Thứ Sáu, 15 tháng 4, 2016

CHỮ NHO... DỄ HỌC (Bài 9)CÁC BỘ 3 NÉT/ Đỗ Chiêu Đức/ Viễn Phương chia sẻ


 CHỮ NHO... DỄ HỌC (Bài 9)
                   CÁC BỘ 3 NÉT

            广        
                      

1.BỘ XÍCH  :
   XÍCH : là Bước Chân Trái. Cũng có nghĩa là Bước Chậm rãi. XÍCH vừa là Bộ vừa là Chữ. Khi là Bộ, thường đứng bên trái và được gọi là "Song Nhân Bàng 雙人旁 ". Có nghĩa là Bộ gồm có 2 chữ Nhân 人 chồng lên nhau 彳. Ta cũng có chữ XÁCH 亍 là Bước chân phải, nên XÍCH XÁCH 彳亍 : Bước chân trái một cái, bước chân phải một cái là đi Bách Bộ. Ghép XÍCH XÁCH lại với nhau, ta có chữ HÀNH 行 là ĐI. Nghĩa phát sinh của HÀNH là LÀM, như Hành Động...
       Các chữ được ghép bằng bộ XÍCH 彳 thật nhiều, gần 100 chữ, đều có nghĩa liên quan đến đi đứng hoặc đường xá, như chữ....
      VÃNG 往 : là Đi, Lai 來 là Đến. Ta có từ: Khách Vãng Lai 往來.
      VÃNG còn có nghĩa là Qua. Như Dĩ Vãng 已往 là Đã Qua...
      VÃNG NHỰT 往日 : Những ngày tháng đã qua.
      VÃNG NIÊN 往年 : Những năm tháng đã qua.
      VÃNG SỰ 往事 : Những chuyện, sự việc đã qua.
      VÃNG CẢNH 往景 : là Đi đến đâu đó để ngắm cảnh.
      VÃNG SINH 往生 : là Đi tìm cuộc sống mới. Đi đầu Thai.
Ta có thành ngữ :
    " CỔ VÃNG KIM LAI 古往今來 "là Xưa qua Nay đến, có nghĩa là: "Từ xưa đến nay". Một thành ngữ nữa là:
    " DĨ VÃNG BẤT CỨU 已往不究 : là Đã qua rồi không truy cứu nữa, có nghĩa: Chuyện đã qua rồi thì bỏ đi!
      VÃNG VÃNG 往往 : 2 chữ VÃNG đi liền nhau là Phó Từ, có nghĩa:
      Luôn Luôn, Thường Thường, như trong bài Tì Bà Hành của Bạch Cư Dị có câu:
           Xuân giang hoa triều thu nguyệt dạ,    
               春江花朝秋月夜,
           VÃNG VÃNG thủ tửu hoàn độc khuynh.  
                往往取酒還獨傾。
Có nghĩa:
     Trong cảnh đêm trăng trên sông xuân với hoa nở đẹp đẻ nầy,
     Ta THƯỜNG LUÔN lấy rượu ra mà độc ẩm một mình !

                              
2. BÔ XUYÊN    :
    XUYÊN   : là Con Sông, là Bình Nguyên. Phía trên là 2 hình thức của bộ XUYÊN.
    Đây là loại chữ vừa Tượng Hình, vừa Chỉ Sự, theo diễn tiến hình thành của chữ viết như sau:

甲骨文
金文
金文大篆
小篆
繁体隶书
    Hai Vạch hai bên là Hai bên bờ, Vạch giữa tượng trưng cho dòng chảy của con sông, nên XUYÊN là Con SÔNG, như SƠN XUYÊN là Núi Sông, mà nơi những dòng sông chảy qua thường là những cánh đồng nên XUYÊN còn có nghĩa là Bình Nguyên, ta có từ Bình Xuyên là Đồng Bằng. Thành ngữ tiêu biêu cho chữ Xuyên là :
    XUYÊN LƯU BẤT TỨC 川流不息 : là Dòng Sông chảy mãi không ngừng. Câu nầy thường được dán ớ các tiệm làm ăn buôn bán, công ty, vì họ muốn cho business của mình luôn luôn trôi chảy như những dòng sông, không bao giờ ngừng nghỉ.
     Tiêu biểu cho bộ XUYÊN có chữ  CHÂU 州, là những phần đất nổi lên ở giữa sông, theo diễn tiến Chỉ Sự của chữ viết như sau:

甲骨文
金文
金文大篆
小篆
繁体隶书
     Như ta đã biết ở trên...
     Bộ XUYÊN  có 3 vạch như dòng chảy của một con sông. Bây giờ chữ CHÂU 州 lại thêm cho 3 cái Cù Lao ở giữa, nên, CHÂU là phần đất nổi lên ở giữa sông, vì có liên quan đến Nước, nên chữ CHÂU 州  nầy còn được thêm vào 3 Chấm Thuỷ như sau 洲. Hai chữ CHÂU được thông dụng như nhau, nhưng đến nay thì nghiã có khác....
      CHÂU 州 : là Đơn vị hành chánh ngày xưa tương đương với Tỉnh, đứng đầu là Tri Châu 知州. Hiện nay, CHÂU được dùng để dịch các Tiểu Bang của Mỹ, như CALI gọi là GIA CHÂU 加州, TEXAS gọi là ĐỨC CHÂU 德州, Pennsylvania thì gọi là TÂN CHÂU 賓州... Thống Đốc Tiểu Bang  thì gọi là Châu Trưởng 州長.
      Không kể Trung Hoa ngày xưa chia làm Cửu Châu là:  Ký Châu, Duyện Châu, Thanh Châu, Từ Châu, Dương Châu, Kinh Châu, Lương Châu, Ung Châu và Dự Châu. Nước Việt Nam ta cũng chia làm nhiều Châu Quận. Ta hãy đọc lại 2 câu thơ của Nguyễn Văn Cổn, một Thi Sĩ Tiền Chiến, trong bài Nước Tôi như sau :
                 ... Bùi ngùi nhớ bóng Huyền Trân,
                  Hai CHÂU Ô LÝ đổi thân nghìn vàng!

               

      Còn chữ CHÂU có 3 chấm Thuỷ 洲, hiện nay chỉ dùng để chỉ những châu lục lớn như : Á CHÂU 亞洲, ÂU CHÂU 歐洲, PHI CHÂU 非洲, ÚC CHÂU 澳洲 ....

3. BỘ THỐN  :
    THỐN   : là Tấc : Một phần mười của Thước. Thước ở đây là Thước Tàu, khoảng 33.3 cm. Nên Tấc ở đây chỉ khoảng 3.33 cm mà thôi.  THỐN vừa là Bộ vừa là Chữ. Ta thường gặp nhất có từ Thốn Tâm 寸心: là Tấc Lòng. Câu nói nổi tiếng của bộ Thốn là :
         Nhất thốn quang âm nhất thốn Kim,  
                       一寸光陰一寸金,
         Thốn kim nan mãi thốn quang âm!   
                        寸金難買寸光陰 !

                         
                         
                         
Có nghĩa :
        Một tấc thời gian là một tấc vàng, nhưng...
        Tấc vàng khó mà mua được tấc thời gian!
     Tiêu biểu cho Bộ THỐN có chữ...
     TỰ 寺 : là Một Loại Dinh Thự ngày xưa cho các quan viên chuyên trông coi về việc tế tự, lễ nghi cư ngụ, như Thái Thường Tự 太常寺 chẳng hạn. Còn Đại Lý Tự 大理寺 là nơi các quan viên đến nhậm chức và đóng dấu. Còn ...
     TỰ 寺 ngày nay là CHÙA. Tự Miếu 寺廟 là Chùa Miễu, ta thường gọi là Chùa Chiềng, nơi các nhà sư và ni cô tu hành. Trong bài Thất ngôn Tuyệt cú Giang Nam Xuân, nhà thơ Đỗ Mục đã tả 
    Nam triều tứ bách bát thập TỰ,   南朝四百八十寺,
    Đa thiểu lâu đài yên vũ trung!     多少楼台烟雨中.
Có nghĩa :
      Bốn trăm tám chục ngôi chùa của Nam Triều,
      Có một số đã chìm trong sương khói mưa bụi mịt mù!


                        
4. BỘ ĐẠI   :
    ĐẠI  : là LỚN, Vừa là Bộ vừa là Chữ, vừa Tượng Hình vừa Chỉ Sự. Hình của một người đứng dang hai tay ra để chỉ sự to lớn, nên ĐẠI : Vừa chỉ Lớn về Thể chất, vừa chỉ Lớn về Bản chất, Vừa chỉ Lớn về Thể Xác, vừa chỉ Lớn về Tinh Thần, như...
     NHƠN ĐẠI 人大 : là Người Lớn Xác, người Cao to.
     ĐẠI NHƠN 大人 : là Người đã trưởng thành, là Người Lớn trái với Con Nít, là Người có Chức Cao Vọng Trọng, là Tiếng xưng hô các quan viên ngày xưa.
     Có khoảng 80 chữ thuộc bộ ĐẠI, tiêu biểu cho bộ Đại có chữ :
     YÊU 夭 : là Còn Non, còn Tơ. Kinh Thi chương Đào Yêu có câu :
"Đào Chi Yêu Yêu" 桃之夭夭  "là Cành Đào tơ mơn mởn xinh tươi, dùng để chỉ các cô gái đẹp mới lớn. Trong Kiều, đoạn cô Kiều nói với Kim Trọng , khi chàng Kim tỏ tình :
                Vẻ chi một đóa YÊU ĐÀO,
        Vườn hồng chi dám ngăn rào chim xanh... 
và khi Kim Kiều tái hợp, trong lúc "Tàng tàng chén cúc dở say"... Thuý Vân đã phán rằng :
            Quả mai ba bảy đương vừa,
        ĐÀO NON sớm liệu xe tơ kịp thì! 

      Nhưng, khi là Động từ  thì ...
      YÊU được đọc là YỂU (có dấu hỏi), có nghĩa là CHẾT NON.
      YỂU TỬ 夭死 hay YỂU CHIẾT 夭折 : đều có nghĩa là Chết Yểu. Chết lúc vị thành niên. CHIẾT là Gãy, Yểu Chiết: Chỉ cành lá bị gãy đi lúc còn non như người bị chết sớm vậy.

5. BỘ CAN   :
    CAN    : là Có Quan Hệ, như Can Dự 干預(與, Can Hệ 干係, Can Thiệp 干涉, Can Liên 干聯, ta nói là Liên Can... CAN vừa là Bộ vừa là Chữ theo lối Tượng Hình như sau :      

甲骨文
金文
金文大篆
小篆
繁体隶书

     Ta thấy ...
     CAN là hình vẽ một loại vũ khí dùng để đi săn thú rừng ngày xưa, đầu có hai mũi chỉa nhọn, dưới có dây thòng lọng, là một loại vũ khí dùng để tấn công. Nhưng sau nầy thường dùng theo nghĩa Phòng Ngự, nên CAN là cái Thuẫn, cái Mộc để chống đở phòng ngự. Ta lại có chữ QUA 戈 là một loại Đao dài có Cán, chém được đâm được, nên:
      CAN QUA 干戈 : là Đánh nhau, là Chiến Tranh. Ta thường hay nghe nói: Dấy động Can Qua là Gây sự đánh nhau, là Phát động Chiến Tranh.
       Các thầy tướng số hay nhắc đến CAN CHI 干支. CAN là THIÊN CAN, còn CHI là ĐỊA CHI. Thiên Can có Mười ngôi, gọi là Thập Vị Thiên Can 十位天干 theo thứ tự là :
       * Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý,  甲、乙、丙、丁、戊、己、庚、辛、壬、癸. Thứ tự nầy thường được người xưa dùng để Xếp Hạng, hay dùng để Phiếm chỉ những nhân vật nào đó, như Anh Giáp, anh Ất, anh Bính... như bây giờ ta nói: Anh A, anh B, anh C... vậy! Còn ...
       Địa Chi là Thập Nhị Địa Chi 十二地支, chính là 12 Con Giáp đó.
       Tiêu biểu cho bộ CAN ta có chữ:
       BÌNH 平 là Bằng, là Không Nghiêng Ngã, Không Lồi Lõm, Bằng phẵng như mặt nước hồ thu. Như Bình Diện 平面, Bình Địa 平地, Bình Nguyên 平原... Nghĩa phát sinh...
       BÌNH là Chia đều, là Bằng nhau, như: Bình Phân 平分, Bình Hành 平行, Bình Quân 平均, Bình Đẳng 平等...
       BÌNH là Hòa Thuận, An Lành như: Bình An 平安, Bình Phục 平服, Hoà Bình 和平...
       BÌNH là Ổn Định, Dẹp Yên như: Bình Loạn 平亂, Bình Định 平定, Bình Trị 平治...
       BÌNH là Không Xuất Sắc, Tầm Thường, như:  Bình Thường 平常, Bình Dân 平民, Bình Nhật 平日, Bình Sinh 平生...
       BÌNH là Bằng Trắc 平仄 trong Luật Thơ. Cuối cùng...
       BÌNH là Họ Bình, như "Sát nhân Danh Y Bình Nhất Chỉ" trong Tiếu Ngạo Giang Hồ của Kim Dung vậy !

6. BỘ CÔNG   :
    CÔNG   : là Hình cây thước Vuông góc của người thợ, nên CÔNG là Công Việc mà cũng là Công Nhân nữa, như: Công Cụ 工具, Công Tác 工作, Công Nhân 工人, Công Xưởng 工廠, Công Trình 工程, Công Cán 工幹...
     CÔNG là Đơn Vị dùng để đếm và Đánh Giá, như Chấm Công, Công Trình nầy phải cần một ngàn CÔNG, Đánh giá bằng Công Điểm, Công Nhựt 工日....
     CÔNG là Có Hàm Dưỡng hoặc giỏi về việc gì đó, như Công Phu 工(功)夫, Công Lực 工(功)力, Công Xảo 工巧 : là Khéo Léo về nghề Mỹ nghệ nào đó. Công Thi 工詩 là Giỏi về Làm Thơ...
     CÔNG là Thợ hoặc có liên quan đến Thợ, như :
     Công Binh 工兵 : là Lính Thợ. 
     Công Trường 工場 : là Nơi Công Nhân làm việc. Khác với Công Trường 公場 là Nơi Hội họp Công Cộng còn gọi là Quảng Trường 廣場. Người hoạch định và đưa ra chương trình làm việc cho công nhân, gọi là Công Trình Sư 工程师, ta gọi là Kỹ Sư Kiến Trúc.
      Tiêu biểu cho bộ CÔNG có chữ XẢO 巧 là: Khéo Léo như:
   TINH XẢO 精巧 : là Rất Khéo léo, rất Sắc xảo.
   XẢO DIỆU 巧妙 : là Khéo léo tuyệt vời.
   XẢO NGỮ 巧語 : là Lời nói Khéo léo. Ta có Thành ngữ "Hoa Ngôn Xảo Ngữ 花言巧語" là: Lời nói khéo léo và đẹp như hoa để làm vui lòng hoặc để gạt gẫm ai đó.
   THỤC NĂNG SANH XẢO 熟能生巧. Có nghĩa : Cái gì đã làm qua nhiều lần, quen tay rồi, thì có thể sẽ khéo léo được.


                           

  Truyện kể...
             Có người thợ săn bắn tên rất giỏi, hay khoe khoan tài bắn tên của mình là Bách bộ xuyên dương (ở xa trăm bước có thể bắn xuyên qua lá của cây dương liễu), bách phát bách trúng. Một hôm, anh ta đang huênh hoang khoe tài và bắn một phát cho bà con xem chơi. Tình cờ có ông lão bán dầu phọng đi ngang qua trông thấy, nhưng vẫn dửng dưng. Anh thợ săn bèn hỏi: "Bộ ta bắn không hay sao?" Ông lão đáp là: "Cũng bình thường thôi, có gì hay đâu, chẳng qua quen tay mà thôi, hãy xem lão đây!"  Nói đoạn, ông bèn lấy ra một cái chai, mở nút miệng chai và đặt một đồng xu lên đó, đoạn cầm bình dầu đứng trên rót xuống, giọt dầu đi thẳng qua lổ đồng xu xuống chai, không vây ra ngoài chút nào cả. Mọi người đều vổ tay khen hay. Ông lão từ tốn nói: "Thục năng sanh xảo, quen tay do việc làm hằng ngày nên đâm ra khéo mà thôi, chớ có hay ho gì đâu!" Anh thợ săn nghe thế, bèn lỏn lẻn bỏ đi không còn huênh hoang nữa!

7. BỘ CUNG  :
    CUNG  : là Cây CUNG. Chữ Tượng Hình vẽ lại hình dáng của cây Cung theo diễn tiến chữ viết sau đây:

甲骨文
金文
金文大篆
小篆
繁体隶书

Ta thấy ...
     Giáp Cốt Văn là hình Cây Cung có Dây Cung đàng hoàng, theo diễn tiến dần dần bỏ Dây Cung đi và như hình chữ viết cuối cùng. Nhưng ta vẫn nhận ra được hình dáng của Cây Cung qua chữ viết hiện nay 弓 như thường.
      CUNG 弓 là dụng cụ dùng để bắn tên hay đạn, vì có hình dáng Cong Cong nên còn có nghĩa là CONG, như Cung Thân 弓身 là Cong Mình Lại. Từ kép của Cung là CUNG NỖ 弓弩, ta gọi là Cung Nỏ. CUNG TIỄN 弓箭, ta gọi là Cung Tên.
      Thành ngữ về Cung, nổi tiếng có câu :
      ĐIỂU TẬN CUNG TÀNG 鳥盡弓藏 : Có nghĩa Hết chim rồi thì cất Cung lên không xài nữa, như ta nói Chanh vắt hết nước rồi thì vỏ chanh bị vứt đi: Vắt Chanh Bỏ Vỏ" mà!
      KINH CUNG CHI ĐIỂU KIẾN KHÚC MỘC NHI CAO PHI 驚弓之鳥見曲木而高飛。Có nghĩa: Con chim sợ cung (Bị cung tên bắn chết hụt một lần, nên...) thấy làn cây cong tưởng là cung cũng sợ mà bay cao lên. Trong Kiều lúc Bạc Bà khuyên Kiều lấy chồng, Kiều đã đáp rằng:
           Thiếp như con én lạc đàn,
      Phải tên giờ đã SỢ LÀN CÂY CONG!

  
     Tiêu biểu cho bộ CUNG có chữ...
     TRƯƠNG 張 : là Mở ra, Giương ra. Trương Cung 張弓 là Giương Cung ra.
     KHAI TRƯƠNG 開張 : là Mở Rộng Cửa ra để Buôn bán. HỒNG PHÁT 鴻發 là Phát lớn (Vổ cánh bay cao như chim Hồng vậy, tiếng Việt ta nói "Lên như diều gặp gió"). Nhà ở thì để cửa nhỏ đủ ra vào thôi, còn buôn bán thì phải mở lớn cửa ra, nên gọi là Khai Trương, nhưng theo đà diễn tiến của ngôn ngữ, trước mắt Khai Trương có nghĩa là: Bắt đầu mở cửa buôn bán, kinh doanh, làm ăn... Tương tự, 
Trương Khẩu 張口 là Há mồm ra. 
Trương Nhởn 張眼 là Mở to mắt ra. 
Trương Nha Vũ Trảo 張牙舞爪 là : "Giương Răng Múa Móng" ta nói là "Nhe nanh múa vuốt."
     TRƯƠNG là Mạo từ. Nhất Trương là: Một Chiếc, Một Tờ như:
     NHẤT TRƯƠNG SÀNG 一張床 : là Một Chiếc Giường ngủ.
     NHẤT TRƯƠNG CHỈ 一張紙 : là Một Tờ Giấy. Trong Tăng Quảng Hiền Văn có câu :
          Nhân tình tự chỉ TRƯƠNG TRƯƠNG bạc, 
                     人情似紙張張薄,
          Thế sự như kỳ cuộc cuộc tân.      
                     世事如棋局局新。
Có nghĩa :
     Tình người như giấy, TỜ nào TỜ nấy mỏng te,
     Chuyện đời như cờ, mỗi một váng cờ đều đổi mới cả.
     TRƯƠNG còn là họ Trương. Nổi tiếng trong văn học có Trương Sinh trong Tây Sương Ký (tức Trương Quân Thụy và Thôi Oanh Oanh). Trong Kiều tả lúc Kim Trọng nghe đàn xong thì... "Sóng tình dường đã xiêu xiêu, Xem trong âu yếm có chìu lả lơi." Cô Kiều mới ngăn Kim Trọng lại mà thỏ thẻ rằng :
                  Ngẫm duyên kỳ ngộ xưa nay,
               Lứa đôi ai lại đẹp tày Thôi Trương ?
                   Mây mưa đánh đổ đá vàng,
               Qúa chìu nên đã chán chường yến anh!

8. BỘ CỦNG   :
    CỦNG   : là Cung hai tay lại chào theo kiểu ngày xưa, theo diễ tiến của chữ viết Tượng Hình như sau:

甲骨文
金文
金文大篆
小篆
繁体隶书
Ta thấy ...
     Hai cánh tay đưa ra phía trước rồi nắm lại để chào theo kiểu cổ điển. Đây là bộ, còn chữ CỦNG thật sự là chự Hài Thanh, được ghép bởi bộ THỦ 扌là Tay ở bên trái chỉ Ý và chữ Cộng 共 ở bên phải chỉ Âm như sau 拱.
      Tiêu biểu cho bộ CỦNG có chữ...
    LỘNG 弄 : là Làm. là Ghẹo, là Chơi như:
    LỘNG GIẢ THÀNH CHƠN 弄假成真 : là Làm giả mà thành thiệt.
    LỘNG XẢO PHẢN CHUYẾT 弄巧反拙 : Muốn khéo mà thành vụng.
    HÍ LỘNG 戲弄 : là Ghẹo Chơi. Ta có câu nói "Hí Lộng Quỷ Thần 戲弄鬼神 ": là Làm yêu làm quỷ để phá phách ghẹo chơi.
    LỘNG NGÕA 弄瓦: NGÕA là Miếng Ngói lợp nhà, nhưng đây chỉ một bộ phận của máy dệt ngày xưa, như cái ống chỉ, đồ chơi của bé gái ngày xưa, theo như Kinh Thi chương Tiểu Nhã: 乃生女子,载寝之地,载衣之裼,载弄之瓦. Nãi sanh nữ tử, tải tẩm chi địa, tải y chi thế, tải LỘNG chi NGÕA. (Sanh ra là gái, thì ngủ dưới đất, mặc chỉ quấn tả, chơi thì suốt chỉ) nên LỘNG NGÕA là sanh con gái. Chúc mừng người sanh con gái gọi là: LỘNG NGÕA CHI HỶ 弄瓦之喜.




                         
Trái với Lộng Ngõa là ...
     LỘNG CHƯƠNG 弄璋 : Chương là Ngọc chương như cẩm thạch, có hình như cái Hốt cầm tay của quan lại ngày xưa, là đồ chơi của bé trai, theo chương Tiểu Nhã của Kinh Thi: 乃生男子,载寝之床,载衣之裳,载弄之璋. Nãi sanh nam tử, tải tẩm chi sàng, tải y chi thường, tải LỘNG chi CHƯƠNG. (Sanh ra con trai, thì ngủ trên giường, được mặc áo dài, được chơi ngọc chương) nên LỘNG CHƯƠNG là sanh con trai. Chúc mừng người sanh con trai gọi là LỘNG CHƯƠNG CHI HỶ 弄璋之喜.


                          
        Đã nói về chữ Lộng thì không thể không nhắc đến ...
    LỘNG NGỌC , con gái của Tần Mục Công thời Chiến Quốc, khi mới sanh ra miệng đã ngậm ngọc, nên còn gọi là Ngọc Nữ, thích thổi tiêu, lấy Tiêu Sử là người tiên, dạy cho nàng thổi tiêu, rồi trong một đêm trăng sáng, tử phụng xích long hiện ra cùng chở  đôi vợ chồng bay lên tiên giới.

           

9. BỘ NGHIỄM  广 :
    NGHIỄM  广 : là Nóc và Mái Nhà, ý chỉ nhà cất dựa theo triền núi. Bộ NGHIỄM hiện nay là chữ giản thể của chữ QUẢNG 廣 là Rộng rãi. Tiêu biểu cho bộ Nghiễm có chữ ...
     ĐIẾM 店 : là Tiệm, là Quán, là Cửa Hàng. Như...
     LỮ ĐIẾM 旅店 : là Quán trọ dành cho khách lữ hành.
     KHÁCH ĐIẾM 客店 : Như Lữ Điếm, là Khách sạn, nhà nghỉ.
     TỬU ĐIẾM 酒店 : là Quán Rượu, Nhà Hàng.
     PHẠN ĐIẾM 飯店 : là Quán Cơm, Tiệm Cơm.
     THƯƠNG ĐIẾM 商店 : là Hiệu Buôn, là Cửa hàng Buôn Bán.
     THƯ ĐIẾM 書店 : là Quán Sách. Nhà Sách.
     ĐIẾM TIỂU NHỊ 店小二 : là Người phục vụ trong Khách Điếm, Lữ Điếm và Tửu Điếm ngày xưa, bây giờ ta gọi theo tiếng Mỹ là "Bồi" Bàn, Bồi Khách sạn...

10. BỘ KỶ   :
      KỶ   : là Mình. Từ kép là Tự Kỷ 自己 là Tự bản thân mình.  KỶ vốn nghĩa là sợi dây theo diễn tiến chữ viết như sau:

甲骨文
金文
金文大篆
小篆
繁体隶书
Nên...
    KỶ 己 vốn nghĩa là Giềng Mối, được mượn âm để chỉ về Mình.  Đây là loại chữ Giả Tá hiếm hoi trong chữ Hán. Nhắc đến KỶ là người ta nhớ ngay đến lời dạy của Khổng Tử là :
               KỶ sở bất dục,       己所不欲,
               Vật thi ư nhân.      勿施於人。
Có nghĩa :
       Cái gì mà mình không muốn, thì...
       Đừng làm cái đó cho người khác !.
       Binh Pháp Tôn Tử cũng có câu :
               Tri KỶ tri bỉ,                   知己知彼,
               Bách chiến bách thắng.   百戰百勝.
Có nghĩa :
        Biết người biết ta, thì sẽ...
        Trăm trận trăm thắng.

    KỶ là Ngôi thứ 6 của Thiên Can: Giáp Ất Bính Đinh Mậu KỶ... thường dùng để sắp hạng 6 theo thứ tự như A, B, C,... vậy.
       Sẵn trình bày luôn sự khác nhau của 3 chữ sau đây mà mọi người hay nhầm lẫn:
       己 KỶ là MÌNH. Nét viết chót bằng với nét ngang giữa.
       已 DĨ là ĐÃ. Nét chót nhô cao hơn nét ngang giữa.
       巳 TỴ là Ngôi thứ 6 của Địa Chi : Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, TỴ... Nét chót ngang bằng với nét ngang trên cùng !

       (Còn tiếp, xin hẹn bài viết tới)

                        Đỗ Chiêu Đức

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét