[Bài 2]
I . 4.
Trong bài Chơi Tây Hồ nhớ bạn, Hồ Xuân Hương trả lời bài Độc Tiểu Thanh Ký có câu: Trấn Quốc rêu phong vẫn ngấn thơ. Lời thơ đề chùa Trấn Quốc rêu phong cổ kính còn vang vọng. Bài Đề Trấn Quốc Tự Hồ Xuân Hương chép trong Hương Đình Cổ Nguyệt thi tập, tập thơ này gồm những bài ngâm vịnh rất đứng đắng, có lẽ Đại Thần Trương Đăng Quế, Tùng Thiện Vương đã đọc tập này nên sánh với Mai Am Công Chúa với Hồ Xuân Hương và Phạm Lam Anh (Thế kỷ 19, các nhà thơ đương thời nhìn Hồ Xuân Hương là một nhà thơ đứng đắn, lãng mạn, không có chuyện là một nhà thơ dâm tục)
Trong bài Chơi Tây Hồ nhớ bạn, Hồ Xuân Hương trả lời bài Độc Tiểu Thanh Ký có câu: Trấn Quốc rêu phong vẫn ngấn thơ. Lời thơ đề chùa Trấn Quốc rêu phong cổ kính còn vang vọng. Bài Đề Trấn Quốc Tự Hồ Xuân Hương chép trong Hương Đình Cổ Nguyệt thi tập, tập thơ này gồm những bài ngâm vịnh rất đứng đắng, có lẽ Đại Thần Trương Đăng Quế, Tùng Thiện Vương đã đọc tập này nên sánh với Mai Am Công Chúa với Hồ Xuân Hương và Phạm Lam Anh (Thế kỷ 19, các nhà thơ đương thời nhìn Hồ Xuân Hương là một nhà thơ đứng đắn, lãng mạn, không có chuyện là một nhà thơ dâm tục)
Ai
là người đến đó khách đài trang, dòng dõi quyền quí, cơn gió nam nhẹ lướt êm
êm, trăng nước sóng lồng cánh sen vừa mới nở, non nõn tinh khiết. Khói hương
chùa như chiếc tán lọng quý báu, lại bay lên, như cánh cò cánh hạc nối mây. Đóa
hoa sen mới nở như nụ cười hàm tiếu nhẹ nhàng rửa tan niềm tục, cỏ xanh mùa
xuân như gợi tỉnh niềm mơ. Đến cảnh muốn nhìn lại hỏi chàng. Nguyễn Du lòng
đang muốn về quê Hồng Lĩnh, tung tay áo vẫy gọi đàn hồng nhạn bay về phía Đông
Nam.
| Đề Trấn Quốc tự | |||
Trang lâm thùy thị cảnh trung
nhân,
Tế tế thanh phong phiến phiến
huân.
Thủy nguyệt ba lung liên quải
choát,
Hương yên bảo thoại lộ liên vân.
Tẩy không trần lự hoa hàm thoại,
Hoán tỉnh mê đồ thảo diệc xuân.
Đáo cảnh linh nhân hồi thủ vấn,
Đông Nam phất tụ nhạn thành quần.
Thơ chữ Hán Hồ Xuân Hương, Nhất Uyên dịch thơ
|
*
Bản chữ Hán Ngân Triều soạn
鎮 北 寺 莊 臨 誰 是 景 中 人 細 細 清 風 扇 扇 薰 水 月 波 籠 蓮 插 茁 香 煙 寶 憩 露 連 雲 洗 空 塵 慮 花 含 態 喚 醒 迷 途 草 亦 春 到 景 令 人 回 首 望 東 南 拂 袖 鴈 成 群 * Bản dịch của Nhất Uyên Phạm Trọng Chánh Ai người đến đó, khách đài trang, Nhẹ lướt êm êm cơn gió Nam. Trăng nước sóng lồng sen nõn cánh, Khói hương tàn báu hạc bay ngàn. Rửa niềm trần tục hoa hàm tiếu, Gợi tỉnh niềm mơ cỏ thấm xuân. Đến cảnh quay đầu người muốn hỏi, Đông nam tay vẫy nhạn tung đàn.
*
Ngân Triều diễn thơ:
Ðề chùa Trấn Quốc
Ngoạn cảnh đài trang khách quý nhân, Gió Nam thơm phảng phất từng làn Sóng vờn trăng nước sen chen búp, Hương khói cánh cò, lọng thấu mây Tẩy sạch phiền trần hoa thẹn mặt, Cơn mê qua cây cỏ mừng xuân.
Dừng chân ngoảnh
lại như thầm hỏi,
Tay vẫy Đông Nam nhạn một đàn.(a) Nguồn: 1. Hồ Xuân Hương thơ chữ Hán - chữ Nôm & giai thoại, Bùi Hạnh Cẩn, NXB Văn hoá - Thông tin, 1999 2. Chùa Trấn Quốc, khảo cứu và tư liệu Hán Nôm, NXB Văn học, 2009 3. Tứ gia thi tập (ký hiệu R. 423), Thư viện quốc gia Việt Nam .(1) Có thể tay áo của Nguyễn Du co những gút và sợi dây, thoạt trông như 1 đàn nhạn. Hơn ữa trong bài Quan Hậu sợ vợ, có hai câu: Hành Sơn mực điểm đôi hàng nhạn,
Thứu Lĩnh đen trùm một thức mây.
“Đôi hàng nhạn” tức là hai khúc vòng chuỗi trên cổ người thiếu nữ.
Câu (a) trên có thể hiểu hai ý:
-Khi về quê ở Hồng Lĩnh, Nguyễn Du sẽ gặp lại
thân bằng quyến thuộc của mình rất đông.
-Tay áo của Nguyễn Du có đính sợi dây cột, khi
vẫy tay áo, những sợi đó bay bay như
hình ảnh một đàn nhạn bay thoải mái trong gió.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét