Thứ Bảy, 13 tháng 7, 2013

Thu nhớ- Thơ Hải Vân.vhp/ Lời bình Ngân Triều

              
            *Không gian thoảng chút hương trời,Nghe chừng hơi thở một thời ai trao.Hải Vân.vhp

Thu nhớ 
Thơ Hải Vân.vhp
Lời bình Ngân Triều (Hậu Nghĩa)

Mùa thu là một trong những đề tài hằng gắn bó với thi nhân xưa nay.  Cảnh thu se buồn, kết hợp với tâm trạng riêng…thường  hình thành những vần thơ lai láng tình sầu.  Nguyễn Du cũng có câu “nửa tình, nửa cảnh…như chia tấm lòng”.  (Chia tấm lòng là mạch sầu chẳng khuây, là buồn không dứt hay buồn miên man).   Khi tình cờ, đọc đoạn đầu của một bài thơ mùa thu, tôi cảm thấy rộn ràng những cảm xúc thương đời, thương người nhất là những tình yêu phải trắc trở, phải đoạn tuyệt, phải chia lìa…đáng thương:
 Từ vào thu đến nay
Gió thu hiu hắt,
Sương thu lạnh,
Trăng thu bạch,
Khói thu xây thành,
Lá thu rơi rụng đầu ghềnh,
Sông thu đưa lá, bao ngành biệt ly.
(Cảm thu, tiễn thu/ Tản Đà)
 Chúng ta rất dễ nhận ra.  Mỗi dòng thơ đều dệt một chữ  “thu”,  thể hiện một không gian tiêu sơ, cô quạnh, lạnh lẽo, hữu tình, chia xa… Cái hay là tác giả đã gom góp, quy nạp từng chi tiết đặc trưng… để cuối cùng hội tụ tại thành một dòng xoáy đột ngột, bất ngờ ,vô cùng mạnh mẽ là biệt ly… Biệt ly là mãi mãi dấn bước theo hai hướng ngược chiều.  Đôi tình nhân sẽ không bao giờ còn có cơ hội gặp lại nhau nữa!  “ bao ngành biệt ly” là có rất nhiều sắc thái biệt ly.  Rồi thì mãi mãi cách xa!  Riêng đối với những người trong cuộc tình thì biệt ly  chỉ còn là những nhớ nhung, kỷ niệm, tiếc nuối; chỉ còn là cố nhân của nhau, cho dẫu thời gian có phôi pha, tạm lành những rạn vỡ trong tim….Với những nhớ nhung trong mùa thu, “Thu nhớ”, có lẽ Hải Vân đã chấp bút bài tình thu đượm buồn trong một tâm trạng ai hoài:
 THU NHỚ
Hải Vân
***
Người ơi, xa cách nghìn trùng, (1)
Núi cao sông thẳm, mịt mùng tăm hơi.
Vắng ai vào ngẩn ra ngơ,
Vắng ai tóc rối bơ thờ buồn tênh.
Đêm đêm thầm nhớ gọi tên, (5)
Buồn nghe tí tách bên thềm rơi mưa.
Thẩn thờ giấy mỏng tình xưa,
Đèn lung linh, tưởng người xưa đến tìm.
Gió thu mơn trớn êm đềm,
Tưởng người năm ấy môi mềm gắn môi.(10)
Không gian thoảng chút hương trời,
Nghe chừng hơi thở một thời ai trao.
Tỉnh ra nào có tăm hao
Nam Kha một giấc, tim đau dạ hờn.
Trời Xanh sao khéo bông lơn!(15)
 *Bài thơ có thể chia làm 3 đoạn:
(1)Đoạn đầu,2 câu thở than về người lữ thứ diệu vợi,bặt tin.
Ngườiơi,xa cách nghìn trùng, (câu 1)
Núi cao sông thẳm, mịt mùng tăm hơi.
 Mở đầu bài thơ là một không gian trải rộng bao la của người đi xa (xa cách nghìn trùng),  với những hình ảnh ngăn cách đầy khó khăn gian khổ, như ngạo nghễ, thách thức  sức người hữu hạn, nhất là nghị lực nữ nhi (núi cao,sông thẳm) “Mịt mùng” là bị bóng tối bao phủ khắp nơi, không thể nhìn thấy gì.   ”tăm hơi”tổ hợp từ có tăm là những bọt nhỏ dưới nước,lâu lâu mới nổi lên như “ tăm cá” : có bọt sủi lên  ở dưới nước là có cá ở đó, hơi là hơi thở mà cũng là mùi đặc trưng của sinh vật. “Tăm hơi” cùng nghĩa với “tăm hao”, (hao=âm hao=tin tức) .  “Mịt mùng tăm hơi” hoặc “nào có tăm hao”(câu 13) tức là mất biệt, không hề biết tin tức, tung tích, mở rộng ý tưởng là hư ảo, không có thực.   Người ơi, hô ngữ, vừa là lời than thở, vừa là lời trách móc.
Sao” người” nỡ gây chi cảnh ngăn cách, chia ly, nếu không nói rất là bạc tình bạc nghĩa.  Người đã quay lưng, đi biền biệt nơi góc biển chân trời nào đó, lại bặt tin, vô âm tín.  Đường đi thì ngăn sông cách núi, hiểm trở, gian nan… làm sao gặp người?!   Ngăn sông, cách núi, đành phải biệt ly!   Ôi!   Một trời thu nhung nhớ …
(2) Đoạn giữa, Xin đọc tiếp:
Vắng ai vào ngẩn ra ngơ,   (câu 3)
Vắng ai tóc rối bơ thờ buồn tênh.
Đêm đêm thầm nhớ gọi tên,(câu 5)
Buồn nghe tí tách bên thềm rơi mưa.
Thẫn thờ giấy mỏng tình xưa,
Đèn lung linh,tưởng người xưa đến tìm.
Gió thu mơn trớn êm đềm,
Tưởng người năm ấy môi mềm gắn môi.(câu 10)
Không gian thoảng chút hương trời,
Nghe chừng hơi thở một thời ai trao. ( câu 12).

Rõ ràng một số biện pháp tu từ kết hợp với những nhóm từ chọn lọc, với nhiều từ lái, tạo âm điệu uyển chuyển, nhịp nhàng, hài thanh, tượng hình … rất độc đáo.  Cụ thể là:
*Điệp từ “vắng ai”, nhấn mạnh” người” vắng xa “người”,  để đến nỗii“buồn tênh”.  Buồn tênh là một nỗi buồn như buồn hiu, nỗi buồn được cảm nhận bằng cả một sự thiếu vắng miên man… làm cho tâm hồn phải“ngẩn ngơ” trăm mối.  Hai câu nầy (3,4) có giai điệu như 2 câu ca dao về nỗi nhớ thiết tha :
“Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ,
 Nhớ ai,ai nhớ,bây giờ nhớ ai?”.  
Từ lái “ngẩn ngơ” được cắt đôi, đan chéo với cặp động từ“vào ra” cũng cắt đôi thành một cụm từ mới“vào ngẩn ra ngơ” để tăng cường biểu đạt từ ngẩn ngơ một cách mượt mà.  Nguyễn Du cũng đã sử dụng phong cách dân gian, để thơ trở nên linh hoạt, gợi tả một cách thẩm mỹ, nao lòng.  Cụ thể như thủ pháp sử dụng điệp từ trong bức tranh tâm trạng, Kiều ở Lầu Ngưng Bích: ”Buồn trông cửa bể chiều hôm,
 Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.
 Buồn trôngngọn nước mới sa,
 Hoa trôi man mác biết là về đâu?
 Buồn trông nội cỏ dầu dầu,
 Chân mây mặt đất, một màu xanh xanh.
 Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
(Kiều câu 1047-1054)
Phải chăng thủ thuật đó đã cách điệu, nâng cao từ 
“ Buồn trông con nhện giăng tơ,
Nhện ơi, nhện hỡi!  Nhện chờ mối ai?  
Buồn trông chênh chếch sao Mai,
Sao ơi,sao hỡi!   Nhớ ai sao mờ?
(Ca dao). 
 Hoặc nghệ thuật cắt đôi cặp từ hay cụm từ, đan chéo như cách “ngẩn ngơ”nêu trên, để tăng tiến biểu cảm dạt dào nhiều cảm xúc thẩm mỹ thiết tha: (Lúc Kiều ở lầu xanh, chợt tỉnh giấc, than thở phận mình, “nhắm mắt, đưa chân, số kiếp đoạn trường”).
“Khi sao ong bướm rũ là?  
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường?  
 Mặt saodày gió dạn sương?  
 Thân sao bướm chán ong chường bấy thân? 
(Kiềucâu 1235-1238) .
Các cặp từ đã cắt, đan chéo nguyên là (ong rũ /bướm là;dày dạn/gió sương; bướm ong/chán chường) 
Đến“tóc rối”là tóc để rối do lòng buồn nên không buồn trang điểm; cũng có thể, có”người" , có gặp đối tượng mới sửa soạn, trang điểm, nếu đã vắng ai rồi,  còn trang điểm cho ai?
 Trâm cài xiêm giắt thẹn thùng
 Lệch vừng tóc rối, lỏng vòng lưng eo.
( CPNK-câu 191-192)
hay là
 Biếng cầm kim, biếng đưa thoi,
 Oanh đôi thẹn dệt, bướm đôi ngại thùa.
Mặt biếng tô, miệng càng biếng nói,
Sớm lại chiều dòi dõi nương song;
Nương song luống ngẩn ngơ lòng,
Vắng chàng điểm phấn, trang hồng với ai?  
 CPNK câu 231-236 .  
Bơ thờ” cùng nghĩa với “thẫn thờ”,” ngơ ngẩn” là lờ đờ như mất hết vẻ nhanh nhẹn, linh hoạt, vì lòng nặng sầu tư, tâm trạng hụt hẫng…(câu 3-4)
*Nối tiếp 4 câu (Các câu 5, 6, 7, 8) là nỗi niềm thầm nhớ gọi tên người ấy mỗi đêm, nhất là trong những đêm mưa buồn.  Có khi giở lại chồng thư cũ (giấy mỏng, tình xưa).  Trong thư từ, thường dùng giấy mỏng hay giấy pelure).  ”Tí tách”, từ tượng thanh,thanh âm tiếng mưa rơi.  ” Đèn lung linh”, ngọn đèn dầu khẽ lay động qua lại, rung rinh,uốn éo theo hơi gió nhẹ.  Khi có người di chuyển đến bên ánh đèn dầu hay nến, có thể làm cho ngọn đèn lay động, rung rinh, leo lét nhẹ, như sắp tắt mà không thể tắt … và chính những chi tiết đó đã làm cho nhân vật trữ tình lầm  tưởng như  có“người xưa đến tìm” , trở lại chốn cũ, nơi hẹn hò xưa.(câu 9-10)
*Tương tự, (khi nhớ về một nụ hôn), làn gió thu êm đềm, hiu hắt khẽ chạm vào đôi môi, tưởng như một nụ hôn ngày nào, bằng nhóm từ thể hiện tình cảm rất Tây Phương (môi mềm gắn môi), là hôn môi,  rất xa lạ vì người Đông Phương, thể hiện tình cảm âu yếm bằng mũi (hôn hít), để cảm nhận một chút  hơi quen thuộc, một chút  hương trong tóc, một chút say đắm men tình, tưởng chừng như có sự hiện hữu của hình bóng người xưa…( Câu 11-12)
Nội dung đoạn nầy gồm 10 dòng thơ thể hiện một tâm trạng…vấn vương buồn nhớ, mơ ước người xưa trở lại với mình, một cách thiết tha, âu yếm.
 (3) Đoạn kết,3 câu cuối.
 Tỉnh ra nào có tăm hao
Nam Kha một giấc, tim đau dạ hờn.
Trời Xanh sao khéo bông lơn!
 Khi trở về với hiện thực, (tỉnh ra), bàng hoàng đối diện với hư không thì chỉ là ảo tưởng, chiêm bao.  (Giấc Nam Kha).   
Giấc Nam Kha:
 Tích ông Lý Công Tá, đời Nhà Đường, một hôm nằm ngủ dưới bóng một cây Hòe (cây to thuộc họ đậu, lá kép mọc cách, hoa nhỏ màu vàng, quả thắt lại từng đoạn, trông như chuỗi tràng hạt, nụ hoa phơi khô dùng làm thuốc), được vua nước Hòe gã công chúa cho, một giai nhân sắc nước hương trời và được làm Phò Mã,  giữ chức Nam Kha Thái Thú…vinh hoa phú quý.  Ở  đời, được như thế là đắc chí, thỏa lòng…Bỗng giật mình thức dậy, chỉ là hư không.  Chợt nhìn lên cao, thấy ở cành Hòe phía Nam có một tổ kiến lớn. Vậy là một đất nước mà bé như một tổ kiến!  Nàng công chúa, Phò mã Thái Thú đều nực cười như đời…con kiến!  
Thấm thía về kiếp nhân sinh, gia đạo, tiền tài, công danh… đều nhỏ nhen, chẳng có gì vĩnh cửu, mà sao con người lại lấy điều đó làm cái mục đich bon chen một cách thấp hèn!  Ông liền viết tác phẩm  Nam Kha ký, tức là truyện “Cành cây phía Nam” để thể hiện quan niệm coi khinh tiền tài, danh lợi, thời thượng phù vân...
Đó là một tâm trạng đau xót, tủi lòng  (tim đau dạ hờn) cho số kiếp… không may.  Có thể Hải Vân đã tin vào mệnh số.  Số phận thế nhân, đều do Trời sắp sẵn ra cả:”Ngẫm hay muôn sự tại Trời”(Kiều, câu 3241) .  Nếu đúng như vậy, quả là trớ trêu và quá quắt.  Trời Xanh kia đã an bài mệnh số nghiệt ngã  cho con người, chỉ là trò cười (bông lơn) cho chính ông ta thôi.  Bảo sao số phận con người, ai ai cũng phải chịu những điều bi đát,phũ phàng!  Đời người là lâu sao? Chỉ dài trong phút chốc, trong gang tấc phù sinh!  Cuộc đời do Ông Xanh bông lơn cho thế nhân thật là vô nghĩa, của ý nghĩa mất-còn:
Trăm năm còn có gì đâu?
Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì!    
Đặc biệt ở câu cuối, là một câu lục nửa vời, như  câu cuối của bài “hát nói”  như  ngắt ngang, dìu dặt ý thơ chưa dứt, như ý thơ còn vương vấn, lắng đọng trong một dư âm  ngân nga, trầm lắng.  Điều đó, phải chăng  như một lời thở than, trách phận vu vơ, để an phận, để khẳng định lẽ đời,  đồng thời là một câu trách móc đầy bất lực về phận mình đối với Ông Xanh?!
Tóm lại,
Về nội dung,” Thu nhớ’ là một tình khúc toàn là “tông” trầm, luyến láy đầy vơi những điệu buồn muôn thuở, những cuộc tình đầy trắc trở, ngăn cách, chia xa.  Đi trên những con đường định mệnh đó, chắc chắn không ai là không đớn đau, thổn thức, trong những giây phút chạnh lòng về một mối tình đầu, tơ lòng vương mãi:
  “Ta muốn lòng ta cứ lạnh lùng
Gác tình duyên cũ thẳng đường trông.
Song le hương khói yêu đương cũ,
Phảng phất còn vương vấn cạnh lòng”
(Giây phút chạnh lòng/Thế Lữ)

Về hình thức nghệ thuật,”Thu nhớ” được dệt bằng tố chất, thơ lục bát dân gian. Chị Hải Vân có lẽ là một người dệt khéo léo, chị biết lựa chọn những chất liệu óng ả, bắt mắt và những hoa văn lộng lẫy cho một tấm gấm...tuyệt vời!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét