Thứ Bảy, 25 tháng 2, 2017

[Bài 9&10] Tình sử Hồ Xuân Hương- Nguyễn Du/ Ngân Triều chú giải

[Bài 9]
II Những bài thơ tình gửi đáp Hồ Xuân Hương & Nguyn Du t Tiên Đin đến Nghi Tàm (1794-1796).
Theo TS Phạm Trọng Chánh.

II .1 
Nguyễn Du về đến Tiên Điền, Hồng Lĩnh không nhà, anh em lưu lạc.Thật sự thì anh em Nguyễn Du chẳng bao giờ ở tại Tiên Điền cả. Những năm cuối cùng nhà Lê -Trịnh . Nguyễn Khản làm Thượng Thư Bộ Lại, chức vụ ngang với Thủ Tướng ngày nay, lại kiêm trấn thủ Hưng Yên, Thái Nguyên và Sơn Tây. . Tại Sơn Tây Nguyễn Khản giao quyền cho Nguyễn Điều làm Đốc Trấn, có Nguyễn Nể phụ tá. Nguyễn Nghi, Nguyễn Trứ nắm giữ binh quyền tại Hưng Yên. Và tại Thái Nguyên, Nguyễn Quýnh giữ chức Trấn Tả Đội, Nguyễn Du làm Chánh thủ Hiệu, quân Hùng hậu hiệu, đội quân mạnh nhất Thái Nguyên, Cai Gia tức Nguyễn Đại Lang làm Quân Sư. Cai Gia nhân vật này có tên trong Hoàng Lê Nhất Thống Chí, vốn là người Phản Thanh Phục Minh Trung Quốc, là tay 'giặc già' , được Nguyễn Khản thu nạp làm môn hạ, để dạy võ cho các em. Thái Nguyên là nơi nhiều dân Trung Quốc sang khai mỏ, trộm cướp, trốn thuế. Cai Gia là người trị nổi đám người này; Nguyễn Du kết nghĩa sống chết với Cai Gia (Sinh Tử giao tình tại. Bài Tiễn biệt Nguyễn Đại Lang) nên gọi là anh Cả. Khi nhà Trịnh sụp đổ, Nguyễn Du, Nguyễn Đại Lang và Nguyễn Sĩ Hữu (tức Nguyễn Quýnh) chạy sang Vân Nam. Tôi, (TS Phạm Trọng Chánh),bác bỏ việc Nguyễn Du nhận tập ấm cha nuôi họ Hà, giữ một chức quan võ nhỏ như gia phả ghi.Thật sự Nguyễn Du là đại diện binh quyền cho anh Nguyễn Khản tại Thái Nguyên).
Hai anh lớn Nguyễn Khản, Nguyễn Điều đã mất năm 1786, Nguyễn Nể làm quan ở Phú Xuân, Nguyễn Quýnh bị Tây Sơn giết năm 1790 tại Hà Tỉnh, Nguyễn Nghi, Nguyễn Trứ đại diện binh quyền cho Nguyễn Khản từ Hưng Yên về ở Chu Kiều, Bắc Ninh làm nghề thuốc. Nguyễn Nghi viết truyện thơ Quân Trung Đối dài 1116 câu, và có con là Nguyễn Toản đỗ Tiến Sĩ đời Minh Mạng làm quan đến chức Viên Ngoại Lang. Nguyễn Trứ làm nghề thuốc, đậu Tam Trường năm 1779 đời Gia Long có ra làm quan Tri phủ Nam Sách, có con là Nguyễn Thích tri phủ Nghĩa Hưng, Nam Định, Nguyễn Trù tri phủ Vĩnh Tường, và Nguyễn Thị Uyên làm thuốc giỏi được mời vào cung chữa bệnh cho các cung nữ đời Gia Long .Trong anh em Nguyễn Du có lẽ chỉ có Nguyễn Nhưng là ở Hà Tỉnh.
Theo Gs Hoàng Xuân Hãn, trong danh sách những người ra cộng tác với La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp ở Sùng Chính Viện đời Tây Sơn, có Nguyễn Công con Nguyễn Khản, và Nguyễn Thiện con Nguyễn Điều.
Nguyễn Hành con thứ hai Nguyễn Điều, nhà thơ tài hoa trong năm nhà thơ nhất nước đương thời, lúc này cũng đang ở Hồng Lĩnh, nên có nhiều kỷ niệm về các cuộc đi săn của Hồng Sơn Liệp Hộ Nguyễn Du.
Về Tiên Điền, hai anh em Nguyễn Du, ở trong một căn nhà nhỏ trên bến Quế Giang, đầu sông Long Vĩ, cạnh Giang Đình, để tiện việc chở gạch, ngói, gỗ, đá về xây cất bằng thuyền. Nguyễn Du có lẽ nằm nhà trông coi việc trả lương thợ và tiếp nhận vật liệu. Công việc xây dựng lại làng Tiên Điền khá quy mô. Có đến bốn đền thờ họ Nguyễn Tiên Điền:
Đền thờ ông Nguyễn Lĩnh Nam tức cụ Nguyễn Quỳnh, ông nội Nguyễn Du.
Đền thờ ông Nguyễn Tiên Lĩnh Hầu tức Nguyễn Huệ (1705-1733) chú Nguyễn Du, Đền thờ Xuân Quận Công tức Nguyễn Nghiễm(1708-1776) cha Nguyễn Du,
Đền thờ Nguyễn Lam Khê tức Nguyễn Khản (1734-1786).
Đền thờ Điền Nhạc Hầu tức Nguyễn Điều (1745-1786).ngoài ra còn có chùa Trường Ninh và Cầu Tiên.
Mọi chi phí đều do Nguyễn Nể cung ứng, cuối năm 1794, Nguyễn Du có vào Phú Xuân nhận món tiền thứ hai.
 Về Tiên Điền, Nguyễn Du chỉ còn người bạn hiệu là Thực Đình (ăn ở đình làng) tặng cho chiếc áo vải, người bạn dạy học lây lất không đủ sống. Sách vở họ Nguyễn Tiên Điền, không kém gì Phúc Giang thư viện họ Nguyễn Trường Lưu hàng vạn quyển sách, được triều đình sắc phong, bị cháy mười phần còn một hai, chất quanh vách nhà, ngoài cửa một khóm cúc vàng, bếp vắng lặng vì thiếu người đàn bà bếp núc. Nguyễn Du hớp rượu cho hồng sắc diện. Về đây sau cuộc khởi nghĩa Nguyễn Quýnh, Nguyễn Du phải Khóc cười thời loạn theo trần thế, bệnh yếu lặng câm mà giữ thân.
Về Tiên Điền bệnh cũ mười năm trước ở Vân Nam tái phát, NguyễnDu: Nằm bệnh mười tuần bến Quế Giang.Ngày xưa tuần là tuần trăng, nửa tháng, từ trăng tròn đến trăng khuyết. và từ không trăng đến tròn trăng.

II .2 
Nhân có một người quen về Hồng Lĩnh, Hồ Xuân Hương gửi Nguyễn Du bài Nhân tặng, bài này chép trong Lưu Hương ký.: Chàng đã về quê quán, nơi từ đường của danh gia vọng tộc, cách xa bao non núi. Xuân Hương chẳng có dịp may nào để xông pha về thăm chàng. Mấy hàng chữ viết thăm chàng, nước mắt rơi lai láng, một bài thơ, một mảnh giấy lòng em đợi tin chàng. Muốn thả lá đề thơ nhưng e ngại ngọn nước triều không đưa đến, muốn gửi quà nhiều hơn nhưng e ngại mỏi cánh chim hồng. Ước gì có người tiên hiện xuống nơi trần thế giúp tình ta, có vầng trăng soi tỏ tấm lòng.
*
Nhân tặng
Nghiêm thẳm hầu môn biết mấy trùng,
May chăng khôn lẽ dám pha xông.
Mấy hàng chữ mực châu lai láng,
Một mảnh tờ mây ý mộng mong.
Buông thả luống e khơi ngọn nước.
Gửi trao còn ngại mỏi vai hồng.
Người tiên ví chẳng soi trần thế,
Cậy có vầng xanh tỏ tấm lòng.
*
Theo TS. Phạm Trọng Chánh, bài thơ này được Hồ Xuân Hương viết khoảng năm 1795 lúc Nguyễn Du đã về Hồng Lĩnh, và Nguyễn Du đã đáp lại bài thơ này bằng bài "Ký hữu" trong "Thanh Hiên thi tập". 
*
Nguồn: 
1. Đi tìm Cổ Nguyệt đường và mối tình Hồ Xuân Hương và Nguyễn Du, TS. Phạm Trọng Chánh, 2012 
2. Bản sao từ bản chép tay của Nguyễn Văn Hoàn, do TS. Nguyễn Xuân Diện cung cấp
*
Bản chữ Nôm, Ngân Triều soạn
審候門别買重
𠲕𨃸
洚𡨸墨珠吏浪
𤗖𩄎意夢懞
捹抯𢤱𠲖𢵱𦰟
𢭂群碍悔𦠽
𠊚𠸠拯擂塵世
𣎏𩇛𤍄𢙱
*

Ngân Triều diễn thơ:
Từ đường vọng tộc, bao non núi!
Có dịp may nào để thẳng dong?
Chữ viết mấy hàng rơi nước mắt,
Thơ đề mảnh giấy, gởi hoài mong.
Mênh mông thả lá triều đâu đến,
Tin nhạn còn e mỏi cánh hồng.
 Những ước người tiên, bay xuống giúp,
 Trăng thề soi sáng, sáng soi lòng.

*****
[Bài 10]

II .3 
Nguyễn Du đã trả lời bài Nhân tặng của Xuân Hương bằng bài Ký hữu, Gửi bạn bài số 33 trong Thanh Hiên thi tập. Xuân Hương viết: Cậy có vầng xanh tỏ tấm lòng, Nguyễn Du đáp lại:Một vầng trăng sáng tình ta đó.

Ký hữu, 
Nguyễn Du
Nguyễn Du đã trả lời bài Nhân tặng của Xuân Hương bằng bài Ký hữu, Gửi bạn bài số 33 trong Thanh Hiên thi tập. Xuân Hương viết: Cậy có vầng xanh tỏ tấm lòng, Nguyễn Du đáp lại:Một vầng trăng sáng tình ta đó.


. *
Ký hữu
Mạc mạc trần ai mãn thái không.,
Bế môn cao chẩm ngọa kỳ trung.
Nhất thiên minh nguyệt giao tình tại,
Bách lý Hồng Sơn chính khí cùng.
Nhãn để phù vân khan thế sự,
Yêu gian trường kiếm quải thu phong.
Vô ngôn độc đối đình tiền trúc.
Sương tuyết tiêu thời hợp hoá long.
*
Gửi bạn
Nhất Uyên dịch

Mờ mịt không trung gió bụi trần,
Cửa gài, kê gối mãi nằm không.
Một vầng trăng sáng tình ta đó,
Trăm dặm Hồng sơn chính khí cùng.
Trước mắt phù vân, ôi thế sự,
Bên lưng trường kiếm nổi thu phong.
Đầu sân ngóng trúc lòng không nói,
Sương tuyết tiêu tan sẽ hóa rồng.
Thơ chữ Hán Nguyễn Du. Thanh Hiên thi tập. Nhất Uyên dịch
*
Bản chữ Hán Ngân Triều soạn
滿






*
Dịch nghĩa, theo TS Phạm Trọng Chánh
Mờ mịt không trung cát bụi đầy trời,( tình hình chính trị mờ mịt, nay Quang Trung mất, triều đình rối loạn các đại tướng đem quân đánh nhau. Nguyễn Ánh đang nổi lên ở phương Nam ngày một mạnh, đã chiếm Gia Định, chưa biết tình hình ra sao).
Từ ngày về Tiên Điền, đóng cửa nằm khàn trong nhà,
Một vầng trăng sáng tình ta đó,
Non Hồng dài trăm dặm, đôi ta chung chính khí tổ tiên hun đúc.
Việc đời trước mắt như đám mây nổi, sớm hiện rồi tan,
Thanh trường kiếm dắt ngang lưng chưa dùng vào việc gì phất phơ trong gió thu.
Một mình không nói nhìn khóm trúc trước sân.
Sương tuyết tan đi trúc sẽ hóa rồng, tài năng kẻ sĩ sẽ được trọng dụng
*


*
Ngân Triều diễn thơ
Mù mịt non sông gió bụi đầy,
Tiên Điền thắc thỏm dạ không khuây.
Một vầng trăng sáng tình ta đó,
Trăm dặm non Hồng chính khí đây.
Ngán nỗi bể dâu, mây có hiểu?
Mòn lưng trường kiếm gió thu lay!
Lặng nhìn khóm trúc lòng thêm tủi
Bể lặng trúc-rồng tung cánh bay.
*
Nguồn, tham khảo trang Web: Đi tìm Cổ nguyệt đường và mối tình HXH và Nguyễn Du của TS Phạm Trọng Chánh.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét