*Không gian thoảng chút hương trời,Nghe chừng hơi thở một thời ai trao.Hải Vân.vhp
Thu nhớ
Thơ Hải Vân.vhp
Lời bình Ngân Triều (Hậu Nghĩa)
Mùa thu là một trong
những đề tài hằng gắn bó với thi nhân xưa nay. Cảnh thu se buồn, kết hợp
với tâm trạng riêng…thường hình thành những vần thơ lai láng tình
sầu. Nguyễn Du cũng có câu “nửa tình, nửa cảnh…như chia tấm
lòng”. (Chia tấm lòng là mạch sầu chẳng khuây, là buồn không dứt hay
buồn miên man). Khi tình cờ, đọc đoạn đầu của một bài thơ mùa
thu, tôi cảm thấy rộn ràng những cảm xúc thương đời, thương người nhất là những
tình yêu phải trắc trở, phải đoạn tuyệt, phải chia lìa…đáng thương:
Từ vào thu đến
nay
Gió thu hiu hắt,
Sương thu lạnh,
Trăng thu bạch,
Khói thu xây thành,
Lá thu rơi rụng đầu
ghềnh,
Sông thu đưa lá, bao
ngành biệt ly.
(Cảm thu, tiễn thu/
Tản Đà)
Chúng ta rất dễ
nhận ra. Mỗi dòng thơ đều dệt một
chữ “thu”, thể hiện một không gian tiêu sơ, cô quạnh,
lạnh lẽo, hữu tình, chia xa… Cái hay là tác giả đã gom góp, quy nạp từng
chi tiết đặc trưng… để cuối cùng hội tụ tại thành một dòng xoáy đột ngột, bất
ngờ ,vô cùng mạnh mẽ là biệt ly… Biệt ly là mãi mãi dấn bước theo hai hướng
ngược chiều. Đôi tình nhân sẽ không bao giờ còn có cơ hội gặp lại nhau
nữa! “ bao ngành biệt ly” là có rất nhiều sắc thái biệt
ly. Rồi thì mãi mãi cách xa! Riêng đối với những người
trong cuộc tình thì biệt ly chỉ còn là những nhớ nhung, kỷ niệm, tiếc
nuối; chỉ còn là cố nhân của nhau, cho dẫu thời gian có phôi pha, tạm lành
những rạn vỡ trong tim….Với những nhớ nhung trong mùa thu, “Thu nhớ”, có lẽ Hải
Vân đã chấp bút bài tình thu đượm buồn trong một tâm trạng ai hoài:
THU NHỚ
Hải Vân
Hải Vân
***
Người ơi, xa cách
nghìn trùng, (1)
Núi cao sông thẳm, mịt
mùng tăm hơi.
Vắng ai vào ngẩn ra
ngơ,
Vắng ai tóc rối bơ thờ
buồn tênh.
Đêm đêm thầm nhớ gọi
tên, (5)
Buồn nghe tí tách bên
thềm rơi mưa.
Thẩn thờ giấy mỏng
tình xưa,
Đèn lung linh, tưởng
người xưa đến tìm.
Gió thu mơn trớn êm đềm,
Tưởng người năm ấy môi
mềm gắn môi.(10)
Không gian thoảng chút
hương trời,
Nghe chừng hơi thở một
thời ai trao.
Tỉnh ra nào có tăm hao
Nam Kha một giấc, tim
đau dạ hờn.
Trời Xanh sao khéo
bông lơn!(15)
*Bài thơ có thể chia
làm 3 đoạn:
(1)Đoạn đầu,2 câu thở than về người lữ thứ diệu vợi,bặt tin.
Ngườiơi,xa cách nghìn
trùng, (câu 1)
Núi cao sông thẳm, mịt
mùng tăm hơi.
Mở đầu bài thơ là một không gian trải rộng bao la của người đi
xa (xa cách nghìn trùng), với những hình ảnh ngăn cách
đầy khó khăn gian khổ, như ngạo nghễ, thách thức sức người hữu hạn,
nhất là nghị lực nữ nhi (núi cao,sông thẳm). “Mịt mùng” là bị bóng tối bao phủ khắp nơi, không thể nhìn thấy
gì. ”tăm hơi”tổ hợp từ có tăm là những bọt nhỏ dưới
nước,lâu lâu mới nổi lên như “ tăm cá” : có bọt sủi
lên ở dưới nước là có cá ở đó, hơi là hơi thở mà cũng là
mùi đặc trưng của sinh vật. “Tăm hơi” cùng nghĩa với “tăm
hao”, (hao=âm hao=tin tức) . “Mịt mùng tăm hơi” hoặc “nào có
tăm hao”(câu 13) tức là mất biệt, không hề biết tin tức, tung tích, mở rộng
ý tưởng là hư ảo, không có thực. Người ơi, hô ngữ, vừa là lời than thở, vừa là lời trách móc.
Sao” người”
nỡ gây chi cảnh ngăn cách, chia ly, nếu không nói rất là bạc tình bạc
nghĩa. Người đã quay lưng, đi biền biệt nơi góc biển chân trời nào
đó, lại bặt tin, vô âm tín. Đường đi thì ngăn sông cách núi, hiểm
trở, gian nan… làm sao gặp người?! Ngăn sông, cách núi, đành phải biệt ly! Ôi! Một trời thu nhung
nhớ …
(2) Đoạn giữa, Xin đọc tiếp:
Vắng ai vào ngẩn ra
ngơ, (câu
3)
Vắng ai tóc rối bơ thờ
buồn tênh.
Đêm đêm thầm nhớ gọi
tên,(câu 5)
Buồn nghe tí tách bên
thềm rơi mưa.
Thẫn thờ giấy mỏng
tình xưa,
Đèn lung linh,tưởng
người xưa đến tìm.
Gió thu mơn trớn êm
đềm,
Tưởng người năm ấy môi
mềm gắn môi.(câu 10)
Không gian thoảng chút
hương trời,
Nghe chừng hơi thở một
thời ai trao. ( câu 12).
Rõ ràng một số biện pháp tu từ kết
hợp với những nhóm từ chọn lọc, với nhiều từ lái, tạo âm điệu uyển chuyển, nhịp
nhàng, hài thanh, tượng hình … rất độc đáo. Cụ thể là:
*Điệp từ “vắng
ai”, nhấn mạnh” người” vắng xa “người”, để
đến nỗii“buồn tênh”. Buồn tênh là một nỗi buồn như buồn hiu, nỗi buồn được
cảm nhận bằng cả một sự thiếu vắng miên man… làm cho tâm hồn phải“ngẩn ngơ”
trăm mối. Hai câu nầy (3,4) có giai điệu như 2 câu ca dao về nỗi nhớ
thiết tha :
“Nhớ ai ra ngẩn vào
ngơ,
Nhớ ai,ai
nhớ,bây giờ nhớ ai?”.
Từ lái “ngẩn
ngơ” được cắt đôi, đan chéo với cặp động từ“vào ra” cũng
cắt đôi thành một cụm từ mới“vào ngẩn ra ngơ” để tăng cường biểu đạt từ ngẩn ngơ một cách mượt mà. Nguyễn Du cũng đã
sử dụng phong cách dân gian, để thơ trở nên linh hoạt, gợi tả một cách thẩm mỹ,
nao lòng. Cụ thể như thủ pháp sử dụng điệp từ trong bức tranh tâm
trạng, Kiều ở Lầu Ngưng Bích: ”Buồn trông cửa bể chiều
hôm,
Thuyền ai thấp
thoáng cánh buồm xa xa.
Buồn trôngngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác
biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ dầu dầu,
Chân mây mặt
đất, một màu xanh xanh.
Buồn trông gió
cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu
quanh ghế ngồi.
(Kiều câu 1047-1054)
Phải chăng thủ thuật
đó đã cách điệu, nâng cao từ
“ Buồn trông con
nhện giăng tơ,
Nhện ơi, nhện
hỡi! Nhện chờ mối ai?
Buồn trông chênh chếch sao Mai,
Sao ơi,sao
hỡi! Nhớ ai sao mờ?
(Ca dao).
Hoặc nghệ thuật
cắt đôi cặp từ hay cụm từ, đan chéo như cách “ngẩn ngơ”nêu trên, để
tăng tiến biểu cảm dạt dào nhiều cảm xúc thẩm mỹ thiết tha: (Lúc Kiều ở
lầu xanh, chợt tỉnh giấc, than thở phận mình, “nhắm mắt, đưa chân, số kiếp đoạn
trường”).
“Khi sao ong bướm rũ là?
Giờ sao tan tác như
hoa giữa đường?
Mặt saodày
gió dạn sương?
Thân sao bướm
chán ong chường bấy thân?
(Kiềucâu 1235-1238) .
Các cặp từ đã cắt, đan
chéo nguyên là (ong rũ /bướm là;dày dạn/gió sương; bướm ong/chán
chường) …
Đến“tóc rối”là
tóc để rối do lòng buồn nên không buồn trang điểm; cũng có thể, có”người"
, có gặp đối tượng mới sửa soạn, trang điểm, nếu đã vắng ai rồi, còn
trang điểm cho ai?
Trâm cài xiêm
giắt thẹn thùng
Lệch vừng tóc
rối, lỏng vòng lưng eo.
( CPNK-câu 191-192)
hay là
Biếng cầm kim,
biếng đưa thoi,
Oanh đôi thẹn
dệt, bướm đôi ngại thùa.
Mặt biếng tô, miệng
càng biếng nói,
Sớm lại chiều dòi dõi
nương song;
Nương song luống ngẩn
ngơ lòng,
Vắng chàng điểm phấn,
trang hồng với ai?
CPNK câu 231-236
.
“Bơ thờ” cùng
nghĩa với “thẫn thờ”,” ngơ ngẩn” là lờ đờ như mất hết vẻ nhanh
nhẹn, linh hoạt, vì lòng nặng sầu tư, tâm trạng hụt hẫng…(câu 3-4)
*Nối tiếp 4 câu (Các
câu 5, 6, 7, 8) là nỗi niềm thầm nhớ gọi tên người ấy mỗi đêm, nhất là trong
những đêm mưa buồn. Có khi giở lại chồng thư cũ (giấy mỏng,
tình xưa). Trong thư từ, thường dùng giấy mỏng hay giấy pelure). ”Tí
tách”, từ tượng thanh,thanh âm tiếng mưa rơi. ” Đèn lung
linh”, ngọn đèn dầu khẽ lay động qua lại, rung rinh,uốn éo theo hơi
gió nhẹ. Khi có người di chuyển đến bên ánh đèn dầu hay nến, có thể
làm cho ngọn đèn lay động, rung rinh, leo lét nhẹ, như sắp tắt mà không thể tắt
… và chính những chi tiết đó đã làm cho nhân vật trữ tình lầm tưởng
như có“người xưa đến tìm” , trở lại chốn cũ, nơi hẹn hò
xưa.(câu 9-10)
*Tương tự, (khi
nhớ về một nụ hôn), làn gió thu êm đềm, hiu hắt khẽ chạm vào đôi môi,
tưởng như một nụ hôn ngày nào, bằng nhóm từ thể hiện tình cảm rất Tây
Phương (môi mềm gắn môi), là hôn môi, rất xa lạ vì người
Đông Phương, thể hiện tình cảm âu yếm bằng mũi (hôn hít), để cảm nhận
một chút hơi quen thuộc, một chút hương trong tóc, một chút say đắm
men tình, tưởng chừng như có sự hiện hữu của hình bóng người
xưa…( Câu 11-12)
Nội dung đoạn nầy gồm
10 dòng thơ thể hiện một tâm trạng…vấn vương buồn nhớ, mơ ước người xưa trở lại
với mình, một cách thiết tha, âu yếm.
(3)
Đoạn kết,3 câu cuối.
Tỉnh
ra nào có tăm hao
Nam Kha một giấc, tim
đau dạ hờn.
Trời Xanh sao khéo
bông lơn!
Khi trở về với hiện thực, (tỉnh ra), bàng hoàng đối
diện với hư không thì chỉ là ảo
tưởng, chiêm bao. (Giấc Nam Kha).
Giấc Nam Kha:
Tích ông Lý Công
Tá, đời Nhà Đường, một hôm nằm ngủ dưới bóng một cây Hòe (cây to thuộc họ
đậu, lá kép mọc cách, hoa nhỏ màu vàng, quả thắt lại từng đoạn, trông như chuỗi
tràng hạt, nụ hoa phơi khô dùng làm thuốc), được vua nước Hòe gã công chúa cho,
một giai nhân sắc nước hương trời và được làm Phò Mã, giữ chức Nam
Kha Thái Thú…vinh hoa phú quý. Ở đời, được như thế là đắc chí, thỏa
lòng…Bỗng giật mình thức dậy, chỉ là hư không. Chợt nhìn lên cao,
thấy ở cành Hòe phía Nam có một tổ kiến lớn. Vậy là một đất nước mà bé như
một tổ kiến! Nàng công chúa, Phò mã Thái Thú đều nực cười như
đời…con kiến!
Thấm thía về kiếp nhân
sinh, gia đạo, tiền tài, công danh… đều nhỏ nhen, chẳng có gì vĩnh cửu, mà sao
con người lại lấy điều đó làm cái mục đich bon chen một cách thấp hèn!
Ông liền viết tác phẩm Nam
Kha ký, tức là truyện “Cành cây phía Nam” để thể hiện quan niệm coi
khinh tiền tài, danh lợi, thời thượng phù vân...
Đó là một tâm trạng
đau xót, tủi lòng (tim đau dạ hờn) cho số kiếp… không
may. Có thể Hải Vân đã tin vào mệnh số. Số phận
thế nhân, đều do Trời sắp sẵn ra cả:”Ngẫm hay muôn sự tại Trời”(Kiều,
câu 3241) . Nếu đúng như vậy, quả là trớ trêu và quá quắt. Trời Xanh kia
đã an bài mệnh số nghiệt ngã cho con người, chỉ là trò cười (bông
lơn) cho chính ông ta thôi. Bảo sao số phận con người, ai ai cũng phải chịu những
điều bi đát,phũ phàng! Đời người là lâu sao? Chỉ dài trong phút chốc,
trong gang tấc phù sinh! Cuộc đời do Ông Xanh bông lơn cho thế nhân thật
là vô nghĩa, của ý nghĩa mất-còn:
Trăm năm còn có gì đâu?
Trăm năm còn có gì đâu?
Chẳng qua một nấm cỏ
khâu xanh rì!
Đặc biệt ở câu cuối,
là một câu lục nửa vời, như câu cuối của bài “hát nói” như ngắt
ngang, dìu dặt ý thơ chưa dứt, như ý thơ còn vương vấn, lắng đọng trong một dư
âm ngân nga, trầm lắng. Điều đó, phải chăng như một lời thở
than, trách phận vu vơ, để an phận, để khẳng định lẽ đời, đồng thời
là một câu trách móc đầy bất lực về phận mình đối với Ông Xanh?!
Tóm lại,
Về nội dung,” Thu
nhớ’ là một tình khúc toàn là “tông” trầm, luyến láy đầy vơi những
điệu buồn muôn thuở, những cuộc tình đầy trắc trở, ngăn cách, chia
xa. Đi trên những con đường định mệnh đó, chắc chắn không ai là
không đớn đau, thổn thức, trong những giây phút chạnh lòng về một mối tình đầu,
tơ lòng vương mãi:
“Ta
muốn lòng ta cứ lạnh lùng
Gác tình duyên cũ
thẳng đường trông.
Song le hương khói yêu đương cũ,
Phảng phất còn vương
vấn cạnh lòng”
(Giây phút chạnh lòng/Thế Lữ)
(Giây phút chạnh lòng/Thế Lữ)
Về hình thức nghệ
thuật,”Thu nhớ” được dệt bằng tố chất, thơ lục bát dân gian. Chị
Hải Vân có lẽ là một người dệt khéo léo, chị biết lựa chọn những chất liệu óng
ả, bắt mắt và những hoa văn lộng lẫy cho một tấm gấm...tuyệt vời!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét