Quỳnh Hải nguyên tiêu/ Nguyễn Du
瓊海元宵 / 阮 攸
• Rằm tháng riêng ở Quỳnh Hải
I /- Vài nét về tác giả:
Nguyễn Du
Bách khoa toàn thư mở
Wikipedia
Tượng đài cụ Nguyễn
Du
|
hiệu Thanh
Hiên (清軒),
biệt hiệu Hồng Sơn
lạp hộ (鴻山獵戶), Nam Hải điếu đồ (南海釣屠),
là một nhà thơ nổi tiếng, nhà văn hóa lớn thời Lê mạt,
Nguyễn sơ ở Việt
Nam, Danh nhân văn hoá thế giới. Ông được người Việt kính trọng tôn xưng là " Đại thi hào dân tộc".
Tác phẩm
"Truyện Kiều" của ông được xem là một kiệt tác văn
học, một trong những thành tựu tiêu
biểu nhất trong văn học Việt Nam.
Tiểu sử
Theo một
bản gia phả của dòng họ Nguyễn ở làng Nghi Xuân, Nguyễn Du sinh ngày 23
tháng 11 năm Ất
Dậu (tức ngày 3
tháng 1 năm 1766) tại phường Bích Câu, Thăng
Long.
Cha là Nguyễn
Nghiễm (1708 - 1775), sinh ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh, tên
tự Hy Tư, hiệu Nghị Hiên,
có biệt hiệu là Hồng Ngự cư sĩ đậu Nhị giáp tiến
sĩ, làm quan đến chức Đại tư đồ (Tể
tướng), tước Xuân Quận công.
Mẹ là bà Trần Thị Tần [1] (24 tháng 8 năm 1740 - 27 tháng 8 năm 1778), con gái một
người làm chức câu kế. Bà Tần quê ở làng Hoa Thiều, xã Minh Đạo, huyện Tiên Du
(Đông Ngàn), xứ Kinh
Bắc, nay thuộc tỉnh Bắc
Ninh. Bà Tần là vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm (kém chồng 32 tuổi sinh được năm con, bốn trai và một
gái).[2][3]
Tổ tiên của
Nguyễn Du có nguồn gốc từ làng Canh Hoạch, huyện Thanh
Oai, trấn Sơn Nam(nay thuộc Hà
Nội), sau di cư vào Hà
Tĩnh, có truyền thống khoa hoạn nổi
danh ở làng Tiên Điền về thời Lê mạt. Trước
ông, sáu bảy thế hệ viễn tổ đã từng đỗ đạt làm quan.
Năm Đinh
Hợi (1767), khi
Nguyễn Du mới một tuổi, Nguyễn Nghiễm được thăng Thái tử Thái bảo, hàm tòng nhất phẩm, tước
Xuân Quận công nên Nguyễn Du thời đó sống trong giàu sang phú quý.
Năm Giáp
Ngọ (1774), cha
Nguyễn Du sung chức tả tướng, cùng Hoàng Ngũ Phúc đi đánh chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Từ thời gian này Nguyễn
Du chịu nhiều mất mát:
3.
Năm 1778 (Mậu Tuất) bà Trần Thị Tần,
mẹ Nguyễn Du qua đời. Cũng trong năm này, anh thứ hai của Nguyễn Du là Nguyễn
Điều (sinh năm 1745) được bổ làm Trấn
thủ Hưng Hóa. Mới 13 tuổi, Nguyễn
Du mồ côi cả cha lẫn mẹ nên ông phải ở với người anh khác mẹ là Nguyễn
Khản (hơn ông 31 tuổi)
Năm Canh
Tý (1780), Nguyễn
Khản là anh cả của Nguyễn Du đang làm Trấn thủ Sơn Tây bị khép tội mưu loạn
trong Vụ án năm Canh Tý, bị bãi
chức và bị giam ở nhà Châu Quận công. Lúc này Nguyễn Du được một người thân của
Nguyễn Nghiễm là Đoàn Nguyễn Tuấn đón về Sơn Nam Hạ nuôi ăn học.
Năm Nhâm
Dần (1782), Trịnh
Sâm mất, Kiêu binh phế Trịnh
Cán, lập Trịnh Tông lên ngôi chúa. Hai anh của Nguyễn Du là Nguyễn Khản được
làm Thượng thư bộ
Lại, tước Toản Quận công, Nguyễn
Điều làm Trấn thủ Sơn
Tây.
Năm Quý
Mão (1783) Nguyễn Du thi
Hương ở trường Sơn Nam, đậu Tam trường (Tú tài). Ông lấy vợ là
con gái Đoàn Nguyễn Thục và ông được tập ấm chức Chánh thủ hiệu hiệu quân Hùng
hậu của cha nuôi họ Hà ở Thái Nguyên. Cũng trong năm này anh cùng mẹ của Nguyễn
Du là Nguyễn Đề (sinh 1761) đỗ đầu kỳ thi
Hương ở điện Phụng Thiên, và Nguyễn Khản đầu năm thăng chức
Thiếu Bảo, cuối năm thăng chức Tham tụng.
Năm Giáp
Thìn Tháng
2 năm (1784), kiêu binh nổi dậy đưa hoàng tôn Lê Duy Kỳ lên làm thái
tử. Tư dinh của Nguyễn Khản ở phường Bích Câu, Thăng
Long bị phá, Nguyễn Khản phải trốn lên ở với em là Nguyễn Điều
đang là trấn thủ Sơn
Tây. Đến năm 1786 thì Nguyễn Khản bị mắc bệnh rồi chết ở Thăng
Long.
Năm Kỷ
Hợi (1789) Nguyễn Huệ đại phá quân
Thanh. Đoàn Nguyễn Tuấn hợp tác với Tây Sơn, giữ chức
Thị lang bộ Lại. Lúc này Nguyễn Du về ở quê vợ (Quỳnh Côi, Thái
Bình).
Tháng mười,
năm Tân
Hợi (1791), anh thứ
tư cùng cha khác mẹ với Nguyễn Du là Nguyễn Quýnh do chống Tây Sơn nên bị bắt
và bị giết, dinh cơ họ Nguyễn ở Tiên Điền Hà Tĩnh bị Tây Sơn phá hủy.
Năm Quý
Sửu (1793), Nguyễn
Du về thăm quê Tiên Điền và đến cuối năm ông vào kinh đô Phú Xuân thăm anh là
Nguyễn Đề đang làm thái sử ở viện cơ mật và anh vợ là Đoàn Nguyễn Tuấn.
Năm Giáp
Dần (1794), Nguyễn
Đề được thăng Tả phụng nghi bộ Binh và vào Quy Nhơn giữ chức Hiệp tán nhung vụ.
Đến năm 1795 Nguyễn Đề đi sứ sang Yên Kinh dự lễ nhường ngôi của vua Càn
Long nhà
Thanh, đến năm 1796 trở về được thăng chức Tả đồng nghị Trung thư sảnh.
Mùa đông
năm Bính
Thìn (1796), Nguyễn
Du trốn vào Gia Định theo chúa Nguyễn
Ánh nhưng bị Quận công Nguyễn Thận bắt giam ba tháng ở Nghệ
An. sau khi được tha ông về sống ở
Tiên Điền. Trong thời gian bị giam ông có làm thơ My
trung mạn hứng (Cảm hứng trong
tù)
Mùa thu năm Nhâm
Tuất (1802), Vua Gia
Long diệt nhà Tây Sơn. Nguyễn Du
ra làm quan Tri huyện Phù Dung, phủ Khoái Châu, trấn Sơn Nam (nay thuộc tỉnh Hưng
Yên). Mấy tháng sau thăng tri phủ
Thường Tín, trấn Sơn Nam Thượng (nay thuộc Hà
Nội).
Năm Quý
Hợi (1803), Nguyễn
Du được cử lên ải
Nam Quan tiếp sứ nhà
Thanh sang phong sắc cho vua Gia
Long.
Năm Ất
Sửu (1805) ông được
thăng Đông các đại học sĩ (hàm Ngũ phẩm), tước Du Đức hầu và vào nhậm chức ở
kinh đô Phú Xuân. Năm Đinh
Mão (1807) được cử
làm giám khảo kỳ thi
Hương ở Hải Dương. Mùa thu năm Mậu
Thìn (1808), ông xin
về quê nghỉ.
Năm Quý
Dậu (1813) ông được
thăng Cần chánh điện Đại học sĩ và được cử làm chánh sứ sang nhà
Thanh. Năm 1814 ông đi sứ về, được thăng Hữu tham chi bộ Lễ (hàm Tam
phẩm).
Năm Bính
Tý (1816), anh rể Nguyễn Du là Vũ
Trinh vì liên quan đến vụ án cha con Tổng trấn Nguyễn Văn Thành nên bị đày vào Quảng
Nam.
Năm (Canh
Thìn) 1820 Gia
Long qua đời Minh
Mạng nối ngôi. Lúc này Nguyễn Du được cử đi làm chánh sứ sang nhà
Thanh báo tang và cầu phong nhưng ông bị bệnh dịch chết ngày mồng 10
tháng 8 âm
lịch (16
tháng 9 năm Canh
Thìn (1820) lúc 54
tuổi.
Đại Nam thực lục chép về Nguyễn Du: Du
là người Nghệ An, học rộng giỏi thơ, càng giỏi về Quốc ngữ. Nhưng là người nhút
nhát, mỗi khi ra mắt vua thì sợ sệt không hay nói gì.[5]
Đại
Nam liệt truyện chép: Du
là người ngạo nghễ tự phụ, mà bề ngoài tõ ra kính cẩn, mỗi khi vào yết kiến, sợ
hãi như không nói được.[6] Người đời sau, như ý kiến của các ông Trịnh Vân
Định, Trần Nho Thìn cho đó là một cách khéo léo để giữ toàn mạng và thăng tiến
trong thời loạn, mặc dù trong văn thơ của Nguyễn Du thường đề cao những anh
hùng thời loạn, nhưng ông chọn cách sống khác, cống hiến nhưng "ẩn dật"
trong chốn quan trường.[7]
Tác phẩm
Qua các tác phẩm của Nguyễn Du, nét nổi bật chính là sự
đề cao xúc cảm. Nguyễn Du là nhà thơ có học vấn uyên bác, nắm vững nhiều thể thơ
của Trung Quốc, như: ngũ ngôn cổ thi, ngũ ngôn luật, thất ngôn luật, ca,
hành... nên ở thể thơ nào, ông cũng có bài xuất sắc. Đặc biệt hơn cả là tài làm
thơ bằng chữ
Nôm của ông, mà đỉnh cao là Truyện Kiều, đã cho thấy thể thơ
lục bát có khả năng chuyển tải nội dung tự sự và trữ tình to lớn trong thể loại
truyện thơ.
Chính trên cơ sở này mà trong thơ Nguyễn Du luôn luôn
vang lên âm thanh, bừng lên màu sắc của sự sống, hằn lên những đường nét sắc
cạnh của một bức tranh hiện thực đa dạng. Và giữa những âm thanh, màu sắc,
đường nét vô cùng phong phú đó, Nguyễn Du hiện ra: vừa dạt dào yêu thương, vừa
bừng bừng căm giận. Đây là chỗ đặc sắc và cũng là chỗ tích cực nhất trong
nghệ thuật của Nguyễn Du. Từ thơ chữ Hán đến truyện Kiều, nó tạo nên cái sức
sống kỳ lạ ở hầu hết tác phẩm của ông.[8]
Văn bản
Sáng tác của Nguyễn Du được lưu hành ngay từ lúc ông còn
sống. Tương truyền Truyện Kiều được Phạm Quý Thích nhuận sắc và cho in ở phố Hàng Gai - Hà Nội lúc ấy. Sau
khi Nguyễn Du mất chỉ vài chục năm, vua Tự
Đức từng có sớ cho quan tỉnh Nghệ An thu thập tất cả di cảo
của Nguyễn Du để đưa về kinh. Từ đó đến nay, việc sưu tập, nghiên cứu phổ biến
di sản văn học của Nguyễn Du vẫn còn tiếp tục. Còn có những ý kiến hồ nghi tác
giả một số bài thơ chữ Hán vẫn được coi là của Nguyễn Du. Việc xác định thời
điểm ra đời của các tác phẩm chưa được giải quyết, kể cả thời điểm Nguyễn Du
viết Truyện Kiều. Mặc dù đã mất nhiều công sức, nhưng các ý kiến
trong giới nghiên cứu vẫn còn rất khác nhau.[9]
Tác phẩm bằng chữ
Hán
Những tác phẩm bằng chữ Hán của Nguyễn Du rất nhiều,
nhưng mãi đến năm 1959 mới được ba nhà nho là: Bùi
Kỷ, Phan Võ và Nguyễn Khắc Hanh sưu tầm, phiên dịch, chú thích và giới thiệu tập Thơ chữ Hán Nguyễn Du (Nhà xuất bản Văn hóa, 1959) chỉ gồm có 102 bài. Đến năm
1965 Nhà xuất bản Văn học đã ra Thơ chữ Hán Nguyễn Du tập mới do Lê
Thước và Trương Chính sưu tầm, chú thích, phiên dịch, sắp xếp, gồm 249 bài như
sau:
·
Thanh Hiên thi tập (Tập thơ của Thanh Hiên) gồm 78 bài, viết chủ yếu trong
những năm tháng trước khi làm quan nhà Nguyễn.
·
Nam trung tạp ngâm (Ngâm nga lặt vặt lúc ở miền Nam) gồm 40 bài, viết khi
làm quan ở Huế, Quảng Bình và những địa phương ở phía nam Hà Tĩnh.
·
Bắc hành tạp lục (Ghi chép linh tinh trong chuyến đi sang phương Bắc) gồm
131 bài thơ, viết trong chuyến đi sứ sang Trung Quốc.
Tác phẩm bằng chữ
Nôm
Những tác phẩm bằng chữ Nôm của Nguyễn Du gồm có:
·
Đoạn trường tân
thanh (Tiếng than mới đứt ruột. Tên phổ biến là Truyện Kiều), được viết bằng chữ Nôm, gồm 3.254 câu thơ
theo thể lục bát. Nội dung của truyện
dựa theo tác phẩm Kim Vân Kiều
truyện của Thanh Tâm Tài
Nhân, Trung Quốc. Nội dung chính của
truyện xoay quanh quãng đời lưu lạc sau khi bán mình chuộc cha của Thuý Kiều, nhân vật chính
trong truyện, một cô gái có tài sắc. Về thời điểm sáng tác, Từ
điển văn học (bộ mới) ghi:
"Có thuyết cho rằng Nguyễn Du viết ra sau khi ông đi sứ Trung Quốc (1814-1820), có thuyết cho nói ông viết trước khi đi sứ,
có thể vào khoảng thời gian làm Cai bạ ở Quảng Bình (1804-1809). Thuyết sau được nhiều người chấp nhận
hơn"[10].
·
Văn
chiêu hồn (tức Văn
tế thập loại chúng sinh, dịch nghĩa: Văn tế mười loại chúng sinh), viết bằng thể
thơ song thất lục bát hiện chưa rõ thời điểm sáng tác. Trong văn bản do Đàm
Quang Thiện hiệu chú có dẫn lại ý của ông Trần Thanh Mại trên "Đông Dương tuần báo" năm 1939, thì Nguyễn Du viết
bài văn tế này sau một mùa dịch khủng khiếp làm hằng triệu người chết,
khắp non sông đất nước âm khí nặng nề, và ở khắp các chùa, người ta đều lập đàn
giải thoát để cầu siêu cho hàng triệu linh hồn. Ông Hoàng Xuân Hãncho rằng có lẽ Nguyễn
Du viết Văn chiêu hồn trước
cả Truyện Kiều, khi ông còn làm
cai bạ ở Quảng Bình (1802-1812). Tác phẩm được làm theo thể song
thất lục bát, gồm 184 câu thơ chữ Nôm.
·
Thác lời trai phường nón, 48 câu, được viết
bằng thể lục bát. Nội dung là thay lời anh con trai phường nón làm thơ tỏ tình
với cô gái phường vải.
·
Văn tế sống Trường Lưu nhị nữ, 98 câu, viết theo
lối văn tế, để bày tỏ nỗi uất
hận vì mối tình với hai cô gái phường vải khác.[9]
Đánh giá
Trước năm 1930
Trong quãng thời gian hơn một
trăm năm này, người bình luận các tác phẩm của Nguyễn Du là các nhà nho. Ở thế
kỷ XIX, các nhà nho thường qua những bài thơ vịnh, những bài tựa mà bộc lộ cách
nhìn, chính kiến của mình với tác phẩm. Sang thế kỷ XX, các nhà nho lại phát
biểu bằng những bài văn chính luận. Nhưng bình luận ở giai đoạn nào họ cũng đều
chia làm hai dòng khen và chê. Tuy nhiên, dù khen hay chê thì tất cả họ đều
đánh giá cao nghệ thuật văn chương của Nguyễn Du.
Từ 1930 đến 1945
Nghiên cứu phê bình văn học thời
gian này đã thành một bộ môn riêng biệt, mang ý nghĩa hiện đại. Các tác phẩm
của Nguyễn Du trong giới nghiên cứu, phê bình thấy rõ ba khuynh hướng sau:
Từ 1945 đến 1975
Trong giai đoạn chia đôi đất nước
này, tại miền Bắc, việc nghiên cứu các tác phẩm của Nguyễn Du trong quan hệ với hiện thực đời sống xã hội theo quan điểm mỹ học mácxít. Tác phẩm văn học được nhìn nhận như là sự phản ánh đời
sống xã hội và bộc lộ thái độ của nhà văn đối với hiện thực đó. Hai công trình
theo hướng này xuất hiện sớm và đáng chú ý hơn cả là cuốn: Quyền
sống của con người trong "Truyện Kiều" của Hoài
Thanh (1949) và bài báoĐặc
sắc của văn học cổ điển Việt Nam qua nội dung "Truyện Kiều" của Đặng Thai Mai(1955). Vấn
đề tinh thần nhân đạo và tính hiện thực của "Truyện Kiều" được hai
tác giả chú ý đặc biệt và coi là giá trị cơ bản của tác phẩm.
Ở miền Nam, thời kỳ 1954 - 1975
cũng có nhiều người để tâm phê bình nghiên cứu các tác phẩm của Nguyễn Du. Dịp
kỷ niệm 200 năm năm sinh Nguyễn Du trên các tập san Văn (số 43, 44) và Bách
khoa thời đại (số 209)
nhiều bài phê bình được công bố. Trước đó, năm 1960 có cuốn Chân
dung Nguyễn Du tập hợp một
loạt bài viết về Nguyễn Du của nhiều tác giả. Trước sau năm 1970 cũng thấy một
số công trình khá công phu của Phạm Thế Ngũ,Đặng Tiến, Nguyễn Đăng Thục...
Từ 1980 đến nay
Trong giai đoạn này, cac tác phẩm của Nguyễn Du được tiếp
cận bởi nhiều phương pháp mới: phong cách học, thi pháp học, ký hiệu học... Đã
xuất hiện một số công trình đáng chú ý của Phan
Ngọc, Trần Đình Sử, Đỗ Đức Hiểu...
Nhìn chung các tác giả đều cố gắng khách quan hóa việc
phân tích tác phẩm, muốn làm cho các kết kuận của mình là hiển nhiên,
"không còn tranh cãi". Tuy vậy mọi việc không đơn giản, các ý kiến
vẫn cứ rất xa nhau, điều đó có nghĩa là những cuộc tranh luận sẽ vẫn tiếp diễn
và như vậy nghiên cứu, phê bình về các tác phẩm của Nguyễn Du sẽ tiếp tục tiến
triển.
Sáng tác của Nguyễn Du không thật đồ sộ về khối lượng,
nhưng có vị trí đặc biệt quan trọng trong di sản văn học và văn hóa dân tộc.
Hơn nữa nó lại rất năng sản. Từ Truyện Kiều đã nảy sinh biết bao những hình thức sáng tạo văn học và
văn hóa khác nhau: thơ ca về Kiều, các phóng tác Truyện Kiều bằng văn học, sân khấu, điện ảnh; rồi rất nhiều những
dạng thức của nghệ thuật dân gian: đố Kiều, giảng Kiều, lẩy Kiều, bói Kiều...
Đặc biệt là số lượng rất lớn những bài bình luận, những công trình phê bình,
nghiên cứu.
Tưởng niệm
Ngày 17/11/2015, tại Hà
Nội, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, UBND tỉnh Hà
Tĩnh đã tổ chức họp báo giới thiệu về các hoạt động kỷ niệm
250 năm ngày sinh của ông. Lễ kỷ niệm cấp quốc gia 250 năm sinh Đại thi hào
Nguyễn Du (1765-2015) diễn ra ngày 05/12/2015 tại thành phố Hà Tĩnh, tỉnh Hà
Tĩnh.[11] với chương trình nghệ thuật “Tiếng thơ ai động đất trời”
do Cục Nghệ thuật biểu diễn, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch chỉ đạo và Nhà
hát Nghệ thuật đương đại Việt Nam thực hiện với sự tham gia của gần 650 nghệ sỹ[12]
Lễ kỷ niệm có các huỗi hoạt động chính: Tổ chức các hội
thảo khoa học trong nước và quốc tế; xuất bản Truyện Kiều, các tác
phẩm của Nguyễn Du ra nhiều thứ tiếng khác nhau; xây dựng phim tư liệu, các tác
phẩm âm nhạc, hội họa… về thời đại, cuộc đời, sự nghiệp, tác phẩm của Nguyễn Du
và dòng họ Nguyễn Tiên Điền; tổ chức các cuộc thi tìm hiểu, thi ngâm Kiều, lẩy Kiều, bình
Kiều, diễn trò Kiều, nói chuyện về
tác phẩm của Nguyễn Du; tổ chức các hoạt động hưởng ứng kỷ niệm tại Thủ đô Hà
Nội là nơi sinh và tại tỉnh Bắc
Ninh (quê mẹ của ông); tuần Văn hóa, Du lịch Nguyễn Du, bắt
đầu từ ngày 28/11 đến 05/12/2015 tại Hà
Tĩnh.
Bên cạnh đó, từ 17/11 đến 25/11/2015 tại Thư
viện Khoa học tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh diễn ra Tuần triển lãm về Nguyễn Du do Thư
viện Khoa học tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh và Công ty Cổ phần Văn hóa và Truyền
thông Nhã Nam tổ chức. Triển
lãm quy tụ tương đối đầy đủ các ấn bản bằng chữ Quốc
ngữ, chữ
Hán, chữ
Nôm những sáng tác của Nguyễn Du cũng như các công trình
nghiên cứu, biên khảo, chú thích về Nguyễn Du của nhiều lớp học giả. Điểm nhấn
của triển lãm là những bản Nôm gốc như bản in Kim Vân Kiều tân tập(năm Bính
Ngọ, niên hiệu Thành
Thái - 1906), bản chép tay Kim Vân Kiều thích chú (Kỷ
Mão1879). Ngoài ra, còn có 20 bức thư
pháp của các thành viên Chi hội Thư pháp (Hội
Văn học Nghệ thuật các dân tộc thiểu số Thành phố Hồ Chí Minh) cũng sẽ được trưng bày với nội dung là những trích đoạn
các sáng tác của Nguyễn Du (Truyện Kiều, Văn tế thập loại chúng sinh…).[13]
Chú thích
1. ^ Theo "Tuyển tập Trương Chính" Nhà xuất bản Văn
học 1997. Bà Tần là vợ trắc thất hàng thứ ba, bà sinh ngày mồng 6 tháng 7 năm
Canh Thân, niên hiệu Cảnh Hưng. Bà lấy chồng năm 16 tuổi, năm 17 tuổi bà sinh
con đầu lòng là Nguyễn Trụ (1757), sau bà còn có năm bà khác nữa
5. ^ Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập 2, Nhà
xuất bản Giáo dục, 2007, tr. 82-83. Dẫn lại tại [1]
6. ^ Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam liệt truyện, tập 2,
Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế, 1997, tr. 357. Dẫn lại tại [2]
7. ^ Trịnh Văn Định, Những
cách thế lựa chọn của kẻ sĩ tinh hoa trong lịch sử,
Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Tập 29, số 2 (2013), trang 10-18
(Theo Wikipedia)
II/- Hoàn cảnh
sáng tác bài thơ:
Quỳnh Hải Nguyên Tiêu là bài thơ mở đầu cuốn thơ chữ Hán Thanh
Hiên Tiền Hậu Tập của Nguyễn Du. Cuốn này thi hào bắt đầu viết khi đi lánh nạn,
trong suốt thời gian mười năm gió bụi (1786-1796) qua tới 1804. Có điều bài thơ
đầu tiên lại không phải là bài sáng tác trước tiên, mà có sau những bài như Sơn
Cư Mạn Hứng, Tự Thán, Khất Thực...có trong cuốn này, cũng như những tác phẩm
được viết từ khi còn trẻ, nổi tiếng là một trong "ngũ tuyệt", rât
đáng tiếc đã mất hết trong chiến tranh.
Ngũ tuyệt là tên 5 nhà thơ của nền văn học chữ Nôm, được tôn tụng là “An Nam ngũ tuyệt”là:
·
Nguyễn Hành
(1771-1824) được người đời đánh giá là một trong An Nam Ngũ Tuyệt, năm nhà thơ
lớn tuyệt diệu Việt Nam trong thời đại cùng với chú ông là Đại thi hào
·
Nguyễn Du (1766-1820) tác
giả Đoạn Trường Tân Thanh.
Ba người còn lại không ai khác hơn là:
·
Nguyễn Huy Tự (1743-1790) tác
giả truyện thơ Hoa Tiên bằng thơ lục bát, con Thám Hoa Nguyễn Huy Oánh,
con rễ Thượng Thư Bộ Lại Nguyễn Khản.
·
Phan Huy Ích(1750-1822) tác
giả bản diễn ca thơ nôm Chinh Phụ Ngâm khúc và Dụ Am Ngâm lục. Địa vị và tài
năng của hai tác giả này, văn học đã dành một chổ đứng xứng đáng. Còn người thứ
ba là
·
Ngô Thời Vị (1774-1821) em
út Ngô Thời Nhậm, một trong những tác giả Ngô gia văn phái : Hoàng Lê Nhất
Thống Chí và tác giả Mai dịch tu dư và Thành phủ công thi văn, được vua Gia
Long trọng dụng ngang hàng với Nguyễn Du: hai lần đi sứ, lần cuối cùng thay
Nguyễn Du mất năm 1820 làm Chánh Sứ, nhưng ông lại mất trên đường đi sứ
về đến Quảng Tây năm 1821. .
Ngô Thời Vị có
mặt trong nhiều giai đoạn lịch sử của Hoàng Lê Nhất Thống Chí, những đối thoại
của Nguyễn Huệ trong triều vua Lê, ông là người chứng kiến và chép sử, khác với
ông anh cả Ngô Thời Nhậm phải lận đận, bận rộn trong công việc triều chính, Ngô
Thời Vị là người có khoảng cách để quan sát, ghi chép và đủ tài năng để khởi
thảo một tác phẩm văn xuôi độc đáo nhất nước ta. Tầm vóc Ngô Thời Vị đương thời
sánh ngang với Nguyễn Du. Thơ chữ Hán ông rất độc đáo.
Trước Hoàng Hạc Lâu,
thi hào Lý Bạch phải thốt lên :Trước
mắt có cảnh không tả được, vì thơ Thôi Hiệu ở trong đầu. Bài thơ Hoàng
Hạc Lâu của Thôi Hiệu tuyệt tác thi hào Lý Bạch phải bí tứ thơ. Ngô Thời
Vị hiên ngang xưng danh : Sứ thần nước Việt Ngô Thời Vị, Phóng bút
đề thơ viếng cảnh này.
Mọi người tôn sùng
Quách Cự trong Nhị Thập Tứ Hiếu của Lê Văn Phức, vì mẹ già chôn con, thì Ngô
Thời Vị kết án:
Ngũ luân nào phải nhất luân,
Mẹ già, con trẻ đồng cân rõ ràng.
Lưỡng toàn ví chẳng đảm đương.
Nghèo thêm một miệng nuôi
thường đáng bao ?
Cự kia, hiếu nặng thế nào,
Giết con chẳng khác cầm dao
giết mình.
Cự kia, lòng tệ sao đành.
Dù thông đạo hiếu, chưa rành
đạo nhân.
Hoàng kim ví chẳng được phần,
Tránh sao một tội bại luân
thường rồi ?
(Tham Tuyền dịch).
Lý luận Ngô Thời Vị thật chửng
chạc đanh thép, khác lối hùa theo ngợi khen của người đời thật là một
trong năm ngũ tuyệt. Thời học Trung Học, học Nhị Thập Tứ Hiếu, đến tên Quách
Cự, tôi thấy tức tối, vì hiếu với mẹ mà nỡ chôn con, tên giết người vô luân kia
thế cũng được gọi là hiếu, nay đọc được thơ Ngô Thời Vị thật mát gan mát ruột.
Có lẽ những tài năng
lớn như Nguyễn Hành, như Ngô Thời Vị đã bị đời sau quên lãng!!!
Năm
nhà thơ lớn, thuộc bốn dòng họ văn học danh tiếng Việt Nam : Nguyễn Tiên Điền,( Nguyễn Du, Nguyễn
Hành); Nguyễn Trường Lưu,(Nguyễn Huy
Tự); họ Phan Huy (Phan Huy Ích, làng
Thu Hoạch huyện Thiên Lộc Hà Tĩnh, và họ Ngô
Thời, ( Ngô Thời Vị), quê Tả Thanh Oai (làng Tó), Hà Đông nay thuộc Hà Nội.
Sau
khi rời kinh thành Thăng Long khói lửa, thất lạc gia đình, Nguyễn Du lang thang
giang hồ nghèo khổ một thời gian, rồi về Thăng Long gập lại anh Nguyễn Nễ đang
làm quan cho triều đình Tây Sơn (bài thơ Long thành Cầm giả ca). Khi Nguyễn Nễ
vào Phú Xuân theo công vụ vào năm 1793, Nguyễn Du không nơi nương tựa, tới sống
"gửi rể " nơi gia đình vợ ở Quỳnh Côi cho tới năm 1796. Gia đình này
có tiếng văn học với anh vợ là tiến sĩ Đoàn Nguyễn Tuấn, từng làm Phó sứ sang
Trung Hoa năm 1789 (cùng sứ đoàn với Nguyễn Nễ), bố vợ là cố hoàng giáp Đoàn
Nguyễn Thục, ngự sử triều Lê (đã mất).
Chúng ta hãy thưởng
thức Quỳnh Hải Nguyên Tiêu, bài thơ có giá trị văn chương rất cao dưới đây của
đại thi hào Nguyễn Du. Người em-rể-mới chào Trăng rằm tháng giêng ở quê vợ
Quỳnh Hải, để ra mắt bạn bè, họ hàng bên vợ; giới thiệu đôi điều về văn chương
của mình với hoàn cảnh, tâm sự, mối tình riêng của mình đối với " nàng
trăng ":
瓊海元宵
阮 攸
Quỳnh Hải Nguyên Tiêu
Nguyên dạ không
đình nguyệt mãn thiên,
Y y bất cải cựu thuyền quyên.
Nhất thiên Xuân hứng, thùy gia lạc?
Vạn lý Quỳnh Châu thử dạ viên?
Hồng Lĩnh vô
gia huynh
đệ tán,
Bạch đầu đa hận tuế thời thiên.
Cùng đồ liên nhữ dao tương kiến,
Hải giác thiên nhai tam thập niên.
Nguyễn Du
Chú giải:
Quỳnh Hải Nguyên Tiêu/
Nguyễn Du:
Đêm rằm
tháng Giêng ở Quỳnh Hải.
Quỳnh Hải tức Quỳnh
Châu thuộc trấn Sơn Nam xưa, nay là huyện Quỳnh Côi, tỉnh Thái Bình, quê vợ của
Nguyễn Du. Năm 1786, sau khi Nguyễn Khản, anh trai một cha khác mẹ của ông từ
trần, Nguyễn Du lánh nạn về Quỳnh Côi, ở nhà anh vợ là Đoàn Nguyễn Tuấn ở xã Hải An (lúc này Lê
Chiêu Thống chưa chạy sang Trung Quốc).
Nguyên dạ: 元夜, đêm rằm tháng Giêng.
không đình: 空庭, sân vắng vẻ.
nguyệt mãn thiên: 月滿天, ánh trăng sáng vằng vặc đầy trời.
thuyền quyên:
嬋娟, dáng vẻ xinh đẹp, dễ thương về người và vật; thường dùng để chỉ những nét khả ái của người
con gái. Ở đây chỉ mặt trăng.
Nhất thiên Xuân
hứng:
一天春興, một trời Xuân
thú vị, tuyệt vời.
thùy gia lạc: 誰家落, (ai, nhà, rơi), đổ xuống, rơi ngập tràn vào nhà ai.
thùy gia lạc: 誰家落, (ai, nhà, rơi), đổ xuống, rơi ngập tràn vào nhà ai.
Hồng Lĩnh vô gia: 鴻嶺無家, ở tại Hồng Lĩnh, (tên núi ở Hà Tỉnh, sinh quán của Nguyễn
Du), không có nhà cửa nữa, vì qua các biến cố lịch sử bấy giờ, nhà cửa của ông
đều bị phá sạch, đốt sạch.
huynh đệ tán:
兄弟散, anh em chia lìa, ly tán, mỗi người một
phương trời. (Thân phụ Nguyễn Du là Nguyễn Nghiễm đỗ tiến sĩ, làm quan,
có 8 vợ và 21 con (12 con trai). Con cả là Nguyễn Khản làm tham tụng thời Chúa
Trịnh, kế đến là Nguyễn Điều làm đốc trấn Sơn Tây. Người anh cùng mẹ là Nguyễn
Nễ làm quan cho Tây Sơn. Người anh khác mẹ là Nguyễn Quýnh âm mưu kết nghĩa chống
lại nhà Tây Sơn, bị bắt không chịu phục, nên bị giết. Dinh cơ của họ Nguyễn
cùng nhà cửa của Nguyễn Quýnh đều bị phá sạch. Anh em Nguyễn Du chạy lánh nạn mỗi
người mỗi nơi, chỉ còn người em khác mẹ là Nguyễn Nhưng).
tuế thời thiên: 歲時遷, (năm tháng, tuổi
tác; thì; trôi qua, đổi thay) , năm tháng trôi qua; tiếc nuối cho hoàn cảnh
không thể làm gì được, cứ để cho năm
tháng trôi qua trong vô vọng.
Câu này có người giải thích là:
"Ở nơi góc
bể chân trời ba mươi năm."
Giải nghĩa như thế e rằng chưa đúng, vì Nguyễn Du
lúc chạy đến Quỳnh Côi lánh nạn, tuổi mới trên đôi mươi (sinh năm 1765, đậu tam
trường năm 1784, chạy giặc năm 1786, 21
tuổi). Và lênh đênh nơi quê vợ chỉ trên dưới mười năm. Như vậy phải hiểu,
khi ấy, tác giả đang ở "tuổi ba mươi" mới hợp lý).
Dịch nghĩa
Đêm rằm tháng giêng, sân vắng, ánh trăng
sáng vằng vặc đầy trời.
Khuôn trăng như nét đẹp của người con gái ấy, vẫn hệt như xưa, không hề thay đổi.
Khuôn trăng như nét đẹp của người con gái ấy, vẫn hệt như xưa, không hề thay đổi.
Một trời Xuân tuyệt vời đêm nay, không
biết tuôn tràn xuống nhà ai?
Ở nơi Quỳnh Châu xa xôi nầy, mấy ai được thưởng
thức một đêm trăng đẹp như thế?
(Còn ở quê nhà Hồng
Lĩnh), cửa nhà tan tác, không còn nhà, anh em ly tán, phiêu bạt cả, (mỗi người
một phương trời).
Đầu
đã bạc, trải qua biết bao nỗi bực dọc, buồn phiền, trong khi thời gian thì ngày
lụn tháng qua, ảm đạm trôi nhanh.
Đường
cùng rồi, thương cảm biết bao, vầng trăng xưa vẫn còn đoái thương đến ta, cho dẫu
xa xôi ngăn cách, mà trăng và ta cũng
còn có cơ hội lặng lẽ nhìn nhau.
(Vậy
là), nơi góc biển chân trời phiêu bạt, có một người cô lữ, ngổn ngang sầu tư
trăm mối bên lòng, vò tơ đòi đoạn, khi tuổi đời chỉ mới ba mươi.
Rằm tháng Giêng ở
Quỳnh Hải
Rằm Giêng lồng lộng khắp trời,
Trăng như người
cũ, tuyệt vời không phai!
Trời Xuân ngập
xuống nhà ai?
Mấy ai tận hưởng trăng này xa xôi?
Mấy ai tận hưởng trăng này xa xôi?
Tan nhà, huynh đệ
chia phôi,
Bạc đầu căm giận
tuổi đời ruỗi mau.
Đường cùng tình
cũ nhìn nhau,
Mới ba mươi tuổi lao đao cuối trời.
Ngân Triều dịch.
III/-Lời bình, Ngân Triều:
Nguyên dạ không đình nguyệt mãn thiên,
Y y bất cải cựu thuyền quyên.
Y y bất cải cựu thuyền quyên.
Rằm Giêng lồng lộng khắp trời,
Trăng như người
cũ, tuyệt vời không phai!
Đêm Rằm tháng Giêng, nguyên dạ, trước sân nhà quạnh vắng. không đình, ánh trăng sáng, tỏ rõ khắp
trời, vằng vặc như ban ngày, nguyệt mãn
thiên.
Khuôn trăng khả
ái ngày xưa, như người tình cũ, cựu thuyền
quyên, vẫn vậy, như không bao giờ thay đổi, y y bất cải.
Cảnh đêm trăng thi vị tuyệt vời! vầng
trăng gần gũi, chan chứa thân thương như người tình cũ, đằm thắm, son sắt, chung
thủy, dịu dàng…
Để rồi tâm tình giải tỏa qua 4 câu thực-luận:
*Thực-luận:
Những tâm tình trăn trở cho người, cho
ta:
Nhất thiên Xuân hứng, thùy gia lạc?
Vạn lý Quỳnh Châu thử dạ viên?
Hồng Lĩnh vô gia huynh đệ tán,
Bạch đầu đa hận tuế thời thiên.
Trời Xuân ngập xuống nhà ai?
Mấy ai tận hưởng trăng này xa xôi?
Vạn lý Quỳnh Châu thử dạ viên?
Hồng Lĩnh vô gia huynh đệ tán,
Bạch đầu đa hận tuế thời thiên.
Trời Xuân ngập xuống nhà ai?
Mấy ai tận hưởng trăng này xa xôi?
Tan nhà, huynh đệ chia phôi,
Bạc đầu căm giận
tuổi đời ruỗi mau.
Một trời Xuân thi vị, hạnh phúc như thế
này, không biết rơi xuống cho nhà ai? Có điều chắc chắn là không phải cho nhà
ta rồi!
Ở nơi xa xôi như Quỳnh Châu nầy, có mấy
ai được thưởng thức một đêm trăng đẹp như thế nầy, thực chính là ta?
(Còn
ở quê nhà Hồng Lĩnh), cửa nhà bị phá sạch, không
còn nhà nữa rồi, vô gia, tổ ấm tan
tác, anh em ly tán, phiêu bạt cả, (mỗi người một phương trời).
Đầu đã bạc, bạch đầu, trải qua biết bao nỗi bực dọc, buồn
phiền, đa hận (trong bất lực), nhìn
ngày tháng lãnh đạm trôi mau, tuế thời thiên
mà thấm thía cuộc đời vô vị.
Về nghệ thuật đối rất chính xác, cân xứng,
không những trong tứ thơ nà còn từ ngữ với từ ngữ:
Hai câu thực: đối trong nhịp thơ 4/3:
Nhất thiên Xuân hứng,/ thùy gia lạc?
Vạn lý Quỳnh Châu,/ thử dạ viên?
(Xin xem lại phần dịch nghĩa, bên trên)
Hai câu luận: sử dụng tá đối, Hồng Lĩnh (địa danh, hồng nghĩa là chim hồng, không phải màu
hồng đối với Bạch đầu là đầu bạc. Tá đối, đối vay mượn như thế là đúng luật và hợp lý.
Tương tự như: hồng 紅
hồng
đối với bạt 㧞 = vung kiếm là tá đối mà hay.(không phải bạc 白 là trắng)
Hỏa hồng Nhật Tảo
oanh thiên địa.
Kiếm bạt Kiên
Giang khấp quỷ thần
火 紅 日 早 轟 天 地
劍 㧞 堅 江 泣 傀 神
(Hai câu đối thờ vị anh hùng Nguyễn Trung Trực, ở Đền Vàm Nhật Tảo, Tân an)
火 紅 日 早 轟 天 地
劍 㧞 堅 江 泣 傀 神
(Hai câu đối thờ vị anh hùng Nguyễn Trung Trực, ở Đền Vàm Nhật Tảo, Tân an)
Nghĩa là: Lửa hồng ở Nhật Tảo nổ rền trời đất, (oanh 轟= nổ rền)
Vung kiếm ở Kiên
Giang, làm cho quỷ thần khiếp kinh (bạt: 㧞, vung kiếm; khấp 泣= khóc).
*Hai câu kết:
Tâm
trạng của tác giả:
Cùng đồ liên nhữ dao tương kiến,
Hải giác thiên nhai tam thập niên.
Đường cùng tình cũ nhìn nhau,
Hải giác thiên nhai tam thập niên.
Đường cùng tình cũ nhìn nhau,
Mới ba mươi tuổi,
lao đao cuối trời.
Ở bước đường cùng rồi, cùng đồ; biết bao thương cảm vì vầng trăng xưa như người tình cũ vẫn hãy còn thương ta, lân nhữ; cho dẫu xa xôi mà trăng và ta
cũng còn có cơ hội ngắm nhìn với nhau, dao
tương kiến. Chỉ nhìn nhau trong đêm trăng sáng này thôi, hay vẫn mãi nhìn
nhau trên suốt những chặng đường đời muôn nẻo sơn khê?
-“Xin anh cứ tưởng bạn anh tuy,
Giam hãm thân trong cảnh nặng nề.
Vẫn để hồn theo người lận đận,
Vẫn hằng trông đếm bước anh đi”
…
Ta muốn lòng ta cứ lạnh lùng,
Gác tình duyên cũ, thẳng đường trông.
Song le hương khói yêu đương vẫn,
Phảng phất còn vương vấn cạnh lòng.
Giây phút chạnh lòng, Thế Lữ.
(Một người “vẫn hằng trông đếm bước anh đi” còn người kia thì “Phảng
phất còn vương vấn cạnh lòng”. Cho hay: Khi đã yêu nhau thì…nghìn
năm hồ dễ đã…ai quên!)
(Thế là), nơi góc biển chân trời, có một
người lưu lạc, chạnh lòng về thân phận mình, lúc tuổi đời chỉ mới ba mươi.
Tóm lại,
Quỳnh Hải Nguyên Tiêu là một bức tranh
hai màu, cảnh – tình, sáng – tối; một giai điệu đứt ruột của một tâm hồn chơi
vơi trên bước đường cùng; một tiếng vọng bi thương của một gia đình tan tác; một tiếng tơ lòng, u ẩn vương vấn tình xưa và
một sự bất lực của một người có lòng tâm huyết, trước những thay đổi của thời
thế dâu bể, đa đoan, bấy giờ.
Hậu Nghĩa ngày
27/04/2016
Thân mến, Ngân Triều.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét