Thứ Bảy, 25 tháng 2, 2017

[Bài 13&14]/ Tình sử Hồ Xuân Hương/ Nguyễn Du/ Ngân Triều biên khảo

[Bài 13]
II .6 
Xuân Hương đã phúc đáp bài Thu Dạ I của Nguyễn Du bằng bài Thu Vũ. Mưa Thu. Nàng đã khóc khi nghe Nguyễn Du bệnh gần cả năm, tóc đã nhuốm bạc.
Trời ảm đạm mây mù dăng mờ mịt, lòng em như mây (tiếp ý mây bài Thu dạ hữu hoài và Thu Dạ I), nhưng mây đầy trời ảm đạm và mù mịt, tí tách mưa thu rơi trên sân vắng. Đầu cành cây khô giọt lệ dài ngắn, trên lá chuối vàng, tiếng thưa mau. Ngâm đọc xong bài Thu Dạ (I) , đê mê như mơ thương nhớ chàng cách xa ngàn dậm, sầu vấn vương dăng mắc mối tình năm canh. Nơi khuê phòng, người nhan sắc, mặt hoa đau khổ vô cùng, một mảnh lòng sầu vẽ mãi không thành.
 
Mưa thu
Thu vũ
Trời thảm mây dăng tối mịt mùng,
Mưa thu tí tách nhỏ ngoài sân.
Cây khô dài ngắn rơi hàng lệ.
Tàu chuối vàng tơi tiếng chậm nhanh.
Ngâm dứt đê mê sầu vạn dặm,
Buồn dâng quạnh quẽ nỗi năm canh.
Khuê phòng riêng khổ người nhan sắc,
Một phiến sầu vương vẽ chẳng thành.
Thiên cách vân âm thảm bất minh,
Tiêu tiêu thu vũ lạc nhàn đình.
Doản trường khô thụ chi đầu lệ,
Thư cấp hoàng tiêu diệp thượng thanh.
Ngâm đoạn đê mê thiên lý mộng,
Sầu khiên liêu tịch ngũ canh tình.
Thâm khuê tối khổ như hoa diện
Nhất phiến sầu dung họa bất thành.

Thơ chữ Hán Hồ Xuân Hương, Nhất Uyên dịch thơ.

Mưa thu (Người dch: Bùi Hnh Cn)
Tri cách mây mù thm ch xanh,
M
ưa thu sân vng git bun tanh.
Đ
u cành cây héo châu dài vn,
Trên lá tiêu vàng ti
ếng chm thanh.
Hát d
t đê mê mơ vn dm,
S
u giăng qunh qu ni năm canh.
Khuê sâu r
t kh mày hoa y,
V
mt bun thương v chng thành.

Ngu
n: H Xuân Hương thơ ch Hán - ch Nôm & giai thoi, Bùi Hnh Cn, NXB Văn hoá - Thông tin, 1999.
*

Thu vũ

Thể thơ: Thất ngôn bát cú

Thiên cách vân âm thảm bất minh,
Tiêu tiêu thu vũ lạc nhàn đình.
Đoản trường khô thụ chi đầu lệ,
Thư cấp hoàng tiêu diệp thượng thanh.
Ngâm đoạn đê mê thiên lý mộng,
Sầu khiên liêu lạc ngũ canh tình.
Thâm khuê tối khổ như hoa diện,
Nhất phiến sầu dung hoạ bất thành
.
*
Nguồn:
1. Hồ Xuân Hương thơ chữ Hán - chữ Nôm & giai thoại, Bùi Hạnh Cẩn, NXB Văn hoá - Thông tin, 1999
2. Tứ gia thi tập (ký hiệu R. 423), Thư viện quốc gia Việt Nam

*



明,
庭。
淚,
聲。
夢,
情。
面,
成。
*


Mưa Thu

Bản dịch của Bùi Hạnh Cẩn

Trời cách mây mù thảm chả xanh,
Mưa thu sân vắng giọt buồn tanh.
Đầu cành cây héo châu dài vắn,
Trên lá tiêu vàng tiếng chậm thanh.
Hát dứt đê mê mơ vạn dặm,
Sầu giăng quạnh quẽ nỗi năm canh.
Khuê sâu rất khổ mày hoa ấy,
Vẻ mặt buồn thương vẽ chẳng thành.


*
Ngân Triều diễn thơ:
.Mưa Thu.
. Mây mù ảm đạm, mây mông mênh
. Tí tách mưa thu, sân vắng tanh.
. Cây chết đầu cành, rơi những lệ,
. Mưa khua tiếng chuối, tiếng trầm thanh.
.Ngâm xong mộng tưởng người xa cách,
. Quạnh vắng sầu giăng suốt ngũ canh.
. Đắng lắm khuê phòng hoa héo hắt,
. Vẻ sầu một mảnh vẽ không thành. 
*****
[Bài 14]

II . 7 
Nguyễn Du trả lời bài Thu Vũ của Hồ Xuân Hương bằng bài Thu Dạ II..
Tiết bạch lộ tháng tám âm lịch, hơi thu đã già, qua tháng chín tà tiết sương dâng, không phải chỉ lòng em đầy mây mù đâu, lòng anh cũng lạnh lẽo sương dâng mờ mịt cây cỏ quanh bến giang thành đìu hiu. Bên đèn khuya quạnh quẽ ngóng đợi.Vắt tóc như Chu Công bận lo việc nước, vừa gội đầu vừa tiếp sĩ phu, phải vắt ba lần mới gội đầu xong.Lo cái chí nguyện tàn phai theo ngày tháng, non sông nghìn dậm càng nghĩ càng nhớ càng lo lắng trong ngày dài. Phong cảnh bốn mùa thay đổi riêng mình ngậm ngùi buồn, trời chớm lạnh, mới hay không áo là khổ, nghe tiếng chày người khuê phụ đập vải trong chiều, lòng nhớ đến em nơi khuê phòng trông ngóng.
 
Đêm thu II. 
Thu Dạ II.
Móc trắng sương thu dăng mịt mùng, 
Dìu hiu cây cỏ bến giang thành. 
Đèn khuya quạnh quẽ đêm dài ngóng, 
Vắt tóc lo hoài chí nhạt tan. 
Vạn dặm giang sơn dài nỗi nhớ, 
Bốn mùa mây nước ngậm ngùi trông. 
Chớm lạnh mới hay không áo khổ, 
Tiếng chày khuê phụ, bóng chiều phong. 
Bạch lộ sương vi thu khí thâm,
Giang thành thảo mộc cộng tiêu sâm.
Tiễn đăng độc chiếu sơ trường dạ,
Ác phát kinh hoài mạt nhật tâm.
Thiên lý giang san tần trường vọng,
Tứ thời yên cảnh độc trầm ngâm.
Tảo hàn dĩ giác vô y khổ,
Hà xứ không khuê thôi mộ châm..

Thơ chữ Hán Nguyễn Du Thanh Hiên Thi tập. Nhất Uyên dịch thơ.
Chú Thích:
Bạch lộ: sươn,g móc trắng, tiết bạch lộ là tháng 8 âm lịch.
Ác phát: Chu Công bận lo việc nước có khách lại, ông vắt tóc lên ra tiếp, phải vắt ba lần mới gội đầu xong.

  


Thu dạ kỳ 2 

Bạch lộ vi sương thu khí thâm, 
Giang thành thảo mộc cộng tiêu sâm. 
Tiễn đăng độc chiếu sơ trường dạ, 
Ác phát kinh hoài mạt nhật tâm. 
Thiên lý giang sơn tần trướng vọng, 
Tứ thì yên cảnh độc trầm ngâm. 
Tảo hàn dĩ giác vô y khổ, 
Hà xứ không khuê thôi mộ châm?

Dịch nghĩa 

Móc trắng thành sương, hơi thu đã già. 
Cây cỏ quanh thành bên sông, trông đến tiêu điều! 
Khêu ngọn đèn cho chiến rọi vào cảnh đêm dài mới bắt đầu. 
Búi tóc mà lo cho chí nguyện những ngày tàn tạ. 
Non sông ngàn dặm cứ nhìn là thấy buồn. 
Phong cảnh bốn mùa, riêng mình ngậm ngùi. 
Mới rét, đã khổ vì không áo, 
Mà nơi đâu tiếng đập vải của người khuê phụ rộn rã trong chiều hôm?
*

Ngân Triều diễn thơ:
Móc trắng như sương, thu sắp hết, 
Quanh sông cây cỏ, những tiêu điều! 
Khêu  đèn  chiếu rọi  đêm dài khởi. 
Chuyện phiếm hoài công ngày quạnh hiu.
Ngàn dặm non sông buồn lặng ngắm. 
Bốn mùa phong cảnh, lòng cô liêu. 
Rét về thêm khổ vì không áo, 
Đập vải nơi đâu rộn rã chiều?

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét