Khi nhớ, nhớ gì trong mộng tưởng, Nỗi riêng, riêng đến cả tình chung
Ta nhớ người xa cách núi
sông
Người xa xa có nhớ ta không?
Sao đương vui vẻ ra buồn bã?
Vừa mới quen nhau đã lạ lùng!
Khi nhớ, nhớ gì trong mộng tưởng
Nỗi riêng, riêng đến cả tình chung
Tương tư lọ phải là mưa gió (*)
Một ngọn đèn xanh trống điểm thùng
Người xa xa có nhớ ta không?
Sao đương vui vẻ ra buồn bã?
Vừa mới quen nhau đã lạ lùng!
Khi nhớ, nhớ gì trong mộng tưởng
Nỗi riêng, riêng đến cả tình chung
Tương tư lọ phải là mưa gió (*)
Một ngọn đèn xanh trống điểm thùng
(Bản
in theo sách Việt Văn Đệ nhị A B C D của Võ Thu Tịnh/ NXB Hải Vân Saigon/ trang
392)
Lời bình Thái Hy (Hậu Nghĩa)
*Tặng
Chị Hạ SPS
Trần Tế Xương
(1870-1907), tự là Tử Thịnh, hiệu là Vị Thành;
quê làng Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, Nam Định. Thân phụ là Trần Kế Nhuận, có cửa hàng buôn
bán ở Nam Định, làm chức Tự Thừa (?) nên còn gọi là Cụ Tự.
Trần
Tế Xương thông minh, hay chữ song lận đận mãi Cử Nhân, chỉ đỗ Tú Tài năm
1894. Vì chỉ đỗ Tú Tài, nên không được bổ
nhiệm làm quan, thời Hán học suy tàn, trong một xã hội mới nửa Ta nửa Tây (Thực
Dân-Phong Kiến). Do sĩ diện, không chịu
luồn cúi, chạy theo lá cờ tam sắc (Cờ Pháp) nên Ông phải sống trong cảnh nghèo
khổ vì hỏng thi mãi (8 khoa, vị chi 23 năm).
Con đông. Việc mưu sinh gieo neo
phó mặc cho người vợ hiền tần tảo, nhất là từ lúc lãnh nợ cho bạn, bạn không trả
nổi phải bán nhà trả nợ…
Tháng
giêng năm 1907, sau khi lại hỏng thi lần
nữa, (Khoa Thi Hương năm Bính Ngọ 1906),
ông rất buồn, đi bộ về quê Ngoại dự giỗ Tổ Tiên, mắc mưa, ướt sũng, cảm lạnh, vừa
đến nơi, trúng gió, trở bệnh, từ trần. Hưởng dương 37 tuổi.
Nguyễn Khuyến
(1835-1909) có viếng Ông 2 câu đối:
Kìa ai chín suối Xương không nát
Kìa ai chín suối Xương không nát
Có lẽ nghìn thu
tiếng vẫn còn.
(Đó
là một người, tuy đã từ trần nhưng Xương vẫn nguyên vẹn. Chắc rằng tiếng tăm còn lưu mãi hậu thế đến cả
nghìn năm.= Sự nghiệp văn chương của Trần Tế Xương, tuy đời ông ngắn ngủi, vẫn
sống mãi trong lòng người đời sau).
Sự
nghiệp văn chương của ông, gồm nhiều tác phẩm bằng chữ Nôm (ngày nay, đã diễn
ra bằng Tiếng Việt) đủ mọi thể loại văn
học: thơ, phú, hát nói, câu đối…văn phong
hóm hỉnh, trào phúng, sâu lắng, phản ánh hiện thực đa dạng; lời lẽ tự nhiên, bộc
trực, có những bài cười mình (tự trào)
nhưng cái cười chua chát quá, cay đắng quá, thê thiết quá, có cả tiếng cười mà giọng cười nghe chừng như cười đến rơi nước mắt, cũng có một số bài thơ phảng phất những tâm tư trầm lắng nhạt nhòa. Bài “Nhớ bạn phương trời” là một bài tiêu biểu.
Trong Văn Học Sử,
Ông được xếp cùng với Nguyễn Khuyến là những tác giả tiêu biểu cho khuynh hướng
Văn học Hiện Thực Trào Phúng.
*Chủ đề bài thơ nằm trong tiêu đề minh bạch,
cụ thể là nhớ đến một người bạn đang ở xa lắm, tận phương trời nào. Song “bạn
phương trời” tác giả không cho biết là ai.
Những nhà nghiên cứu văn học khẳng định đối tượng trong bài thơ là Phan
Bội Châu , 潘佩珠, (26/12/1867 – 29/10/1940),một nhà cách mạng, chủ xướng Phong trào Đông Du, đưa khoảng 200 sinh viên VN sang Nhật học tập thành tài rồi sẽ trở
về quê hương kháng chiến và lật đổ Pháp, nhưng phong trào thất bại vì Nhật đã
thông đồng với Pháp. Ông bị bắt, bị giam
lỏng ơ Huế.
Ông PBC, lớn hơn Tú Xương 3 tuổi, mất sau Tú Xương 31 năm, hưởng thọ 72 tuổi).
*Bài
thơ trên được cấu trúc theo thể thơ thất
ngôn bát cú (7 tiếng, 8 câu) Đường luật, luật trắc (nhớ), vần bằng (sông).
Hai câu đề: (những nỗi niềm băn khoăn, nhung nhớ)
Ta
nhớ người xa cách núi sông
Người xa xa có nhớ ta không?
Người xa xa có nhớ ta không?
Sự mong nhớ đã thể hiện một cách tự nhiên như một câu nói, khẩu
ngữ bình thường. Một tiếng lòng cất cao
trực tiếp, không nói vòng vo của mẫu người thực thà, bộc trực, nghĩ sao nói vậy(ta nhớ). Ta nhớ ai?
Đối tượng là một người duy nhất (người
xa cách núi sông, hay người xa xa). Ta nhớ người đang ở xa. Ta nhớ người ấy. Đồng
thời, ta cũng băn khoăn tự hỏi, không biết, người ấy có nhớ ta không? Tác giả đã cô
đọng điều đó bằng một câu hỏi tu từ để nhấn mạnh nỗi niềm băn khoăn, ray rứt.
Bốn câu thực và luận: (Nhớ bạn qua
tính cách, qua những kỷ niệm và cả tấm lòng tha thiết, miên man).
Sao
đương vui vẻ ra buồn bã?
Vừa mới quen nhau đã lạ lùng!
Khi nhớ, nhớ gì trong mộng tưởng
Nỗi riêng, riêng đến cả tình chung
Vừa mới quen nhau đã lạ lùng!
Khi nhớ, nhớ gì trong mộng tưởng
Nỗi riêng, riêng đến cả tình chung
Hai cặp nầy theo qui định phải đối nhau. Đó là chuyện đúng luật, và đúng kết cấu của
Thơ Đường. Xưa, hai cặp câu thơ nầy nếu không
đối, không phải thơ Đường! Không đối
nhau được thì thơ không ra thơ và bị người đọc phê phán. (Nay,
chuyện đối nêu trên không còn gò bó, bắt buộc nữa. Có đối, cũng tốt. Mà không đối nhau được, cũng xong. Một bài thơ bảy-chữ -tám-câu “trình làng”, không có đối ở thực-luận, được gọi là Thơ Đường biến thể hiện đại hay
Thơ Mới, rất khoáng đãng, rộng rãi cho người làm thơ). Ở đây
hai cặp thực-luận đối nhau hoàn chỉnh đã đành (vui-buồn >< quen-lạ, đối ở cặp thực);
(nhớ-tưởng>< riêng-chung, ở cặp
luận) mà riêng trong mỗi câu, đều được tác giả chọn lọc, sử dụng nghệ thuật đối rất tài tình: (vui><buồn; quen><lạ; nhớ >< tưởng; riêng><chung). Như vậy, tác giả không những đối đúng ở cặp
thực-luận mà tài hoa biết bao, ở mỗi câu còn hình thành một cặp tiểu đối nhấn mạnh tâm tình .
Đó là mạn đàm về hình thức nghệ thuật.
Về nội dung, ở hai câu thực,tác giả đã khắc họa một tính cách lạ lùng của người bạn. Một
tính cách có thể là phức tạp, khó hiểu về mặt tình cảm.
Tại sao đương lúc vui vẻ, như khi vừa mới quen
nhau mà chỉ trong một thoáng, đã trở nên buồn bã và lạ lùng? Có phải chăng đó là một tính cách của một con
người muốn đảm bảo cho công việc bí mật vì nước vì dân của mình, khi xung
quanh, nhiều người khó tin, e có điều nguy hiểm? Vui vẻ
là vui với bạn bè, với tác giả. Buồn bã là rất buồn, rất băn khoăn ,rất
đa đoan, sắc diện xa vắng, mãi bận lòng cho sự nghiệp cách mạng có thể còn có
nhiều bất cập, khó khăn. Đó chính là một
nét, một phong cách riêng của một người cẩn thận, dè dặt trong sự nghiệp lớn, sự
nghiệp yêu nước bí mật của mình.
Về
những tình cảm tưởng nhớ đến bạn hay hồi tưởng những kỷ niệm ân tình, nỗi riêng,
tình chung. Nỗi riêng là kỷ niệm về
tình bạn. Tình chung, chắc là tấm lòng
vì tiền đồ tổ quốc. Tất cả những điều
đó, tất cả những mong mỏi gặp nhau, tất cả kỷ niệm và hoài bảo, thật khó thành
hiện thực biết bao! Mộng tưởng là mong mỏi, ao ước quá xa vời. Có gặp nhau chăng chỉ
còn trong tưởng tượng, trong giấc mộng mà thôi. Người ở phương trời, đa đoan việc lớn, làm thế nào hội ngộ? Đành phải như vậy thôi. Không còn cách nào hợp lẽ!
Bốn câu thơ chân chất, khắc họa tâm trạng
mong nhớ về người bạn xa cách, thể hiện nỗi lòng mình. Qua đó, Trần Tế Xương không chỉ là một nhà thơ
hiện thực trào phúng mà ông còn là một nhà thơ kín đáo, nhiều uẩn khúc về cảnh nước mất nhà tan, trong thời thế bấy giờ. Nợ đời và nợ tình đã “giam chí lớn, vòng cơm áo”, (Nguyễn Bính, Hành phương Nam), ông cũng đành nhắm mắt đưa chân, trôi giạt theo số phận đẩy đưa, trong hoàn cảnh
lỡ thầy lỡ thợ của kiếp nghèo…
Hai
câu kết:
( Nhớ đến nhau là đương nhiên, tha thiết).
Tương tư lọ phải là mưa
gió (1)
Một ngọn đèn xanh trống điểm thùng
Một ngọn đèn xanh trống điểm thùng
Thật vậy. Trong tình yêu
đôi lứa, trai-gái, hay thời tiết, mưa-gió,
thì sự gắn bó nhau một cách lưu luyến là một chuyện đương nhiên. Nỗi lòng mong nhớ của tác giả, tương tư, không cần phải là, lọ
là, gắn bó nhau như mưa gió. Không cần gần gũi nhau, nỗi nhớ vẫn không
nguôi. Tuy nhiên, tôi nhớ bạn thiết tha
biết bao, khi ngồi bên bàn viết ban đêm, một
ngọn đèn xanh, để thấy đêm năm canh trằn trọc, trăn trở, không thể nào ngủ
được và để nghe bước chân thời gian, tiếng trống sang canh lần lượt, vô tình, vang vọng mồn một trong tâm
tư, trống điểm thùng.
*Nhớ bạn phương trời của Trần Tế Xương là một tình khúc
trầm buồn, khơi dậy những nỗi nhớ nhung sâu thẳm trong tâm tưởng về một người bạn
cùng thế hệ đã mịt mù ở phương trời đang hết lòng lo cho đại sự, cho nước, cho
dân. (Phan Bội Châu). Đó cũng chính là
giai điệu tiếng lòng bay bổng của một tấm lòng đậm nhạt yêu nước,
yêu dân, bất lực của một nhà thơ trào phúng hoài vọng về thời thế trong một đêm
đen.
-------------------------------------------------------------------------------------------------
Ghi chú: (*) Có dị bản ghi là Tương tư lọ phải là trai gái (*)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét