Thứ Bảy, 31 tháng 10, 2015

Về một bài ca dao như mộ bà Đường thi tuyệt bút/ của Cụ Dương Khuê/ Thái Hy sưu tầm và chia sẻ

Về một bài ca dao như một bài Đường thi tuyệt bút,
của cụ Dương Khuê.
***
Mịt mùng khói tỏa cành sương, Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ. Ca dao

    Từ một bài thơ ngắn
    PHANXIPĂNG
- 1 -
Phất phơ ngọn trúc trăng tà,
Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương.
Mịt mùng khói tỏa ngàn sương,
Nhịp chày An Thái, mặt gương Tây hồ.
Lâu nay, hầu hết mọi người đều đinh ninh rằng đấy là một bài ca dao do dân chúng ở kinh thành Thăng Long - Hà Nội sáng tác và truyền khẩu tự đời nảo đời nao. Bài lục bát ấy đã được đưa vào các công trình sưu tập "văn chương bình dân", gồm nhiều dị bản. Sách giáo khoa trung học lẫn giáo trình đại học cũng chọn bài lục bát ấy làm khúc ca dao tiêu biểu để giảng bình về cảm hứng thiên nhiên của quần chúng nhân dân "có tính chất là những niềm vui, niềm tự hào, những cảm xúc dạt dào trước vẻ đẹp của giang sơn đất nước thân yêu" (Giáo trình Văn học dân gian, tập II, NXB Đại Học Và Trung Học Chuyên Nghiệp, Hà Nội, 1973, tr.375) và được thể hiện "như một bài Đường thi tuyệt tác" (Giáo trình Văn học dân gian, tập I, phần 2, NXB Giáo Dục, Hà Nội, 1976, tr. 22). Một bộ văn học sử thuộc loại hàn lâm và quan phương như Lịch sử văn học Việt Nam được biên soạn dưới sự chỉ đạo trực tiếp bởi Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam (Tập I, NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội,1980, tr. 167) xếp bài lục bát ấy vào chương "Văn học dân gian trong thời kỳ Đại Việt - từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX".
     Hoàng Đạo Thúy viết sách Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội (Hội Văn nghệ Hà Nội, 1969) từng giãi bày ấn tượng: "Những buổi sớm tinh sương mùa đông, khách dạn sương đi trên đường Thanh Niên không thấy trời, không nhìn rõ mặt nước, trên đầu cành lá rũ nặng giọt, bên trái lung linh ánh trăng úa hạ huyền; lúc ấy lòng lâng lâng, không ngâm mà cũng như ngâm câu thơ cổ: Phất phơ ngọn trúc trăng tà... Gà xóm bên hồ đã gáy, chuông hồi đã đổ dồn, đồng bào Bưởi đã dậy giã dó từ lâu. Mặt trời mới hé trên đê Yên Phụ mở ra một tấm gương phẳng lặng rắc phấn hồng...". Đoạn văn này được Đỗ Bình Trị trích dẫn trong tài liệu Giảng văn của Khoa Ngữ văn Đại học Sư phạm I Hà Nội (1982) rồi cước chú: "Cụ Hoàng Đạo Thúy gọi đây là câu thơ cổ chắc không phải không có lý do. Bài ca dao này có yếu tố thơ, yếu tố bác học rất rõ".
     Quả thật, khối người ngạc nhiên khi biết bài lục bát đang xét vốn là một áng thơ của một nhân vật tên tuổi: Dương Khuê (1839 - 1902). Bài thơ chưa cổ lắm vì được chí sĩ họ Dương chấp bút khoảng cuối đời, tức đầu thế kỷ XX, với nguyên đề: Hà Nội tức cảnh.
- 2 -
     Dựa theo Dương gia phả ký của dòng họ, tham khảo thêm Luận đề về Dương Khuê của Nguyễn Duy Diễn (Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn, 1960), tiến sĩ Dương Thiệu Tống đã chép lại nguyên vănbài thơ Hà Nội tức cảnh trong thiên khảo luận Tâm trạng Dương Khuê và Dương Lâm (NXB Văn Học, Hà Nội, 1995) kèm nhận xét về câu lục mở đầu: "Có người đã sửa đổi câu thơ này là Gió đưa cành trúc la đà, nhưng có lẽ là sai vì làm mất đi ý nghĩa ẩn dụ của toàn câu mà chỉ có ý nghĩa tả cảnh mà thôi".
     Người sửa đổi câu thơ cũng là một nhân vật nổi tiếng: Phạm Quỳnh (1892 - 1945). Song, cây bút họ Phạm không cố ý "biên tập" thơ tiền nhân. Ông chỉ mượn nửa bài thơ cũ, thêm bớt đôi chỗ, nhằm "tức cảnh" khác:
Gió đưa cành trúc la đà,
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương.
     Không còn phong cảnh Hà thành, mà rõ ràng là phong cảnh Huế. Bấy giờ là tháng 4-1918, lần đầu Phạm Quỳnh được ghé chốn Thần Kinh và sau đó thực hiện liền bút ký Mười ngày ở Huế để kịp đăng trên tạp chí Nam Phong (NXB Văn Học in lại thành sách, Hà Nội, 2001). Dưới cặp lục bát "tân trang" kia, Phạm Quỳnh viết thêm: "Cả cái hồn thơ của xứ Huế như chan chứa trong hai câu ca ấy. Chùa Thiên Mụ là một chốn danh lam, có cái tháp bảy tầng, làng Thọ Xương thì ở bờ bên kia. Đêm khuya nghe tiếng chuông chùa với tiếng gà gáy xa đưa văng vẳng ở giữa khoảng giời nước long lanh mà cảm đặt thành câu ca".
     Tương tự trường hợp Hà Nội tức cảnh của Dương Khuê, đôi câu lục bát của Phạm Quỳnh chẳng mấy chốc đã hòa vào "kho tàng văn học dân gian quý giá". Mức độ phổ biến trở nên sâu rộng, một phần nhờ thiên hạ đua nhau... tranh luận quanh một địa danh. Tập I Ca dao xứ Huế bình giải do Ưng Luận soạn thảo (Sở Văn hóa - Thông tin Thừa Thiên - Huế, 1991) phản ánh: "Không ngờ hai câu này đã gây nên nhiều cuộc bàn cãi sôi nổi, vì chùa Thiên Mụ ở Huế mà huyện Thọ Xương ở Hà Nội".
     Ở Hà Nội, huyện Thọ Xương thuở xưa kéo dài từ khu vực Nhà Thờ Lớn ra tới Đồn Thủy, tương đương hai quận Hoàn Kiếm và Hai Bà Trưng hiện nay. Còn ở Huế chẳng có làng nào tên Thọ Xương đối ngạn chùa Thiên Mụ qua sông Hương như Phạm Quỳnh nhầm tưởng. Thế nhưng, địa bàn đó có ngọn đồi từng mang tên Thọ Xương. Đó là đồi Long Thọ ở làng Nguyệt Biều, nay thuộc phường Thuỷ Biều, thành phố Huế.
Đồi gò kia, theo Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn, hồi trước được gọi "Thọ Khương Thượng Khố", đầu niên hiệu Gia Long (Nhâm Tuất 1802) đổi thành "Thọ Xương", đến năm Minh Mạng thứ V (Giáp Thân 1824) lại cải tên là "Long Thọ Cương" tức đồi Long Thọ. Bởi vậy, canh gà Thọ Xương hay Thọ Khương đều phù hợp. Giống như tiếng chuông Thiên Mụ hayLinh Mụ chẳng khác gì nhau. Chỉ xin thêm rằng nếu dùng "Thọ Khương" thì không những trỏ đồi Long Thọ mà còn trỏ một vạn đò cùng xóm chài ngụ cư tại làng Lương Quán, kế cận làng Nguyệt Biều.
- 3 -
Phải chăng bài ca xứ Huế ấy "trụi lụi" hai dòng như nhiều sách báo bấy lâu vẫn thường in?
Không. Trên tiến trình folklore hóa, cặp lục bát mà Phạm Quỳnh cải biên từ thơ Dương Khuê lại được dân chúng cố đô tiếp tục phát triển đầy sáng tạo.
Năm 1987, sau thời gian dài tổ chức sưu tầm điền dã, khoa Ngữ văn Đại học Sư phạm Huế đã tuyển chọn và ấn hành cuốn Văn học dân gian Bình Trị Thiên. Bài ca đang xét được ghi nhận đầy đủ như sau:
Gió đưa cành trúc la đà,
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Cương.
Thuyền về xuôi mái dòng Hương,
Biết đâu tâm sự đôi đường đắng cay?
Thật tuyệt! Nghe "rất Huế". Nhưng dân gian vùng Huế mấy khi nói hoặc hát hò Biết đâu... Ghi cho đúng phương ngữ, phải Biết mô... mới y sì Huế rặt. Câu thứ tư lắm khi còn nghe:
Mần răng tâm sự đôi đường đắng cay?
Nguyên bài thơ Hà Nội tức cảnh của Dương Khuê có thể chất chứa nghĩa ẩn dụ nào đấy như Dương Thiệu Tống (sđd) phân tích. Song, trong thực tế, bài thơ đã được quần chúng "vô tư" đón nhận hệt một tác phẩm văn nghệ dân gian. Ấy là bài ca dao vận dụng thuần túy thể "phú", bút pháp hoàn toàn tả cảnh theo phong cách hội họa thủy mặc tinh tế. Dĩ nhiên, đằng sau cảnh luôn thấp thoáng tình. Còn bài ca dao Phú Xuân - Thuận Hóa kết hợp "phú" với "hứng", tả cảnh đồng thời bày tỏ tình rõ nét, thực chất mượn cảnh vật cốt gửi gắm nỗi niềm riêng chung.
Mỗi bài ca dao tự thân đã là một tác phẩm hoàn chỉnh, lấp lánh vẻ đẹp riêng, dù khởi phát cùng bản gốc. Mỗi bài một vẻ, mười phân vẹn mười, khó bề lẫn lộn.

Thái Hy st

CẢNH LÀM LẼ / Thơ Hồ Xuân Hương/ Ngân Triều chú giải

CẢNH LÀM LẼ
Hồ Xuân Hương
Ảnh minh họa,Tranh làng Hồ, Google.










Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng, (1)
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung! (2)
Năm thì mười họa, nên chăng chớ, (3)
Một tháng đôi lần, có cũng không. (4)
Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm, (5)
Cầm bằng làm mướn, mướn không công. (6)
Thân này ví biết dường này nhỉ, (7)
Thà trước thôi đành ở vậy xong. (8)

*Văn bản chữ Nôm:
                                                    𥛭
                                                                                              仉 答𧜖  葻  仉 冷 㳥
                                   㓠    刧      
                                                          
                                                 𣎃         
                                                     𥸷  𥸷     
                                                       摱  摱  空   功
                                                身  尼      别     
                                                            
                        * Chú giải:
                        Vận dụng các thành ngữ Năm thì mười họa:       thỉnh thoảng, rất hiếm khi.
                        Cố đấm ăn xôi:      𥸷 cam chịu nhục một bề để theo đuổi mục đích mong muốn.
                        Làm mướn, mướn không công:      𥸷  , bị bóc lột công sức, tệ hại hơn cả người làm mướn, vì người làm mướn còn nhận được tiền công.
                        Nên: : (mượn từ Hán Việt: niên) theo lẽ đáng được như ý muốn.
                        Dường này: nông nổi cụ thể ra đến thế này.
                        Chăng,  chẳng: như không có
                        Chớ: : không được.
                        Nên chăng chớ: : lúc có, lúc không. Lúc được, lúc chẳng được gì cả.
                        Hẩm: : nói về thức ăn biến sắc, biến chất, hư  hỏng.
                        *
                        (1-2) Cũng là vợ nhưng hai hoàn cảnh đối lập cực kỳ! Đó là thân phận kẻ chịu làm lẽ.
                        (3-4) Người vợ lẽ được gì? Tuyệt nhiên không có hương vị hạnh phúc  lứa đôi, không được ở trong tổ ấm với người chồng:
                                                Tối tối chị giữ lấy chồng,
                                    Cho manh chiếu rách nằm không nhà ngoài.
                                                Sáng  sáng chị gọi “Bớ hai!”
                                    Mau mau thức dậy thái khoai đâm bèo.
                                                Bởi chưng bác mẹ em nghèo,
                                    Cho nên em phải đâm bèo thái khoai.
                                                Ca dao
(Một tệ nạn trong xã hội cũ: nhà nghèo, nợ nần, phải gán con gái cho chủ nợ, làm lẽ nhà người để trừ nợ; người vợ cả rất có uy lực).
                        (5-6) Đành cam chịu số phận hẩm hiu như một gia nô, bị bạc đãi, bị bóc lột công sức, tệ hơn cả người làm mướn cho chủ. Người làm mướn còn được nhận tiền công
                        (7-8) Khi đã hiểu, thì số phận đã an bài. Vô cùng hối tiếc.

            Rõ ràng là một bi khúc đoạn trường, chan chứa những bất công, uất nghẹn, hẩm hiu của những cảnh đời phải đi làm lẽ nhà người, trong dĩ vãng của xã hội cũ.

Mùa Đông Trong mắt tôi/ Thơ Ngu Uyên

Mùa Đông trong mắt tôi

Cây trút lá trơ cành trông xơ xác/Trời hắt hiu  mây xám kín giăng sầu/ Ngu Uyên
















Cây trút lá trơ cành trông xơ xác
Trời hắt hiu  mây xám kín giăng sầu
Đêm lạnh buồn biết gởi mộng về đâu ?
Gió đông đến vây quanh đời vội vã
Xin tí nắng để lòng thôi buốt giá
Đợi Xuân về khơi dậy chút hương yêu
Dẫu trời Đông có làm gió lạnh nhiều
Xuân hy vọng ngập tràn tay vẫy gọi
Quá khứ buồn xin người thôi ái ngại
Buồn qua đi đừng giữ lại dư âm
Tàn theo Đông thương nhớ mãi âm thầm
Thời oanh liệt tung tăng trời nắng Hạ.

                             Mùa Đông 2015
                                  Ngu uyên

Bình chú:
Qua ngôn từ trữ tình, Ngu Uyên đã minh họa một khung cảnh thiên nhiên với những chi tiết: Cây không còn lá trên cành, xác xơ; gió hắt hiu, gió thổi nhè nhẹ, vây quanh; trời đầy mây xám...Nhìn chung là cảnh buồn. Người buồn nên minh họa cảnh buồn:
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu, 
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?
ĐTTT-Nguyễn Du
Phải chăng đó là tâm tình hay nội tâm của nhà thơ?
Tuy nhiên, cuối cùng là một niềm tin tưởng lạc quan xán lạn cho ngày mai tươi sáng. Nỗi buồn trong dĩ vãng sẽ kết thúc như ý thơ:"Buồn qua đi đừng giữ lại dư âm", một nỗi buồn chẳng còn vấn vương, ray rứt. Một nỗi buồn chấm dứt hoàn toàn. Cũng có thể đó là điều hy vọng của tác giả trong tương lai.
Mở đầu là âm thanh réo rắt hoài vọng về mùa Đông, có thể là hơi ảm đạm trong những cung bậc của quá khứ. Cuối cùng là những giai điệu vui vui tràn đầy ước mơ và lạc quan.
Xin cầu chúc tác giả luôn vẫn vậy. Cuộc đời thì vui ít, buồn nhiều. Sau cơn mưa, trời lại sáng. như một câu tục ngữ Pháp: Après la pluie, il fait beau temps.
Thân mến, Ngân Triều

Thứ Năm, 29 tháng 10, 2015

24 Câu nói đáng suy ngẫm của Đức Dalai Lạt ma/ nguyễn Văn Hùng chia sẻ

24 Câu nói đáng suy ngẫm của Đức Dalai Lạt ma
12726945-standard.jpg
Hạnh phúc đích thực có được từ sự biết "hài lòng" và "hòa bình nội tại". Sự hài lòng và hòa bình nội tại chỉ có thể đạt được, thông qua sự phát triển tinh thần vị tha về tình thương, từ bi và sự diệt trừ vô minh, ích kỷ và tham lam.
                             
1- Hạnh phúc không phải là thứ có sẵn. Hạnh phúc đến từ hành động của chính ta.
*
2- Nếu có thể, hãy giúp người khác. Nếu không có thể thì ít nhất không nên hại ai.
*
3- Nếu bạn muốn người khác được hạnh phúc, hãy thực tập từ bi.
*
4- Tôn giáo của tôi rất đơn giản. Tôn giáo của tôi là sự tử tế.
*
5- Hãy nhớ rằng khi không đạt được những gì bạn muốn, đôi lúc, lại là sự may mắn tuyệt vời.
*
6- Thẩm quyền tuyệt đối luôn dựa vào lý trí và sự phân tích nghiêm túc.
*
7- Chúng ta có thể sống thiếu tôn giáo và thiền định, nhưng chúng ta không thể tồn tại nếu không có tình người.
*
8- Chúng ta không bao giờ đạt được hòa bình trên thế giới, ngoại trừ chúng ta phải thực sự có hòa bình trong chính mình.
*
9- Hãy trở nên tử tế bất cứ khi nào có thể. Trên thực tế, ai cũng có thể trở nên tử tế.
*
10- Nếu bạn có sợ hãi về nỗi khổ niềm đau, bạn nên quan sát xem bạn có thể làm được gì với nó. Nếu bạn có thể, không có gì phải lo lắng về nó. Nếu bạn không thể làm được, lại càng không nên lo lắng về nó.
*
11- Nếu không yêu thương chính mình, bạn không thể yêu thương người khác. Nếu bạn không có từ bi đối với mình, bạn không thể phát triển lòng từ bi đối với người khác.
*12- Tiềm năng con người vốn bằng nhau ở mỗi người. Cảm giác: Tôi không có giá trị là sai lầm... Hoàn toàn sai lầm! Bạn đang lừa dối chính mình. Chúng ta có năng lực tư duy, do vậy, thử hỏi ta thiếu cái gì đây? Nếu ta có năng lực ý chí, bạn có thể thay đổi mọi thứ. Bạn có thể nói rằng: Bạn là chủ nhân của chính bạn.
*
13- Chúng ta phải thừa nhận rằng, khổ đau của một người hoặc một quốc gia, cũng là khổ đau chung của nhân loại. Hạnh phúc của một người hay một quốc gia, cũng là hạnh phúc của nhân loại.
*

14- Bằng bạo lực, bạn có thể giải quyết được một vấn đề, nhưng đồng thời, bạn đang gieo các hạt giống bạo lực khác.
*
15- Khi con người còn sống, chúng ta phải nghĩ đến các thế hệ tương lai: "Một môi trường sạch được xem là nhân quyền, giống như bao quyền khác". Vì vậy, một phần trách nhiệm của chúng ta về người khác là đảm bảo rằng, thế giới mà ta đang sống là khỏe mạnh, nếu không nói là khỏe mạnh hơn cái ta đã thấy.
*
16- Danh ngôn Tây Tạng có câu: Bi kịch nên được sử dụng như nguồn sức mạnh. Bất luận là khó khăn nào, kinh nghiệm đau khổ ra sao, nếu chúng ta đánh mất hy vọng thì đó là thảm họa đích thực.
*
17- Các sinh vật đang sống trên địa cầu này, dù là con người hay con vật, là để cống hiến, theo cách riêng của mình, cho cái đẹp và sự thịnh vượng của thế giới.
*
18- Cái muỗng không thể nếm được vị của thức ăn mà nó chứa đựng. Tương tự : "người ngu không thể hiểu được trí tuệ của người khôn", dù cho có thân cận bậc thánh.
*
19- "Từ bi" và "độ lượng" không phải là dấu hiệu của yếu đuối, mà thực ra là biểu hiện của sức mạnh.
*
20- Mỗi ngày, khi thức dậy, bạn hãy nghĩ rằng: "Hôm nay tôi may mắn còn sống, tôi có cuộc sống con người quý giá, tôi sẽ không phí phạm cuộc sống này".
*
21- Hãy nhớ rằng... "im lặng", thỉnh thoảng là câu trả lời tốt nhất.
*
22- Hạnh phúc đích thực có được từ sự biết hài lòng và hòa bình nội tại. Sự hài lòng và hòa bình nội tại chỉ có thể đạt được, thông qua sự phát triển tinh thần vị tha về tình thương, từ bi và sự diệt trừ vô minh, ích kỷ và tham lam.
*
23- Tôn giáo không có nghĩa là giới điều, đền miếu, tu viện hay các dấu hiệu bên ngoài, vì chúng chỉ là các yếu tố hỗ trợ trong việc điều trị tâm. Khi tâm trở thành sự thực tập, mỗi người mới thực sự là một hành giả tôn giáo.
*
24- Đây là tôn giáo đơn giản của tôi. Không cần tu viện, không cần triết học phức tạp. "Bộ não và trái tim" của chúng ta là chùa chiền của chúng ta, triết học là lòng "tử tế".

55 năm hoài niệm Viện Hán Học Huế/ Viễn Phương chia sẻ


Tôi còn nhớ, năm 1960, sau khi đỗ THĐIC, một hôm có người bạn thân, đưa tờ báo Tiếng Chuông, rủ tôi đi thi vào Viện Hán Học Huế. Tiêu chuẩn đào tạo và ra trường rất hấp dẫn. Má tôi nói: "Xứ Huế xa lắc, không có bà con, tau rất ái ngại, nhưng tùy con. Mầy đi Tây Ninh, mỗi tháng mỗi về mà tau còn nhớ, còn trông. Ra Huế, mỗi năm chỉ về nhà có 2 lần, ăn ở, đau bệnh, thiếu thốn...thì biết làm sao?". Má tôi lo như vậy cũng đúng. Vả lại, cảnh nhà khó khăn, Ba vừa mới mất... nên tôi trở lại trường cũ học một lèo ba năm nữa, sau đó, nối nghiệp phụ thân, ra trường làm giáo viên hạng A...cho đến ngày nghỉ hưu.

Quả đất thật tròn! Tôi không ngờ qua Chị Cảnh Tú, bình thơ chị Hải Vân rồi quen thân với chị Viễn Phương. Khi họp mặt bạn bè viết lách ở nhà chị Hòa, mới biết quê ngoại của chị ở Hiệp Hòa và nhất là chị là bà con cô cậu ruột với hai người bạn "nối khố" của tôi, là anh em ruột đã cùng tôi chia ngọt sẻ bùi khi học tại Tây Ninh: 2 bạn Tạo, Lập.
Như vậy từ chỗ thân quen, chị Viễn Phương, Cựu SV VHH Huế, đã trở thành một người bạn "tri âm" trong văn chương tự lúc nào...Viết mấy dòng nầy, chân thành hoài niệm và xin giới thiệu một bài viết về :                 
Hán Văn Giáo Khoa Thư  
              và Viện Hán Học Huế
              Nguyễn Công Thuần Khóa 3 VHH Huế

Khi mới vào năm thứ nhất Viện Hán Học (niên khóa 1961 - 1962), ngoài việc học những bài trong sách Luận Ngữ với Linh mục Nguyễn Văn Thích, chúng tôi còn được các thầy Ngô Đình Nhuận và Châu Văn Liệu dạy cho những bài trong sách Học Chữ Hán của hai thầy Võ Như Nguyện và Nguyễn Hồng Giao biên soạn. Lúc bấy giờ, tôi có nghe nói hai thầy Võ và Nguyễn còn đang biên soạn một bộ sách khác rất công phu, nhưng chưa thấy xuất bản. Đến giữa niên khóa 1964-1965 thì có tin Viện Hán Học giải tán, tôi chuyển qua học Đại Học Sư Phạm và học thêm ở Văn Khoa với các giáo trình khác.  Khi ra đời đi dạy, tôi chỉ vận dụng những kiến thức căn bản đã học được ở Viện Hán Học để tra cứu các từ điển chứ không không có thì giờ học thêm sách giáo khoa nữa. Vì thế tôi không biết sách của hai vị thầy ở Viện Hán Học trước xuất bản khi nào. Sau 1975, tôi chỉ dạy học vài năm, rồi nghỉ dạy vào Sài Gòn làm việc khác. Những khi rảnh rỗi, tôi thường đến các cửa hàng sách cũ lục tìm những sách cần thiết. Tại một tiệm bán sách cũ bên đường Điện Biên Phủ Q.I. Sài Gòn, tôi thấy quyển HÁN-VĂN GIÁO-KHOA THƯ (HVGKT) Tập I (Đệ thất - Đệ lục), Soạn giả: Võ Như Nguyện - Nguyễn Hồng Giao, in lần thứ nhất, 1965, Bộ Giáo Dục xuất bản.
                              (Hán Văn Giáo Khoa Thư Tập I- Bộ Giáo Dục xuất bản 1965)

Tôi liền mở ra xem. Trang đầu sách là Lời giới thiệu của L.M. Cao Văn Luận, Viện trưởng Viện Đại học Huế:
Bộ Văn Hóa Giáo Dục có ủy thác Viện Đại học Huế soạn thảo một bộ sách dạy Hán văn cho các lớp Trung học Đệ Nhất cấp. Mục đích của Bộ không phải chỉ để giúp ích riêng cho những học sinh theo đuổi Hán văn thuần túy mà còn cho tất cả học sinh nào muốn viết và nói tiếng Việt cho đúng. Hẳn ai cũng biết, muốn giỏi Việt văn cần phải am hiểu Hán văn, để trong khi viết và nói, khỏi bị lầm lẫn về từ ngữ. Sở dĩ trong sách, báo ta thường thấy những chữ dùng sai như “xán lạn” thì viết “sáng - lạng”, “tháp nhập” hóa thành “sát nhập”, “yếu - điểm” lẫn lộn với “nhược - điểm”, “tái nhóm” thay vì “tái hội”, v.v.. Đó là điều khiếm khuyết rất quan trọng mà chúng ta không thể nào bỏ qua được. Viện tôi đã giao việc soạn thảo bộ sách ấy cho hai giáo sư Viện Hán Học là Ông Võ Như Nguyện và Ông Nguyễn Hồng Giao. Hai ông không những là giáo sư giàu kinh nghiệm về việc dạy Hán Văn mà còn là tác giả những cuốn sách giáo khoa có giá trị về ngành này. Khi hoàn thành bản thảo (gồm 2 tập, tập I cho các lớp Đệ Thất và Đệ Lục, tập II cho các lớp Đệ Ngũ và Đệ Tứ) hai ông đưa cho tôi xem, tôi lấy làm vừa ý lắm. Sách soạn công phu và đạt được mục đích của Bộ đã đề ra, nghĩa là hai tác giả đã khéo chọn lựa những câu, những đoạn văn, trong đó những chữ Hán Việt đã giữ một vai trò quan trọng. Hiện nay, những sách dạy Anh văn, Pháp văn bán đầy dẫy các tiệm sách, nhưng sách dạy Hán Văn lại quá khan hiếm. Những học sinh nào muốn trau giồi thêm tiếng Việt Hán đã phải bối rối trong việc tìm kiếm sách học. Bộ sách giáo khoa Hán Văn của hai Ông Võ Như Nguyện và Nguyễn Hồng Giao ra đời, tôi tin chắc sẽ đáp ứng được nhu cầu đã nói. Và tôi cũng trông mong các ông tiếp tục soạn thêm những sách khác cho các lớp trên.

Huế, ngày 14 tháng 1 năm 1964.
L.M. CAO VĂN LUẬN
Viện trưởng Viện Đại học Huế


Tiếp theo là bài Tựa của thầy Phan Văn Dật, Giám Học Viện Hán Học Huế: Theo chương trình cải tổ của Bộ Văn Hóa Giáo Dục, “phần Hán Tự trong chương trình không phải là một phần biệt lập mà là một phần có quan hệ mật thiết với phần Việt Văn Môn học Hán Tự nhằm mục đích gây cho học sinh một căn bản tri thức Hán Việt cần yếu cho việc trau giồi Việt Văn và để cho học sinh có thể thưởng thức được cổ văn Việt Nam với cái phong vị đặc biệt kỳ thú của nó để duy trì những giá trị cổ truyền của dân tộc.”  Phần cuối chương trình còn nói thêm rằng “trong khi chờ đợi đủ sách giáo khoa và giáo sư phụ trách, giờ Hán Tự sẽ được thay thế bằng giờ dạy các thành ngữ Hán Việt.”  Trong năm 1959, hai ông Võ Như Nguyện và Song Anh Nguyễn Hồng Giao có soạn thảo và cho xuất bản quyển “Học Chữ Hán” bậc Trung Học Đệ Nhất Cấp, tập I theo đường lối và dụng ý nói trên của Bộ. Từ ba năm nay, quyển sách ấy đã giúp rất nhiều cho các học sinh trong giờ Hán tự. Sách ấy cũng chỉ mới ra tập đầu, chỉ vừa dùng cho một lớp Đệ Thất. Cách đây không lâu, trong một tư văn đề ngày 13 tháng 12 năm 1960, gởi cho Linh mục Viện Trưởng Viện Đại Học Huế, Ông Bộ Trưởng Quốc Gia Giáo Dục có nhã ý nhờ Linh Mục Viện Trưởng giao cho các giáo sư Viện Hán Học soạn thảo một bộ sách giáo khoa Hán Tự và Hán Văn
theo đúng tinh thần của chương trình 1959.  Hai ông Võ Như Nguyện và Nguyễn Hồng Giao hiện nay lại đều là giảng viên Hán Văn của Viện Hán Học nên hai ông đã sốt sắng đảm nhiệm công việc này. Sẵn có kinh nghiệm khi biên soạn sách “HỌC CHỮ HÁN” cũng như mấy năm đã từng giảng huấn ở Viện Hán Học, hai ông bắt tay ngay vào việc và ra công soạn nên bộ “SÁCH GIÁO KHOA HÁN VĂN” gồm hai tập, tập I cho các lớp Đệ Thất, Đệ Lục và tập II cho các lớp Đệ Ngũ, Đệ Tứ. Bộ sách sau này dày gấp bốn quyển “HỌC CHỮ HÁN” và riêng cho mỗi năm số bài soạn có phần nhiều hơn số bài cần thiết cho cả niên khóa, để học sinh có bài học thêm ngoài những bài đã dạy ở lớp và cho quý vị giáo sư có thể tùy nghi lựa chọn. Sách soạn rất công phu và có phương pháp, bắt đầu giảng về cách cấu tạo chữ Hán, phép lục thư, cách tập viết và tính nét, thứ tự các bộ phận trong chữ v.v. Học xong phần đầu nầy, học sinh đã có một ý niệm khái quát về môn học chữ Hán. Từ bài thứ nhất trở đi mới giảng về ngữ vựng, theo lối tiệm tiến, từ dễ tới khó, trong phần nầy có giải nghĩa rõ ràng về cách phối hợp các loại chữ với nhau, văn phạm, từ ngữ, thành ngữ, những chữ đồng căn, đồng nghĩa, hoặc đồng âm dị nghĩa, cách đặt câu, cách dùng hư tự, v.v. và cuối mỗi bài lại có một bài tập. Những thơ văn trích giảng đều được chọn lọc kỹ càng và đều có thể bồi dưỡng cho sự hiểu biết của học sinh về phương diện nào đó. Thỉnh thoảng ta lại tìm thấy một vài giai thoại hay một cuộc so sánh hứng thú làm cho bài học không bao giờ có vẻ khô khan. Với cách trình bày như vậy, học sinh có lẽ không bao giờ đến nỗi nhàm chán và sợ môn Hán tự; ở đâu họ cũng gặp những chữ thường nghe, thường nói, nhưng chưa hiểu được một cách minh xác tường tận. Người học chỉ cần nhận kỹ những điều giảng giải và chỉ dùng trí nhớ về chữ viết thôi. Học hết bộ nầy có thể nói rằng học sinh sẽ biết dùng một cách chắc chắn đa số danh từ Hán -Việt thường gặp trong các sách báo ngày nay. Quý vị giáo sư dạy về môn quốc văn đã phải nhiều phen phàn nàn rằng học sinh lúc nầy dùng chữ sai lầm, cẩu thả, đại để “ngoan cố” hiểu ra “ngoan ngoãn”, “bộc phát” hiểu ra là “bộc lộ” hoặc chưa phân biệt được “công dụng” với “công hiệu”, “tác dụng” với “tác động”, thậm chí dùng lầm “thân chinh” cho “thân hành”, như nói “ông thân chinh ra phố mua hàng”, v.v. những lối dùng chữ sai lạc như trên không thể nào kể hết được. Đó là chưa nói học sinh Trung - Nam vì phát âm không đúng, hay dùng lẫn lộn “bàn hoàn” với “bàng hoàng”, “bàng quan” với “bàng quang” v.v. Trong các giờ giảng văn, nhiều khi giáo sư cũng phải sửng sốt nghe học sinh giảng nghĩa các từ ngữ một cách không ngờ. Cứ cái đà ấy thì sự học quốc văn không khéo sẽ lâm vào một tình trạng rất hỗn độn. Vì những lẽ trên, chúng tôi nhận thấy quyển sách nầy ra đời rất nhằm lúc và sẽ đỡ nhiều khó nhọc cho quý vị giáo sư quốc văn. Nó cũng giải thuyết được một phần nào sự thiếu thốn sách giáo khoa về môn Hán tự. Tuy nhiên, vì sách được soạn thảo trong một thời gian gấp rút để kịp cung ứng cho học sinh một khóa bản sẵn có dưới tay, nên thế nào cũng không tránh được ít nhiều khuyết điểm, những khuyết điểm ấy chỉ khi đem dùng mới thấy. Nếu đợi cho được hoàn toàn, có lẽ còn phải lâu lắm; cứ như vậy, chúng tôi tưởng bộ “SÁCH GIÁO KHOA HÁN VĂN” nầy cũng là một cố gắng đáng khen ngợi và khuyến khích.

PHAN VĂN DẬT
Giám học Viện Hán Học Huế.

Sách chỉ có Tập I chứ không có Tập II, nhưng tôi vẫn mua để lưu lại một di vật của các thầy thời Hán Học và cũng là kỷ niệm về trường xưa.  Sau đó, tôi đến nhiều tiệm khác để tìm tập II cho đủ bộ mà không có. Tình cờ một hôm ghé tiệm sách quen ở đường Lý Chánh Thắng, Q.3, người chủ tiệm khoe mới mua được cả bộ hai quyển HVGKT. Tôi mở xem thì thấy trang đầu cả hai tập đều ghi: Trung tâm Học liệu - Bộ Giáo Dục xuất
bản. Tập I : Lớp sáu - Lớp bảy, In lần thứ nhất, 1965, 2000 quyển (đó là quyển sách tôi đã mua); in lần thứ 2, 1972, 5000 quyển; Tập II, Lớp tám - Lớp chín, in lần thứ nhất, 1972, 5000 quyển. Phía dưới, cả hai tập đều ghi Hội Đồng Duyệt gồm: Bửu Cầm - Thuyết trình viên; Thẩm Quýnh - Hội viên; Nghiêm Toản - Hội viên. (Điều này ở Tập I tôi đã mua trước thì không có). Tiếp đó, cả hai tập đều có in Lời Giới Thiệu của Linh mục Cao Văn Luận và lời Tựa của thầy Phan Văn Dật. 
             (Sách HVGKT I & II do Trung Tâm Học Liệu xuất bản)

Sách này thuộc loại bán giá cao nên tôi nhờ chủ tiệm phô-tô cho một bản Tập II rồi trả tiền theo giá “hữu nghị” như một vài bộ sách đắc giá trước đây tôi đã từng mua tại tiệm này. Nhưng lần này chủ tiệm bảo: Ông cứ đem về phô - tô vài ba hôm rồi trả cho tôi cũng được. Tôi liền đem về tiệm quen hối phô - tô gấp rồi chưa hết ngày đã đem trả lại và chủ tiệm cũng không lấy đồng nào. Thế là tôi đã có được đủ bộ một di vật về thầy xưa trường cũ. Sau khi có đủ bộ, thỉnh thoảng tôi mở ra xem, mỗi lần vài ba bài. Tôi nhận thấy các thầy biên soạn rất công phu và khoa học. Sách đi từ dễ đến nâng cao nên những người đã học được ít nhiều như tôi cũng có thể dựa vào đó để củng cố lại căn bản Hán Văn của mình. Có lẽ cũng vì thế nên từ năm 1997 đến nay, Nhà xuất bản Đà Nẵng đã in lại bộ sách này 3 lần: Năm 1997 in trọn bộ, chia thành 2 quyển như sách của Trung Tâm Học Liệu trước; về sau, năm 2009 và 2013 mỗi lần cũng in trọn bộ nhưng dồn chung 01 quyển 832 trang. Các sách này đều không có Lời Giới Thiệu, bài Tựa, và phần Phàm lệ như sách của Trung tâm Học liệu trước, còn nội dung thì mỗi bài cũng đủ các mục nhưng tôi chưa đối chiếu chi tiết. Tôi nêu lên việc sách HVGKT do Trung Tâm Học Liệu xuất bản trước đã trở thành quí hiếm và việc Nhà xuất bản Đà Nẵng về sau đã nhiều lần in lại bộ sách ấy mà vẫn bán chạy là để chia sẻ niềm tự hào cùng các bạn đồng môn xưa về giá trị của một công trình có thể nói là “vượt thời gian” của các thầy chúng ta trước đây nửa thế kỷ. 
             (Sách HVGKT I & II - Nhà Xuất bản Đà Nẵng)

Mỗi lần cầm quyển sách đọc vài bài, tôi đều lướt qua một đoạn trong lời tựa và mường tượng như nghe thầy Dật nói chuyện ngày xưa. Qua mỗi bài học, tâm trí tôi lại hình dung cả dáng điệu và giọng nói của các thầy khi giảng bài thuở trước; đọc mấy bài văn vần cụ Hồ Đắc Định dịch thơ chữ Hán, tôi như còn nghe rõ giọng cụ ngâm thơ trong lớp ngày xưa. Ngoài ra, khi tra cứu những quyển trong bộ Tứ Thư, tôi cũng thường nhớ lại giọng ngâm bài “Xuân du phương thảo địa” của Linh mục Nguyễn Văn Thích; nhớ cụ Hà Ngại luôn luôn nghiêm chỉnh trọng bộ quốc phục áo dài khăn đóng; đọc những sách của Ủy ban phiên dịch sử liệu Việt Nam tôi lại nhớ đến thầy Nguyễn Duy Bột hiền lành và tận tụy.  Qua những mốc thời gian ghi trong Lời Giới Thiệu của Linh Mục Viện Trưởng và bài Tựa của thầy Phan Văn Dật, kết hợp với tài liệu của anh Lý Văn Nghiên ghi trong bài viết ở Đặc San kỷ niệm 50 năm thành lập Viện Hán học Huế 1959  – 2009, tôi nhận ra việc biên soạn sách của hai thầy Võ Như Nguyện và Nguyễn Hồng Giao rất phù hợp với mục tiêu và quy trình đào tạo sinh viên Viện Hán học:

1. Sắc lệnh 389-GD thành lập Viện Hán học của Tổng thống ban hành ngày 18/10/1959. Tiếp theo là Nghị định tổ chức số 1505- GD của Bộ trưởng QGGD ban hành ngày 9 /12/
1959. Điều 27 của Nghị định này quy định rằng những sinh viên tốt nghiệp có thể được bổ dụng vào các chức vụ sau đây với chỉ số lương 370:
- Chuyên viên các tòa đại sứ ở các nước Đông Nam Á.
- Chuyên viên tại các viện khảo cổ.
- Giáo sư Trung học đệ nhất cấp ngành Hán học.
Căn cứ Sắc lệnh và Nghị định trên, Viện Hán Học đã được thành lập và nhanh chóng tổ chức thi tuyển khóa 1 vào ngày 25/12/1959, khai giảng vào ngày 4/1/1960.

2. Sau đó, ngày 13/12/1960, Bộ trưởng Giáo dục đã ủy thác Viện Đại Học Huế soạn thảo bộ sách dạy Hán Văn cho các lớp Trung học đệ nhất cấp (theo tinh thần của chương trình 1959). LM Viện Trưởng bèn giao cho hai Giáo sư Viện Hán Học là thầy Võ Như Nguyện và thầy Nguyễn Hồng Giao thực hiện công trình này.

3. Cuối năm 1963, hai vị G.S của Viện Hán Học đã hoàn thành việc biên soạn bộ sách ấy nên sau khi bị bãi chức trở về nhận lại nhiệm vụ cũ, ngày 14/1/1964 LM Viện Trưởng mới viết Lời Giới Thiệu để chuyển giao bộ sách ấy cho Bộ Giáo Dục. Và Bộ Giáo Dục đã tiến hành in đợt đầu 2000 quyển để sử dụng.

4. Về chất lượng của bộ sách thì ngoài những nhận xét của LM Viện Trưởng Viện Đại Học Huế và thầy Giám Học Viện Hán Học còn có Hội Đồng Duyệt xét gồm những vị Giáo Sư chuyên ngành rất uy tín đã tán đồng, nên Trung Tâm Học Liệu trước đây mới in cả vạn quyển và đến bây giờ sách vẫn còn được tiếp tục xuất bản. Như vậy là việc biên soạn bộ sách HVGKT rất phù hợp với quy trình đào tạo của Viện Hán Học, là từ năm 1964 về sau, mỗi năm đều có sinh viên Viện Hán Học tốt nghiệp ra trường để giảng dạy Hán Văn tại các lớp Trung Học Đệ Nhất Cấp một cách bài bản theo sách giáo khoa đã soạn. Thế nhưng việc thành lập Viện Hán Học theo sắc lệnh của Tổng Thống Ngô Đình Diệm và theo Nghị định của Bộ Giáo Dục, mà không có quy chế rõ ràng nên khóa đầu tiên tốt nghiệp đã không được bổ dụng và đương nhiên các khóa sau cũng chẳng hy vọng gì. Lúc bấy giờ, các quan chức đương quyền đều e ngại việc bảo vệ cho một quyết định của ông Ngô Đình Diệm. Ông Bùi Tường Huân, Viện Trưởng Viện Đại Học Huế, cũng cho rằng Viện Hán Học chỉ là một viện tô đẹp cho “mỹ ý” của Tổng Thống Diệm và đã trở thành gánh nặng dư thừa của Viện Đại Học Huế. Lãnh đạo Viện Hán Học là thầy Trần Điền đã vào Nha Bộ vận động cho việc tuyển dụng và duy trì Viện Hán Học nhưng chỉ đạt được kết quả là những lời hứa. Sau đó, toàn thể sinh viên Viện Hán Học đã lãn khóa và cử đoàn đại diện vào Sài Gòn trực tiếp yêu cầu Tổng Trưởng Bộ Giáo Dục giải quyết việc bổ dụng sinh viên đã tốt nghiệp và bổ sung quy chế tuyển dụng các khóa sau. Khi ấy tôi cũng được cử vào đoàn đại diện. Nhưng khi vào đến Bộ Giáo Dục thì được biết ông Tổng Trưởng Phan Tấn Chức đang thu xếp mọi việc để bàn giao cho ông Tổng Trưởng mới là Nguyễn Văn Trường, nên phái đoàn chỉ được ông Đổng Lý Văn Phòng Bộ Giáo Dục tiếp kiến để ghi nhận nguyện vọng của sinh viên chứ không giải quyết được gì. Nhưng theo ông thì những nguyện vọng chúng tôi đã nêu rất khó được chấp thuận. Chúng tôi chỉ chờ đợi vài hôm chứ không thể ở lại lâu nên cuối cùng đã gởi lại bản kiến nghị nhờ ông Đổng Lý trình lên Tổng Trưởng mới. Trong thời gian ở lại, tôi và anh Lý Văn Nghiên có đến La-San Đức Minh ở đường Hiền Vưong thăm Linh Mục Cao Văn Luận và thưa với ngài về tình hình hiện tại của Viện Hán Học. Lúc ấy ngài không còn giữ nhiệm vụ gì ở ngành giáo dục, nhưng ngài nói ông Nguyễn Văn Trường sắp làm Tổng trưởng Bộ Giáo Dục trước kia là giáo sư của Viện Đại Học Huế, nên ngài sẽ đến nhờ ông tìm cách giải quyết cho sinh viên khỏi bị thiệt thòi. Chúng tôi trở về đem theo nỗi thất vọng cho toàn thể các bạn đồng môn. Sau đó, anh Lý Văn Nghiên với cương vị Chủ Tịch Ban Chấp Hành Sinh Viên Viện Hán Học đã tham khảo ý kiến nhiều giới chức và nhiều thành phần sinh viên của Viện nên đã phát động việc đấu tranh đòi Bộ Giáo Dục giải quyết quyền lợi của tất cả sinh viên Viện Hán Học một lần để sinh viên khỏi phải chờ đợi và chịu thiệt thòi thêm nữa. Bộ Giáo Dục đã chấp thuận và thực hiện đúng những điều khoản đã đề ra. Nhưng đó chỉ là biện pháp chữa cháy, vớt vát để khỏi quá thiệt thòi, chứ không phải là kết quả thỏa đáng. Nếu Bộ Giáo Dục chấp nhận biện pháp duy trì Viện Hán Học thì có khả năng đến nay viện đã phát triển thành một Trung Tâm Văn Hóa. Từ đó đến nay đã bao nhiêu năm danh hiệu Viện Hán Học chỉ còn trong hoài niệm của những cựu sinh viên và không bao lâu nữa thì chẳng còn ai để nhớ đến!
T.T.C
(Trích Đặc San 55 Năm Nhớ Lại của cựu sinh viên Viện Hán Học Huế biên soạn)