thọ 62 tuổi. Sáu mươi hai tuổi, đời người như gió qua. Ở
bên Pháp, ngày 1 tháng tư là ngày “cá tháng Tư” (poissons d’Avril), ngày người
ta đùa nhau bằng những chuyện hoàn toàn bịa đặt. Báo cho một ông nhà văn hạng
bét là ông ta vừa chiếm giải Goncourt. Thú với cô fiancée là đã có vợ với ba
con, rồi sau đó cho hay đó chỉ là những cá tháng Tư, những chuyện đùa chơi. TCS
ra đi thật hay chỉ thả một con “cá tháng Tư”?
Sơn đã
đến, đã vui chơi trong cuộc đời này. Bây giờ có lẽ anh đang bay cao trong bầu
trời này. Nhưng, nhiều lúc, tôi tự hỏi có quả thật anh đã vui chơi trong cuộc
đời này. Có bao nhiêu người Việt nam đã thực sự vui chơi trong cuộc đời này?
(Paris, tháng 3/2011)
(Paris, tháng 3/2011)
[1] Xin lưu ý: Những tên tác giả trong bài viết này
viết theo tiếng Pháp / [2]C’est la beauté qui va sauver le monde. Fiodor Dostoïevski,
trích từ tiểu thuyết L’Idiot [3] Charles Trenet (1913-2001), ca-nhạc sĩ Pháp / [4]Longtemps, longtemps, longtemps /Après que
les poètes ont disparu /Leurs chansons courent encore dans les rues…[5] Tư tưởng Phương Đông / Cao Xuân Huy. Nhà xuất
bản Văn Học, Hanoi, 1995 / [6] Le plus difficile c’était la fin du mois, surtout les trente
derniers jours. Coluche, biệt danh của Michel Colucci (1944-1986), một nghệ sĩ Pháp, nổi tiếng vì tài
dí dỏm.[7] Trịnh Cung, Phan Thanh Tâm. Thế kỷ 21, May 2001
/ [8] Đất Mới, Saigon, 1966/[9] On ne vit pas que du
pain/l’être humain ne vit pas seulement de pain (từ Thánh Kinh)
Phạm Duy nói về Trịnh Công Sơn
(Ðọc trong đêm họp mặt của bạn bè, 3 April 2001, tại Quận Cam trong khi Saigon đang làm lễ an táng TCS.)
Từ 1975 cho tới năm 2000,
suốt 25 năm xa quê hương đất nước, tôi không có cơ hội để theo dõi sinh hoạt
của âm nhạc Việt Nam và không biết sau cơn hồng thủy, nhạc Trịnh Công Sơn ra
sao, là nhạc chắp cánh bay lên hay nhạc la đà chìm xuống? Nhưng qua dăm bẩy băng
nhạc sản xuất tại Hoa Kỳ trong đó có vài ba bài ca mới soạn của Trịnh Công Sơn
thì tôi thấy nhạc của anh vẫn là nhạc tình yêu và nhạc thân phận làm người.
Nhưng vào năm 1980, ngẫu
nhiên Trịnh Công Sơn và tôi cùng có mặt ở Paris, trong nỗi vui mừng gặp nhau
của hai người cùng có chung một phận, Trịnh Công Sơn hát cho tôi nghe bài hát
“Lặng Lẽ Nơi Này” mà anh vừa mới viết ra:
Trời cao đất rộng,
Một mình tôi đi
Một mình tôi đi
Ðời như vô tận,
Một mình tôi về
Một mình tôi về…với tôi!
Một mình tôi đi
Một mình tôi đi
Ðời như vô tận,
Một mình tôi về
Một mình tôi về…với tôi!
… thì tôi thấy nghệ sĩ nào
rồi cũng phải mang số phận cô đơn truyền kiếp, ở quê hương hay xa quê hương,
vào thời bình hay chinh chiến, giữa đám đông hay khoảng trống, nơi thiên đàng
hay địa ngục… Chỉ còn có thể về với mình, “về với tôi” như Sơn đã nói.
“Trời cao đất rộng, một mình
tôi đi …” Cô đơn truyền kiếp phải chăng là kiếp của nhiều ca nhân? Văn Cao khi
mới chỉ là chàng Trương Chi tuổi còn rất xanh, tài hoa đang nở rực, chưa hề
biết phận mình mỏng manh ra sao trong cơn gió lốc sẽ tới, mà cũng đã chỉ muốn “Ngồi đây ta gõ mạn thuyền. Ta ca, trái đất
còn riêng ta!”
Còn tôi? Tôi còn phải sống,
đôi khi phải đổi chỗ đứng, đổi chỗ ngồi cho đỡ buồn trong cõi trần ai sầu muộn
này, từ rất lâu ngồi đâu thì cũng chỉ là ngồi một mình trong cái TA.
Hôm nay là ngày an táng
Trịnh Công Sơn. Vào giờ phút anh đã thực sự về với đất, với trời, nghĩa là về
với mình rồi, chúng tôi biết rằng anh đã nghìn lần nói lên nghìn lời trối trăn
qua tác phẩm, lời nào cũng làm cho mọi người thấy được nỗi đau làm người, nỗi
đau tình cờ, cơn đau chưa dài và cơn đau lên đầy, quá nửa đời người không một
ngày vui…
Nhưng theo tôi, có lẽ sau
đây là lời trăn trối tuyệt diệu nhất, lời cuối cùng Trịnh Công Sơn nói với
Trịnh Công Sơn:
Ðừng tuyệt vọng,
tôi ơi đừng tuyệt vọng,
Lá mùa Thu rơi rụng
giữa mùa Ðông
Ðừng tuyệt vọng,
em ơi đừng tuyệt vọng
Em là tôi và tôi cũng là em.
Con diều bay
mà linh hồn lạnh lẽo
Con diều rơi
cho vực thẳm buồn theo
Tôi là ai mà còn ghi dấu lệ?
Tôi là ai mà còn trần gian thế!
Tôi là ai, là ai… là ai
Mà yêu quá đời này! “
tôi ơi đừng tuyệt vọng,
Lá mùa Thu rơi rụng
giữa mùa Ðông
Ðừng tuyệt vọng,
em ơi đừng tuyệt vọng
Em là tôi và tôi cũng là em.
Con diều bay
mà linh hồn lạnh lẽo
Con diều rơi
cho vực thẳm buồn theo
Tôi là ai mà còn ghi dấu lệ?
Tôi là ai mà còn trần gian thế!
Tôi là ai, là ai… là ai
Mà yêu quá đời này! “
Thơ
Bùi Giáng
Trịnh Công Sơn
Anh Sơn vô tận bấy chầy
Tôi từ lẽo đẽo tháng ngày trải qua
Niềm thống khổ đứt ruột rà
Còn chăng? ấy chỉ một là là chi?
Anh Sơn vô tận bấy chầy
Tôi từ lẽo đẽo tháng ngày trải qua
Niềm thống khổ đứt ruột rà
Còn chăng? ấy chỉ một là là chi?
Trịnh
Công Sơn
Điếu Bùi Giáng
Bùi Giáng Bàng Dúi Búi Giàng
Ô hay trăm ngõ bàng hoàng lỗ không
Lỗ không trời đất ngỡ ngàng
Hoá ra thi thể là ngàn hư vô
.... Nhớ thương vô cùng là từ
Là từ vô hạn ứ ừ viển vông.
Bùi Giáng Bàng Dúi Búi Giàng
Ô hay trăm ngõ bàng hoàng lỗ không
Lỗ không trời đất ngỡ ngàng
Hoá ra thi thể là ngàn hư vô
.... Nhớ thương vô cùng là từ
Là từ vô hạn ứ ừ viển vông.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét