Tác giả không khẳng định
cách lý giải nào là sai, là đúng, chỉ xin góp thêm một ý để xác định chân giá
trị, hầu mong tìm một chuẩn mực để truyền đạt kiến thức đúng cho học sinh.
Trong câu “Già kén, kẹn
hom” tác giả cuốn sách trên cho biết: Nguyên gốc của thành ngữ là “Già kén
chẹn hom” và chỉ thấy trong từ điển của Génibrel (1893) ghi là chẹn và dịch
tiếng Pháp là serrer (tức là xương hom bị chẹn lại). Từ đó suy đoán rằng kén
chọn, lấy chồng muộn thì dễ mắc bệnh chẹn hom - là bệnh mà xương hom không
giãn rộng, dễ chết cả mẹ lẫn con.
Thực tế, y văn của y học
hiện đại cũng như cổ truyền, cho đến nay chưa thấy ghi nhận hoặc khẳng định
trường hợp nào, người phụ nữ kén chọn, lấy chồng muộn thì xương hom không
giãn nở, khó sinh dẫn đến dễ chết cả mẹ lẫn con. Tìm trong “Y lược lục thư”
của y học cổ truyền, mục từ sinh khó (nan sản), thông thường chẩn đoán có ba
nguyên nhân, trong đó có lý do thứ nhất là là do khung xương chậu nhỏ...
Như vậy xương chậu ở đây
có phải là xương hom như “Tiếng Việt tinh nghĩa” đề cập hay không? Trong
Annamite - Francais Dictionaire của Génibrel - 1898, từ chẹn: serrer
fortement nghĩa tiếng Việt phổ thông là siết mạnh, chứ không liên quan gì đến
xương ở đây. Và Tự điển Việt - Pháp giải nghĩa: xương hom: arêtes (des
poissons). Arête, danh từ giống cái là xương cá; poisson, danh từ giống đực
là cá.
Trong “Từ điển tiếng
Việt” của Trung tâm Từ điển học và “Tự điển Việt Nam” của Lê Văn Đức và Lê
Ngọc Trụ cũng giải thích hom là xương cá, xương dăm. Như vậy cả tiếng Pháp
lẫn tiếng Việt cũng đều dịch nghĩa hom là loại xương nhỏ chứ không thể là
xương chậu, để gán vào trường hợp “chẹn hom” của câu thành ngữ.
Trong bài báo “Tại sao
một số thành ngữ, tục ngữ lại khó hiểu” đăng trên Tạp chí thông tin khoa
học-công nghệ Thừa Thiên-Huế năm 1996, học giả An Chi có giải thích thành ngữ
“Già kén, kẹn hom” là một lối nói của nghề nuôi tằm.
Theo ông: “Đây là đúc
kết kinh nghiệm mà mục đích là nhắc nhở người nuôi tằm chớ để kén quá già, vì
như vậy thì sẽ bị kẹn, nghĩa là không róc ra khỏi hom, tức là những thanh tre
ngang dọc đan ken vào nhau để làm thành cái né tằm”.
Mới đây tôi có dịp về
làng Mã Châu, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam - một vùng đất trồng dâu, chăn
tằm cách đây vài trăm năm và hiện nay cũng vẫn còn phát triển tốt. Người dân
ở đây khẳng định thành ngữ “Già kén, kẹn hom” là có xuất xứ từ nghề chăn tằm.
Trong nghề tằm tơ có
công đoạn cho tằm lên né. Người ta đan những thanh tre, nứa thành phên có
chân đứng tựa như tấm liếp, tạo ra những ô trống hình vuông để cài rơm vào
cho tằm làm kén, gọi là cái né. Những thanh tre, thanh nứa dùng để đan né
được gọi là hom. Tằm chín được thả trên né để tùy ý chọn nơi nhả tơ kết kén.
Nếu kén trên né to, mật độ lại dày (già kén) thì sẽ kẹt vào hom, khó gỡ (kẹn
hom).
Già kén, kẹn hom vốn
nghĩa cũng như lứa tằm lên nong bị già kẹn vào các thanh tre; với thanh niên
nam, nữ, nếu ai đó kén chọn quá để “quá lứa” rối rắm giữa các thang giá trị
thì không tránh khỏi cảnh lỡ làng, ế ẩm. Như vậy từ câu chuyện con tằm kén tơ
mà ông bà ta đã liên hệ đến chuyện tình duyên trai, gái như cách giải thích
của GS Nguyễn Lân, học giả An Chi... là có cơ sở và đáng tin cậy hơn cả.
***
XVII. NGHỀ NUÔI TẰM
|
Tằm làm kén trên hom, ảnh minh họa, Google |
Nuôi tằm là một nghề căn bản của nước ta và là nghề của đàn bà.
Các nơi có bãi trồng dâu, nuôi tằm nhiều hơn các nơi khác.
Cách nuôi tằm, trước hết mua trứng ngài treo để chỗ mát cho nó
nở ra các con sâu nho nhỏ rồi bỏ vào nong, lấy lá dâu thái thật nhỏ như sợi
thuốc lào rắc vào nong cho nó ăn. Mỗi ngày phải cho ăn độ ba mươi sáu hoặc
bốn mươi tám lần, ít nhất cũng phải hai mươi sáu lần. Cho ăn như thê độ một
tuần lễ, rồi thái to hoặc đế cả lá mà cho ăn mỗi ngày độ năm sáu lần. Nuôi
cho đến khi thấy con tằm vàng ánh bụng ra thì bắt nó lên né cho nó kéo tơ làm
tổ, gọi là quả kéo.
Cứ hai mươi bốn ngày hoặc một tháng thì được một lứa tằm. Nhà
thường thường mỗi lứa nuôi vài chục nong, nhà giầu nuôi đến hằng trăm nong.
Nuôi tằm phải làm một phòng riêng hoặc phải làm riêng một cái
nhà. Nền nhà phải cao cho khỏi ẩm thấp. Nhà phải kín và bốn mặt đều phải có
cửa, thường thường phải mở cửa cho thông khí. Trời nóng phải mở cho mát, trời
rét phải đóng cho ấm.'
Phải giữ gìn đừng cho ruồi nhặng đậu vào con tằm. Nếu để ruồi
nhặng đậu vào thì sinh ra bọ mà hại kén về sau. Lại phải giữ chuột vì chuột
hay ăn tằm lắm.
Nuôi tằm kiêng nhất là hơi người chết. Nếu phạm phải hơi ấy thì
tằm giã nước mồm ra, ăn kém không kéo được tơ mà làm thành kén nữa.
Lại kỵ nhất là gió tây. Hễ mùa bức động có gió tây thì tằm chết
nhiều, nên phải che kín chiều gió ấy mà mở cửa khác cho mát.
Lại thường phải xem xét tằm tốt hay xấu, nêu con nào xấu thì
nhặt bỏ đi, hoặc xấu cả nong thì đổ cả đi, kẻo nuôi tằm xấu hại lá dâu mà
không ích gì, lại uổng công nữa.
Khi tằm chín bắt lên né phải đem phơi qua nắng để nó làm tổ cho
chóng.
Thành kén rồi, trong ba ngày phải ươm ngay. Nếu muốn để lâu thì
phải sấy kén cho con nhộng ở trong quả kén chết đi, kẻo để nó thành ngài cắn
quả kén thì hỏng cả tơ.
Nhà nuôi tằm thường người già trẻ đều vất vả. Nào người hái dâu
nào người thái lá, nào người săn sóc chăn nuôi. Nhất là khi tằm ăn rỗi lại
càng phải chăm chỉ lắm.
Nuôi tằm cũng nhiều lợi lắm. Ai được luôn dăm lứa tằm có thể làm
giàu ngay được. Nhưng, không khéo mà để hỏng vài lứa thì cũng thiệt hại
nhiều.
Còn như cách ươm tơ của ta khi trước thì cũng còn vụng nhiều,
làm cho tơ nhiều đầu mối mà không được thành sợi. Từ khi có trường canh nông
dạy ươm theo cách cẩn thận thì tơ đã tốt hơn khi trước.
Cách ươm:
,
Người đàn bà ươm tơ phải xem nước trong nồi ươm nóng vừa độ, đê
cho sợi tơ kéo khỏi đứt.
Bỏ kén vào nồi ươm phải bỏ từng ít một, lấy đũa nhào đi nhào lại
đê lấy sợi gốc ra cho được thanh và đều nhau thì bán càng được nhiều tiền.
Khi lấy gần hết gốc thì bỏ đũa ra mà kéo bằng tay cho đến khi ra
hẳn sợi tơ. Đừng kéo lấy gốc nhiều quá mà hao tơ.
Kén phải bỏ vào nồi cho đều, đừng có khi nhiều khi ít. Mỗi bàn
ươm thì ươm hai mối. Muốn cho tơ dễ kéo và dễ bán thì cho bảy con kén làm một
sợi.
Những người ươm tơ phải có ý tứ giữ mực, lúc nào cũng bảy con
kén, ngộ có sợi nào đứt thì phải nối ngay, mà khi có nhiều con kén hết một
lúc cho kén mới vào thay thì để tám con mà thôi chớ nên cho nhiều quá.
Cái cần để bắt chéo mối tơ lại thì phải cho dài thì tơ mới tròn
mà săn sợi, tơ có chỗ đầu mấu nào thì khi đi qua chỗ bắt chéo ấy phải đứt
ngay, mà mình dễ trông thấy để nhặt nó đi:
Còn người quay tơ thì thường thường dùng trẻ con quay cũng được,
quí hồ quay cho đều, mà quay mau hay chậm thì tùy người ươm bảo. Lúc nào sợi
tơ đứt ra thì người quay tơ phải tìm mốii đứt ở các gàng để cho người ươm
quấn mối ấy lên cần mà nối lại cho liền, đừng để thừa mối ra.
Mỗi lúc bỏ kén vào quay để lấy gốc ra thì phải dùng lò ươm cho
đều lửa.
Khi nào con tơ đã to độ 40, 50 grammes thì đầu mối phải quấn
vào, buộc lại cho dễ tìm rồi đem nguyên cái gàng phơi ra chỗ có gió mà không
có bụi cho được chóng khô và sạch sẽ. Khô rồi tháo ra mà để vào chỗ kín đừng
để cho ẩm ướt.
Nghề nuôi tằm và nghề làm ruộng đều là nghề nghiệp căn bản rất
hệ trọng cho việc sinh nhai và lại rất khó nhọc hơn cả mọi nghề, nước nào thì
cũng phải trọng hai nghề ấy làm cốt. Nước Tàu và nước ta, nhà vua cũng phải
có ruộng tịch điền, có nhà tầm thất, vua thì phải thân canh, bà hoàng hậu thì
phải chăn tằm đê làm gương cho thiên hạ, cũng là ý trọng nghề căn bản đấy
thôi.
Tiếc cho nước ta, nghề nào cũng cứ theo một lối cổ, không ai
nghĩ được cách biến hóa nào cho mỗi ngày một tấn tới thịnh vượng. Cho nên đồ
hàng tằm của ta, tuy cũng dệt được các thứ tơ lụa mà không bao giờ tôt đẹp
bằng hàng vóc hàng nhiễu của các nước.
Ít nay nhờ có xem xét hết các cách ích lợi trong việc canh tang
thì cũng đã nhiều khi dạy cho ta lấy phép tiện diệu hơn trước. Các nhà canh
nông ta, tưởng nên lưu ý mà học lấy các cách khôn ngoan hơn ấy, thì mới có
thể thịnh vượng được. Còn như cách dệt hàng, cũng nên bỏ lối cũ của ta mà học
theo lối mới hoặc là nhân lối cũ mà cải lương cho thêm tốt đẹp, thì mới có
thể đem ra ngoại quốc mà tranh lấy mối lợi với hoàn cầu.
VIỆT NAM PHONG TỤC - Phan kế Bính (1915)
Thân mến, Ngân Triều
*****
Bài số 37
Gieáng thôi
Hồ Xuân Hương
Ngõ sâu thăm thẳm tới nhà ông, (1)
Giếng
tốt thanh thơi, giếng lạ lùng. (2)
Cầu trắng phau phau đôi ván ghép,
(3)
Nước
trong leo lẻo một dòng thông! (4)
Cỏ
gà lún phún leo quanh mép, (5)
Cá
giếc le te lách giữa dòng. (6)
Giếng
ấy thanh tân ai đã biết? (7)
Đố
ai dám thả nạ ròng ròng. (8)
*Văn bản chữ Nôm:
井* 台
漊 深 瀋 細 茹 家 翁
井* 卒 清 台 井* 𨔍 𨓡
梂 𤽸
抛 抛 堆 版 扱
渃 𤄯 𠖭 𠖭
殳 𣳔 通
𦹯 𪃿 淪 噴
蹽 𨒺 𠰏
𩵜 䱑 離 啤 攊 𡧲 𣳔
井* 意 清 新 埃 㐌 別
妬 埃 噉 且 娜 溶* 溶*
* Chú giải:
Giếng tốt: 漊深
: Giếng sâu.
Thanh thơi: 清台:Trong
và sâu.
lún phún: 淪 噴:trạng thái của
râu, cỏ mọc thưa, ngắn và không đều.
le te: 離啤: nhanh nhảu, lẹ làng.
Thanh tân: 清 新:
trong và mới, tươi trẻ và trinh trắng.
Nạ: 娜: người mẹ. Chờ được nạ, má đã sưng, tục
ngữ.
Ròng ròng: 溶 溶 : Cá lóc con mới
nở (còn ở thời kỳ trứng nước= nhỏ dại), có cha mẹ cá bảo vệ cách nghiêm túc.
Thả nạ dòng dòng: Tục
ngữ có câu: "Dòng dòng theo nạ", nạ nghĩa là mẹ. Cái giếng trong và
sâu kia, ai dám thả vào đấy một đàn "dòng dòng theo nạ"? Ví như người
con gái thanh tân tươi tốt.
(1) (2) Giới
thiệu nơi tọa lạc của giếng thơi.
(3-4) (5-6) Hình ảnh cận cảnh, chi tiết của giếng
thơi: Cầu rất trắng bằng đôi ván ghép lại, nước rất trong,
cỏ gà leo quanh, cá giếc giữa dòng.
(7-8) Giếng tốt-Ai dám thả cá lóc mẹ để nó làm mẹ những cá lóc con
(ròng
ròng); nạ: từ cổ là mẹ. Hình ảnh giếng thơi, tu từ hoán dụ về người
con gái thanh tân trinh trắng, song đố ai dám cầu hôn cô (vì cô rất xinh đẹp).
Đàn ông nông nổi giếng
thơi,
Đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu
Ca
dao
*Note: Trước hết xin được
làm rõ từ GIẾNG THƠI. Nhiều người hay nói là GIẾNG KHƠI, nhưng thực ra cái giếng
ngày xưa có đường kính khoảng 1 mét được các cụ gọi là giếng thơi.
Câu này ám chỉ người phụ nữ
thua kém rất nhiều so với nam giới. Do tư tưởng trọng nam khinh nữ nên phụ nữ
ngày xưa không được đi học và bị đối xử bất bình đẳng. Đàn
ông có nông cạn thì cũng sâu bằng cái giếng thơi (trung bình khoảng 8m).
Đàn bà có sâu sắc thì cũng chỉ sâu bằng cái ống đựng trầu (5cm).
Ấy vậy mà bà Đoàn Thị Điểm
khi Trạng Quỳnh đòi vào tắm chung đã ra một vế đối làm cho Trạng phải bó chiếu
(Da trắng vỗ bì bạch).
Còn nữ sĩ Hồ Xuân Hương
khi bị một viên quan võ cứ nhăn nhở đòi bà phải làm một bài thơ ca ngợi hắn
thì bà đã tặng hắn bài thơ sau:
Bác mẹ sinh ra vốn chẳng hèn
Đêm không có mắt sáng hơn đèn
Đầu đội mũ da loe chóp đỏ
Lưng đeo bị đạn rủ thao đen.
Ngày nay khác lắm rồi. Nhiều
chị em là những nhà khoa học giỏi, là chủ doanh nghiệp, bác sĩ, kĩ sư, cô
giáo... Những chị em là công nhân, tiểu thương... cũng đảm đang, tài giỏi
không thua gì các đấng mày râu.
Còn về sự sâu sắc ư ? Nhiều
ông tan sở, tan trường, tạt ngang, tạt ngửa, xơi phở, ăn nem... xong rùi cẩn
thận xóa hết dấu vết. Vậy mừ khi về tới nhà, chị xã chỉ cần đưa mắt quét một
lượt là chú mày thòi lòi ra cái đuôi ăn vụng, thế mới xuya, hihihi...
Vậy thì câu
ĐÀN ÔNG NÔNG NỔI GIẾNG THƠI,
ĐÀN BÀ SÂU SẮC NHƯ CƠI ĐỰNG
TRẦU
có còn thực tế nữa hay
không? Rất mong được sự góp ý của các bạn.
Xin trân trọng cảm ơn
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét