Chuyện Bác Ba Phi
Bác Ba Phi là ai ?
Nhân vật
nguyên mẫu của Bác Ba Phi là nghệ nhân Nguyễn Long Phi (1884-1964). Ông vốn là một nông dân tại huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau, vốn có khiếu kể chuyện rất phong phú và đặc sắc, được nhiều người ưa thích.
Ông sinh năm 1884 tại tỉnh Đồng Tháp,
do gia đình quá nghèo nên từ nhỏ ông phải đi cày thuê để nuôi tám người
em nhỏ. Khi 15 tuổi, mẹ ông qua đời, ông trở thành một lao động chính
trong gia đình. Tuy cuộc sống cơ cực, ban ngày phải đi khẩn hoang, cày
cuốc ruộng vườn, nhưng đến ban đêm, ông thường tham gia tụ họp đờn ca,
và được bà con trong xóm mê tiếng ca và nể trọng tính tình vui vẻ, bộc
trực, khẳng khái, đặc biệt là những câu chuyện kể và cách kể truyện lôi
cuốn người nghe của ông.
Vốn
làm tá điền cho Hương quản Tế – một địa chủ giàu có vùng Bảy Ghe, ông
được Hương quản Tế hứa gả cô con gái là Ba Lữ với điều kiện phải làm
công trong ba năm. Nhờ sức chịu thương chịu khó, nên sau ba năm thì ông
cưới được vợ. Cũng do điều này mà Hương quản Tế rất yêu thương người con
rể này và đã cắt chia cho vợ chồng Ba Phi khá nhiều đất. Cộng với sự
cần cù sẵn có, ông đã ra sức khai khẩn
phần đất được chia thành đồng ruộng cò bay thẳng cánh.
Hai
người lấy nhau một thời gian mà không có con, vì vậy bà Ba Lữ đã đứng
ra cưới vợ hai cho chồng. Bà này sinh được một người con trai là Nguyễn
Tứ Hải. Không rõ vì lý do gì mà khi Nguyễn Tứ Hải mới ba tuổi, bà đã gửi
con cho chồng rồi về quê ở Mỹ Tho cho đến lúc qua đời. Ông Nguyễn Tứ
Hải về sau lập gia đình với bà Nguyễn Thị Anh, sinh hạ một người con
trai – cháu đích tôn của bác Ba Phi – tên là Nguyễn Quốc Trị. Trong
những câu chuyện của bác Ba Phi thì đây chính là nhân vật thằng Đậu nổi
tiếng. Và cũng có thành ngữ “Tệ như vợ (thằng) Đậu” được dùng để chỉ
những người vụng về.
Về sau bác Ba Phi cưới thêm vợ ba.
Bà tên Chăm, là người dân tộc Khmer. Bà sinh được hai đứa con gái.
Bác Ba Phi qua đời ngày 3 tháng 11 năm 1964 tại rừng U Minh Hạ, nay là ấp Đường Ranh, xã Khánh Hải, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau. Phần mộ của ông được đặt giữa hai ngôi mộ của bà Ba Lữ và bà Chăm tại ấp Đường Ranh, xã Khánh Hải nằm ở một góc rừng U Minh Hạ.
Hiện nay, khu nhà và mộ phần của bác Ba Phi được xây dựng thành tuyến du lịch văn hóa của tỉnh Cà Mau.
Những nét đặc sắc văn học
Bác Ba Phi thuộc lớp hậu duệ của những tiền nhân đi khai mở đất rừng U Minh.
Cả quãng đời, mà đặc biệt là thời tuổi trẻ của bác Ba Phi, là quá trình
khai phá đất rừng U Minh nguyên sinh, vốn rất hào phóng mà cũng lắm
khắc nghiệt. Với tinh thần khai phá, tính lạc quan yêu đời, thế giới
quan của ông hiện ra thật sinh động và đáng yêu.
Những
câu chuyện kể của ông, truyện nào cũng mang lại cho người nghe trước
hết là tiếng cười sảng khoái, mượt mà âm sắc trào lộng, rất đặc hiệu Ba
Phi, đồng thời nó còn ẩn chứa tính hào hùng của
lớp người
đi mở đất, tính cách đặc trưng Nam Bộ, lòng yêu thương thiên nhiên và
con người.
Cho
đến tận ngày ông qua đời, không có một văn bản nào chính thức có ghi
chép lại những câu chuyện do ông kể, kể cả người trong thân tộc ông.
Những câu chuyện kể của bác Ba Phi là những câu chuyện truyền miệng. Tuy
nhiên, nó cũng đầy đủ hình thức cấu trúc văn học: mở đề, thắt nút và
kết thúc. Một mặt, nó cũng hao hao một loại tiểu thuyết chương, hồi rút
gọn, dù có đảo lộn trật tự thế nào cũng giữ được ý nghĩa và tính xuyên
suốt của những câu chuyện kể độc lập.
Những
câu chuyện của bác Ba Phi, do tính chất “truyền miệng”, vì vậy thường
bị “biên tập” hoặc “hiệu chỉnh” lại trong quá trình câu
truyện “lưu lạc”. Thêm vào đó, cũng có không ít những câu chuyện do
người khác sáng tác, nhưng vẫn lấy danh xưng bác Ba Phi.
Những
nhân vật lưu truyền trong dân gian phản ánh gần như trung thực tâm tư,
nguyện vọng cũng như tính nết của người dân. Nhận xét đó của các nhà xã
hội học cho phép chúng ta có thể tìm hiểu ít nhiều dân tộc tính qua
những chuyện kể trong nhũng câu chuyện
hàng ngày.
Địa
dư nước ta chia thành ba miền rất rõ rệt. Những điều kiện sinh hoạt,
khí hậu, tạo cho mỗi vùng một sắc thái riêng biệt. Chỉ cần quan sát cách
ứng xử trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta có thể rút ra nhiều minh
chứng của nét dị biệt của cư dân các vùng Bắc Trung Nam của đất nước.
Bài viết này không nhằm mục đích đào sâu sự khác biệt giữa người dân ba
miền mà chỉ cốt nêu lên một nhận xét có tính hiển nhiên, để từ đó rút ra
một cái nhìn tích cực.
1. Những nhân vật dân gian
Trong số những nhân vật dân gian ngoài Bắc, người ta phải kể đến hai nhân vật chính: Trạng Quỳnh và Chú Cuội.
Quỳnh
là một nhân vật có thật vào thời
cuối nhà Hậu Lê, nổi tiếng là nhanh trí và ứng phó giỏi. Quỳnh làm quan
trong triều, dùng tài hay chữ của mình để trêu chọc mọi người, từ Chúa
đến dân hèn, từ giai cấp sĩ phu đến lớp người vô học. Ở đâu, lúc nào ông
cũng tìm thấy đề tài để bỡn cợt, trêu chọc. Lâu dần, nhân vật Quỳnh đi
vào dân gian, người dân kể cho nhau nghe, thêm bớt những chi tiết trong
những câu chuyện về Quỳnh, khiến những chuyện kể bị dân gian hóa, trở
thành huyền thoại, và cứ chuyện nào có tính châm chọc cay chua hay bỡn
cợt đều được gán cho Quỳnh. Trái với Quỳnh, Cuội xuất thân từ lớp dân
nghèo, dốt nát, chịu không biết bao nhiêu sự áp bức. Vũ khí Cuội tự
trang bị cho mình để sống còn là nói dối. Thành ngữ “nói dối như Cuội”,
“hứa cuội” hay
“nói nhăng nói cuội” đã nói lên điều đó. Cuội nói dối như thật, chỉ khi
nào xong chuyện người ta phối kiểm lại mới biết bi lừa, Cuội dùng tài
nói dối như thật của mình để phỉnh gạt người khác, nhất là những người
giàu có, ỷ quyền thế, tiền bạc. Ngoài ra còn phải kể đến hai nhân vật Ba
Giai, Tú Xuất tuy không được biết đến nhiều và được coi là phó sản của
hai nhân vật trên. Cũng vậy, so với các phần còn lại của đất nước, người
dân miền Bắc che giấu mình kỹ hơn. Cách suy nghĩ “Nát giậu cũng còn bờ
tre” hay “nào ai có khảo mà mình lại xưng” v.v… chỉ rõ cho ta thấy người
miền Bắc không chấp nhận thua kém, dù trên hình thức.
Miền
Trung đất hẹp, nghèo nàn. Dân chúng không sống tập trung như đồng bào
ngoài Bắc do phải phân bố dọc theo những mãng đồng bằng khô khan nhỏ bé
cạnh bờ biển. Do điều kiện sinh sống vô cùng khó khăn, kinh tế không
mấy phát triển, lại phải đương đầu gần như thường trực với thiên tai,
không hạn hán thì bão lụt, người dân không có được nhiều cơ hội để tiếp
xúc nhau, nên chúng ta không lấy làm lạ khi không thấy những nhân vật có
tính cách đại chúng như Trạng Quỳnh hay chú Cuội. Vã lại, hình thể địa
lý của miền Trung trải quá dài. Người dân thuộc Thanh Hoá, Nghệ An, Hà
Tỉnh đã khác Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên; nói chi đến cư dân các
vùng thuộc cực nam Trung Kỳ như Nha Trang hay vùng Tam Phan (Phan Rang,
Phan Rí, Phan Thiết).
Một
nhân vật dân gian của miền Trung là chú Lía, nhưng đó là một
nhân vật lịch sử, xuất thân từ lớp dân nghèo, giỏi võ và có biệt tài
chạy rất nhanh, nổi dậy chống quan lại tham ô và bọn cường quyền, bị
quan quân triều đình bóp chết từ khi lực lượng còn trong trứng nước.
Phạm vi hoạt động của chú Lía thuộc vùng Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình
Định, tương đối gần với kinh đô Huế, nên không có nhiều ảnh hưởng đến
người dân thường. Có chăng là còn lại trong câu hát ru con:
Chiều chiều én liệng Truông mây
Cảm thương chú Lía bị vây trong thành
Cảm thương chú Lía bị vây trong thành
Miền
Nam chỉ mới thuộc về Việt Nam sau này. Khởi đầu là đất của Miên, sau do
chính sách di dân theo kiểu tầm ăn dâu, người Việt chiếm dằn lãnh thổ
của người Miên. Cũng phải ghi nhận công
khai phá của những di thần nhà Minh và bộ hạ, không chịu theo Mãn Thanh
như Dương Ngạn Địch vùng Cù Lao Phố, Nông Nại (Biên Hòa, Đồng Nai), hay
Mạc Cửu ở Hà Tiên, sau đó dâng cho Chúa Nguyễn. Những người Việt tiền
phong phần đông là thuộc vùng Nam Ngải Bình Phú đi vào; một số khác là
tù binh của Trịnh do Nguyễn bắt được trong cuộc nội chiến, hay là những
tội đồ bị lưu đày. Họ là những người nghèo đói, những kẻ vong mạng, ít
học… mong tạo cho mình một cuộc đời mới và họ tìm thấy nơi đây đất lành
chim đậu. Họ chiến đấu với thú dữ, muỗi vắt, thiên nhiên hoang dã nhưng
giàu có và hào phóng:
Trên rừng muỗi kêu như sáo thổi,
Dưới nước đỉa lộinhư bánh canh
…
Xứ đâu có xứ lạ lùng
Con chim kêu cũng sợ, con cá vùng cũng kinh
…
Chiều chiều quạ nói với diều
Cù lao Ông Chưởng có nhiều cá tôm.
Dưới nước đỉa lộinhư bánh canh
…
Xứ đâu có xứ lạ lùng
Con chim kêu cũng sợ, con cá vùng cũng kinh
…
Chiều chiều quạ nói với diều
Cù lao Ông Chưởng có nhiều cá tôm.
Người
Miên không chịu được sự ẩm thấp nên chiếm hết các vùng cao ráo gọi là
giồng do phù sa hai con sông Tiền và sông Hậu bồi đắp. Người Việt cứ
thoải mái khai thác vùng đất hoang bạt ngàn, những con người tiền phong
đó cứ từng bước đặt những bước chân nam tiến vững chãi cho đến phần đất
cuối cùng của bán đảo. Trong số những người tiền phong đó có lẽ có một
người trọng tuổi thứ ba, tên Phi, gọi theo cách miền Nam: Bác Ba
Phi; cư ngụ và khai phá vùng U Minh, Cà Mau, vùng đất phèn thuộc lưu
vực sông Ông Đốc. Bác Ba Phi phá rừng làm rẩy , ruộng, bắt cá, ăn ong…
đem sản phẩm ra chợ Bảy Sào bán, mua lại khô, muối, vật liệu nông ngư
nghiệp. Bác Ba Phi có lẽ là nhân vật rất điển hình của lớp người tiền
phong khai thác vùng bên kia sông Hậu. Thời gian Bác Ba Phi sống, qua
các chuyện kể về Bác Ba Phi, có lẽ vào cuối thế kỷ 19 khi người Pháp đã
đặt xong cơ cấu thực dân của họ. Những câu chuyện về Bác Ba Phi thường
là những chuyện do bác kể lại sinh hoạt của bác, nhân những lúc trao đổi
hàng hóa ở chợ Bảy Sào, phản ánh cá tính của người dân Nam bộ: xốc nổi,
sống cho ra vẻ con người điệu nghệ… Bác kể chuyện sinh hoạt của bác,
thêm mắm dặm muối trở nên hấp
dẫn hơn, cường điệu hơn và thường chấm dứt một cách ngộ nghĩnh, thú vị
bất ngờ, khiến người nghe bật cười thính thú, biết là người kể nói dóc
mà cũng không giận vì chẳng hại gì cho ai. Ta cứ hãy tưởng tượng, có một
nông dân trạc trung niên, nhân lúc chờ con nước để bơi xuồng về, ngồi
nhâm nhi ly rượu đế, kể những chuyện lạ mà người dân ở chợ không biết,
và vì là những chuyện lạ nên mặc tình anh ta thêm thắt chi tiết, nhiều
khi quá đáng (xem chuyện Tàu Rùa, Ba Phi làm lúa). Lâu dần, chuyện cứ
lan ra, người ta thấy ngộ, kể đi kể lại, tam sao thất bổn, riết thành
chuyện dân gian. Ở miền Nam, nhất là nông thôn vùng đồng bằng Nam Bộ,
trong các lễ cưới, hỏi, ma chay, người dân thường hay tụ họp ở nhà gia
chủ thâu đêm, họ kể cho
nhau nghe đủ thứ chuyện: tích Tàu, chuyện tiếu lâm… trong số những
chuyện kể, đôi khi có những chuyện của Bác Ba Phi… Đến bây gìờ, trong số
các chuyện được kể lại không biết chuyện nào là chuyện do bác kể,
chuyện nào là do chính người kể bịa đặt và gán cho Bác Ba Phi. Chỉ biết
đó là những chuyện tiếu lâm không tục, nhũng chuyện nói dóc có hệ thống
mà người nghe thường chỉ nhận ra khi hết chuyện. Đó là lối giải trí nhẹ
nhàng, dí dỏm, biểu thị tính cởi mở, xởi lởi của người dân miền Nam, và
lúc nào cũng chấm dứt bằng câu:”hổng tin hỏi bả coi” như một khẳng định chuyện có nhân chứng haün hòi.
*
* *
* *
Như
đã nhận xét ở trên, nếu những chuyện
kể dân gian phản ánh phần nào cá tính của người dân, thì qua những nhân
vật điển hình của ba vùng kể trên, ta có thể nhìn thấy những khác biệt
rất tiêu biểu trong cách ứng xử hàng ngày của người dân thuộc ba vùng
khác nhau của đất nước, để qua đó chúng ta có thể hiểu biết sâu sắc hơn,
dễ thông cảm cho nhau hơn và do đó dễ tha thứ cho nhau hơn. Có một cách
nhìn tích cực, chúng ta mới mong xóa bớt những mặc cảm phân biệt địa dư
lâu nay vẫn tiềm ẩn trong tâm tính người Việt chúng ta.
2. Chuyện kể về Ba Phi
Nhũng
chuyện kể về Trạng Quỳnh có rất nhiều, và có những chuyện rất hay, biểu
hiện sự thông minh, ứng xử bén nhạy, tinh tế… Những chuyện Quỳnh đấu
trí với sứ Tàu là những
chuyện thú vị, linh hoạt. Cũng có những chuyện khác, mà chúng tôi nghĩ
do người kể gán cho Trạng Quỳnh, lâu dần chẳng còn biết đâu thật giả và
thường để lộ rõ tính chất khôn lanh vặt, luôn tranh hơn với người khác,
kể cả việc phải dùng đến thủ đoạn để đạt được phần hơn. Quỳnh không chịu
thua bất kỳ ai, từ Vua Chúa, quan lại, bọn nhà giàu, đến ngay cả sứ
Tàu, Vua quan Tàu…Quỳnh chỉ có thua đàn bà, bà Đoàn thị Điểm, có lúc
phải nhờ vả đến cả bà Điểm để gở rối cho mình. Những chuyện kể về Trạng
Quỳnh và Chú Cuội đã được xuất bản khá nhiều.
Chuyện
về Chú Lía như đã trình bày ở trên, chúng tôi không có tài liệu, mong
những bậc thức giả đóng góp thêm, hầu có thể bổ túc thêm vào di sản văn
học
dân gian Việt Nam. Ở đây chỉ xin trích kể hai chuyện của Bác Ba Phi,
một đọc được đâu đó trên báo trước 75 ở Sài Gòn (chuyện Ba Phi làm lúa)
và một nghe kể trong một đám cưới ở nông thôn, Long Hồ – Vĩnh Long, sau
75 (chuyện tàu rùa). Chuyện chỉ kể lại theo trí nhớ, có thể có những
khác biệt, mong nghe được những đóng góp khác của bạn đọc.
Ba Phi kề chuyện làm lúa
Hồi
Qua với má sắp nhỏ về trấn trong đó, chung quanh chẳng có mấy người ở.
Phải bơi xuồng cả buổi mới ra đến xóm nhỏ ở đầu vàm, chừng năm bảy nóc
gia, trong đó có chú Phò người Quảng Đông mở một tiệm tạp hóa. Qua
thường ghé đó đổi mật ong, sáp để lấy thuốc giồng và dầu cù là con cọp
để xài từ từ. Khi nào bảnh cũng dám
xài sang mua vài ký đường phèn để dành uống trà. Bây giờ mấy em thấy
Qua coi khỏe ru, nhưng hồi nẳm mới về cặm dùi ở trỏng, cực trần ai khoai
củ … Trời vừa chạng vạng, quơ tay một cái, hốt cả bụm muỗi, nốc chừng
xị đế, chun vô nóp mặc tình cho muỗi hầu tàn. Cá mắm thôi khỏi bàn, của
trời để sẵn, cần cứ ra mương, vũng… miễn chỗ nào có nước, thọc tay xuống
là bắt được cá, lóc cỡ cổ tay chê nhỏ thả bỏ cho lớn; lớn chừng bắp
tay, cổ chơn mới chịu đem rộng trong khạp; ăn không hết, xẻ phơi khô, để
dành ra chú Phò hay chợ Bảy Sào đổi mấy thứ cần dùng. Cái cực nhứt là
làm lúa! Hồi mùa đầu qua mới về, nhân lúc nước nổi qua phát ngày phát
đêm, phá được chừng ba bốn chục công. chừng nước rút cỏ nằm ủ một lớp
dày
cả thước, sang tháng ba, chẳng cần bừa trục gì ráo, qua có sẵn vài chục
công nằm sẵn, chỉ chờ mưa xuống là sạ . Năm đó qua đổi sẵn chục giạ
giống rẩy xe của Miên, thứ này hột tròn mà trúng, lại ngon cơm mà nở
nồi. Qua tính nhẩm một công cho chừng chục giạ thì giá chót qua cũng có
hơn ba thiên lúa dư xài. Chừng bắt đầu sa mưa, Qua ngâm, ủ cho giống no
mình, nứt nanh rồi chất xuống ghe chèo riết vô đậu mé kinh. Đội thúng
lúa giống lội chừng một đỗi thì tới ruộng. Mèn ơi, sao nghe trên đầu
bung bung, hổng biết giống chi, chừng để xuống thì ôi thôi lúa không còn
một hột, mà trong thúng đầy nhóc chim, vậy mới dị đoan chớ! Qua cứ hồ
nghi không biết chuyện gì, ngó miết ra bờ kinh chờ má sấp nhỏ thì thấy
bả chân cao chân thấp đội thúng
giống trên đầu đi tới, còn trên đầu bả là một đám mây đen khi lượn lên
cao, khi xuống thấp, qua cũng chẳng biết là cái giống gì. Chừng bả tới
gần thì trời mẹ ơi! Chim! không biết là bao nhiêu con, cứ bay lên, xà
xuống, chúi mỏ vô thúng lúa giống mà ăn. Chừng bả tới nơi, thúng giống
cũng đầy nhóc chim. Thì ra xứ gì mà chim quá thể, nội chen nhau giành ăn
không thôi cũng chết cả đống. Điệu này thì làm sao mà sạ? Qua bèn nghĩ
ra một kế thần sầu, qua nói với bả bẻ một cành cây, khi đội thúng giống
từ ghe lên thì một tay vịn thúng, một tay thì quơ nhánh cây trên miệng
thúng, miệng thì hô hù hù cho chim nó sợ. Làm vậy mà một thúng khi vô
tới ruộng rồi cũng chỉ còn hơn phân nửa. Chừng qua bắt đầu sạ thì lúa
giống chỉ còn đủ cho hơn chục công.
Trối kệ! cũng cứ sạ chớ làm sao. Qua bắt dầu bưng giống xuống ruộng để
sạ. Mới liệng chừng vài nắm thì nghe bả la :”chèng đét ơi! Ông coi kìa
có hột lúa nào rớt xuống ruộng đâu” Qua dòm lại thì trời đất quỷ thần
ơi! Chuột! Chuột cố, chuột ông, chuột bà, cha mẹ, con, cháu, chắt, chút,
chít nhà chuột, hết cả họ hàng nội ngoại chú bác cô dì cậu mợ nhà chuột
ra sắp hàng hàng lớp lớp dưới ruộng, há mỏ chờ Qua vãi nắm lúa nào
xuống thì đớp hết trơn, chẳng rớt xuống ruộng một hột. Như vậy là công
cốc! Qua với bả đành đội giống về lại. Lại vịn thúng, quơ cành, miệng hù
đuổi chim lội ngược về ghe… Chừng về đến chòi thì chục giạ giống còn
lại chưa đầy một giạ… Vậy mà năm đó Qua thu về hơn ba thiên
lúa.
- Nói dóc cha nội, không sạ thì làm sao có lúa mà gặt?
- Ậy ! đừng có nóng, chú em! Để Qua vô ly này nữa rồi kể tiếp cho em nghe, Ba Phi này nói phải có lý thôi, chú em.
Đánh trót ly rượu đế, Bác Ba Phi chậm rãi kể tiếp:
Chuyện
như vầy: Qua về chòi ngồi bó gối nghĩ lung lắm. Mình bỏ xứ trôi nổi đến
đây cặm dùi mà như vầy đành chết đói sao? Con chim, con chuột, con cá…
con gì cũng sống, cũng sanh sôi nảy nở hàng đàn hàng lũ, mà con người
như mình đành không có lúa gạo mà chết sao? chỉ tại mình nghĩ không ra
thế thôi!.. Một bữa, xách mấy ký khô lóc xuống tiệm chú Phò đổi gạo, Qua
bỗng nảy ra ý hay: Nhờ chú Phò gởi ghe hàng mua giùm mấy chục tay lưới,
loại
hai phân vuông, nói với chú bắt cá bán lấy tiền trả cho chú, vốn lời
phân minh. Chú Phò một phần ham lời, một phần tin Qua nói không sai hẹn,
nên khứng giúp. Có lưới rồi qua lập thế giăng ngang đường chim bay về
mỗi tối. Trời nhá nhem là chim mỏ nhác không thấy đường, nó chỉ bay theo
thói quen, cứ vậy mà ghim đầu vô lưới. Qua cứ ở nhà đan bội chờ hốt
chim đem chợ Bảy Sào bán, được bao nhiêu, sau khi mua các thứ lặt vặt,
còn lại mua lúa chở về. Chừng vài tháng chim bớt hẳn, cũng là lúc sang
mùa nắng, Qua lại bện sậy làm đăng, thứ này thì thiếu gì, bện mấy chục
tay đăng lại không đặng. Qua giăng đăng ngang bờ ruộng, dưới hướng gió,
sau đó lội lên đầu gió châm lửa đốt. Mớ cỏ lác, năng, bàng trong năm
theo con nước lên cao nghều nghệu,
chừng nước rút nằm sắp lớp dày cả thước, nắng tháng giêng, hai làm khô
mặt trên nhưng bên dưới vẫn còn ẩm, cho nên lửa không bốc thành ngọn mà
chỉ ngún ngầm trong cỏ, khói theo gíó cứ luồn theo cỏ mà hun. Cả họ hàng
nhà chuột bị khói cay mắt từ từ dồn về phía mé kinh, nơi có mấy tay
đăng chờ sẵn. Con nào còn nhỏ chui lọt đăng, tha làm phước, con nào lớn
dính lại hết. Cả ngàn con chớ ít sao. Qua bán không kịp đành lột da mổ
bụng muối, lớp phơi làm khô, lớp nhận làm mắm. Mắm chuột ngon mà lại có
giá vì lạ miệng. Năm đó Qua trúng lớn, bán mớ khô chuột và mắm chuột Qua
mua về cả mấy trăm giạ lúa nữa. Tính ra, vừa chim vừa chuột năm đó Qua
thu về hơn ba thiên lúa. Hổng tin hỏi bả coi!
Tàu Rùa
Năm
đó trời làm hạn hán. Nước rút dần xuống mấy đìa nhỏ, cá tép cũng theo
nhau về chen chúc trong mấy cái vũng ngày càng nhỏ hẹp, chịu không nổi
với cái nóng tháng Hai tháng Ba, thi nhau phình bụng nổi phều, chết ráo
trọi. Chim chuột cũng thiếu thức ăn, tản cư đi đâu mất. Người còn phải
chật vật, huống hồ là muông thú. Có khá chăng là miệt dưới Năm Căn, Bảy
Sào… ghe thương hồ ghé buôn bán, còn chút tấp nập chớ miệt đầu nguồn,
dân phá rừng, ăn ong… sống nhờ vào thiên nhiên như qua thì ở đâu đất
lành chim đậu. Nói vậy chớ biểu qua ra chợ hay nơi thị tứ kiếm sống, qua
xin chịu. Thảnh thơi quen rồi, không chịu được gò bó, ồn ào nơi đông
đúc.
Thường
thì qua luôn tìm công việc gì đó để
làm, khi thì đan mấy cái lờ, đặt dọc theo mấy đường nước, cũng đủ cá
mắm cho hai ông cháu, qua với thằng Đậu qua ngày, khi thì qua lội vô
rừng tràm gác kèo ong, chờ tới mùa, trúng cũng thu được vài chục lít
mật. Năm nay bết bát quá, hai vợ chồng thằng con qua, cha mẹ thằng Đậu,
theo bạn gặt lên tuốt Châu Đốc từ hôm ra giêng, vừa ăn Tết xong, gửi
thằng Đậu mới lên tám ở nhà hủ hỉ, cũng là để rảnh tay rảnh chơn mà gặt,
hái… Mới hôm đầu tháng rồi, nó nhắn về, nói công gặt cũng chẳng được
bao nhiêu, vì bạn gặt các nơi đổ về đông quá. Nó nói nó cùng với mấy đứa
bạn bán lúa công gặt, gom tiền lên Miên bao đìa tát, bắt cá làm khô,
mắm, đem vể miệt Châu Đốc, Long Xuyên bán, lấy tiền mua lúa lại đem về.
Qua nghe vậy thì hay vậy,
ở nhà hai ông cháu chẳng chết đói đâu mà sợ. Thằng Đậu lớn lên trong
rừng với qua nên tuy chẳng học hành gì ráo, nhưng việc gì cũng làm được.
Từ tóm câu đến đặt trúm bắt lươn… chuyện gì cũng rành. Tuy vóc không
lớn lắm nhưng thằng Đậu mạnh cùi cụi và lanh như con sóc, xuống nước thì
khỏi nói, nó lặn hụp như rái cá… Qua thương thằng Đậu lắm, những gì qua
biết, qua đều chỉ cho thằng Đậu, hai ông cháu coi là tương đắc với nhau
lắm.
Một
lần, qua với thằng Đậu theo đường nước chèo tuốt vào trong sâu, định
tìm thêm chỗ gác thêm vài trăm kèo ong. Chỉ cần gạo đầy ảng , nước mắm
đầy hủ… là đủ, tới đâu kiếm thức ăn tới đó, chim trời cá nước đầy ra đó,
chỉ có mấy đứa làm biếng mới không có mà ăn.
Tới đâu mệt thì cặm sào lại nghỉ. Chừng hơn ngày đường, qua biển thằng
Đậu cột ghe nghỉ, dặn nấu cơm ăn và coi chừng ghe, còn qua rảo lên bờ
coi địa thế. Rừng hoang vu, không dấu tích con người lai vãng. Tràm mọc
dày ken, qua phải lách theo chỗ trống len tới. Chừng cách xa bờ hơn trăm
thước, bổng nhiên rừng như sáng ra, trước mặt là một cái bàu trước chắc
cũng khá rộng, nhưng trời hạn đã thu hẹp phần nước. Bãi bùn chung quanh
giờ đã khô cứng. Mà cái gì vậy kìa, đá ở đâu mà ai sắp đầy bãi, lớn nhỏ
đủ cữ. Ủa! đá sao mà cục cựa! Chừng dụi mắt nhìn kỹ thì chu cha quỷ
thần ơi, rùa! không biết ở đâu mà tụ về bàu, có lẽ tim chút hơi mát của
nước còn sót trong bàu do trời hạn quá lâu. qua chạy ngược về ghe. Thằng
Đậu nấu vừa
xong nồi cơm thấy qua hớt hải trở về, vội hỏi:
- Gì vậy nội ?
- Đừng hỏi, đừng hỏi, để nội tính thử ! có nước trà rót cho nội một miếng
Chừng xong một bình trà, qua biểu thằng Đậu
- Đi! Đi theo nội! Đi bắt rùa.
Hai
ông cháu lại len lỏi trở vào rừng, gom lá tràm khô và củi bổi chất giáp
vòng quanh đìa, chỉ chừa lại một lối duy nhất ra sông, thằng Đậu cũng
đã quen ý qua, nên cũng không hỏi đi hỏi lại, chỉ lo gom lá khô. Hai ông
cháu làm tới chạng vạng mới vừa xong, lui về ghe. Aên xong, thằng Đậu
lăn ra ngủ như chết.
Sáng
hôm sau, khi thằng Đậu thức dậy thì qua đã nấu cơm sẵn, hối thúc nó ăn
cho chắc bụng.
Chừng dọn dẹp xong, qua lui ghe ra cặm ngoài sông, cách bờ chừng một
tầm . Qua lôi từ trên ghe một miếng ván nhỏ, một đầu gác lên be ghe, đầu
kia gác lên bờ. Qua cũng đưa cho thằng Đậu cây giầm dặn nó ở ghe đợi.
Qua lại lội vào rừng, cầm theo con cúi… Chừng một khắc sau, rùa bắt đầu
xếp hàng bò từ từ xuống bờ sông. Bây giờ thì thằng Đậu mới hiểu công
việc qua trù tính hôm qua. Qua bắt chước truyện Tam Quốc, dụng hỏa công
phá trận Xích Bích Rùa, nhưng qua còn tài hơn Gia Cát Khổng Minh là bắt
rùa phải chạy về hướng mà qua muốn… Chừng mấy anh rùa đầu tiên xuống đến
bờ sông, qua lượm đặt lên cầu ván đã bắc sẵn xuớng ghe. Thế là cả đoàn
quân rùa cứ theo anh đầu đàn mà lần lượt lên ghe. Từ trên bờ qua còn la
lớn kêu thằng
Đậu:
- Con coi con nào lớn cho lên ghe, con nào nhỏ hất xuống
Thế là thằng Đậu hờm sẵn trên ghe cứ lựa theo ý nội nó, miệng cứ tía lia;
- Thằng này lên, thằng này ở lại…, thằng này lên, thằng này lên…
…Mặt
trời đã đúng bóng mà rùa vẫn cứ tiếp tục nối đuôi nhau lên ghe, dưới
sông bì bõm không biết bao nhiêu là rùa bị thằng Đậu hất xuống, cố bám
vào be ghe… Trời hơi xế thì ghe cũng vừa khẳm. Qua lên ghe sửa soạn nhổ
sào, miệng kêu thằng Đậu
- Đậu! coi rút miếng ván, rồi đẩy mũi ghe ra.
Ghe
được rút sào, cả mấy trăm con rùa dưới nước hai chân trước bám vào be
ghe, hai chân sau bơi bơi trong nước, đẩy ghe
chạy tới. Ban đầu còn đâm ngang đâm dọc, nhưng chỉ chừng vài phút sau
qua đã kềm được lái, cứ thế mà ghe chạy băng băng trên sông. Thằng Đậu
ngồi trên mũi ghe khoái chí ca vọng cổ. Cả hai ông cháu chẳng phải chèo
chống gì mà ghe cứ như có gắn máy rẽ nước chạy, dậy sóng cả một khúc
sông, khiến mấy ghe nhỏ, xuồng con trồi lên hụp xuống. Một ghe ngược
chiều la lớn:
- Bớ tàu! Bớ tàu! bớt máy! bớt máy!
Thằng Đậu ngồi đằng mũi ghe thích chí cười lớn trả lời:
- Tàu này chạy bằng sức rùa thì làm sao bớt máy được !
Mấy người hổng tin? Hỏi bả coi
…
…
3. Vài ý kiến
Chuyện
Bác Ba Phi chỉ mới xuất phát gần đây và tương đối khá phổ biến trong
dân quê miền Nam. Cũng như nhân vật Trạng Quỳnh ở ngoài Bắc, những
chuyện kể nào có tính cách hơi phóng đại và ngộ nghĩnh đều được gán cho
Bác Ba Phi.
Qua
hai chuyện vừa kể, ta thấy ngay chuyện Tàu Rùa là chuyện do người kể
gán ghép cho Bác Ba Phi… Nhưng qua loạt chuyện về Bác Ba Phi, chúng ta
thấy ngay tinh thần chịu khó, đơn giản, mộc mạc và thông minh của những
người tiền phong trong việc khai phá vùng đất cực Nam của đất nước.
Thiên nhiên miền Nam giàu có, hào sảng bao dung những người thất cơ lỡ
vận, những kẻ phiêu lưu, những người làm chính trị thời Pháp thuộc bị
lộ, muốn tìm cho mình một lý lịch mới.
Từ bên kia Sông
Tiền
Qua bên này sông Hậu
Mang theo chiếc đc huyền
và câu thơ Lục Vân Tiên
…
(Sơn Nam – Hương Rừng Cà Mau)
Qua bên này sông Hậu
Mang theo chiếc đc huyền
và câu thơ Lục Vân Tiên
…
(Sơn Nam – Hương Rừng Cà Mau)
Người
Việt không có tính phiêu lưu, cực chẳng đã mới phải rời bỏ quê hương,
nơi chôn nhau cắt rún mà đi. Đi tìm sự bình an, đất lành chim đậu, miền
Nam trù phú, đón chào những bước chân tiền phong. Nhưng thiên nhiên
không bao giờ cho không tài sản của mình. Những người tiền phong phải đổ
mồ hôi, công sức để khai phá, phải chiến đấu với muỗi mòng, đỉa vắt,
thú dữ (đặc biệt là sấu và cọp) chịu đựng ẩm thấp, chướng khí… Họ đã
khai phá miền Nam một cách linh hoạt. Những người tiền
phong này thường ít học, mộc mạc đơn giản, thuộc tầng lớp nghèo khổ
nhất của xã hội. Nhưng họ là những người giàu tinh năng động không chịu
trói mình trong khuôn khổ cứng ngắt.
Sách
biên khảo về miền Nam còn quá ít so với những công trình tương tự về
miền Bắc và Trung. Trước đây có vài công trinh có tính khởi đầu của vài
tác giả miền Nam như Huỳnh Minh (qua các cuốn Vĩnh Long Xưa và Nay, Gò
Công Xưa và Nay…), Sơn Nam (Lịch Sử Khẩn Hoang Miền Nam, Đồng Bằng Sông
Cửu Long hay Văn Minh Miệt Vườn…) và gần đây có bộ Nam Kỳ Lục Tỉnh của
Hứa Hoành . Bộ sách nói về các tỉnh xưa và nay của Huỳnh Minh thiên về
địa dư chí và giới thiệu các thắng cảnh du lịch, di tích lịch sử cùng
vài giai thoại nhỏ. Bộ Nam Kỳ Lục Tỉnh
cũng là tập hợp những giai thoại, chuyện kể, ghi chép của tác giả về
những vùng đất hai bên sông Tiền và sông Hậu và đúng như tác giả giới
thiệu đó là những tài liệu giai thoại nghe được, thấy được; nên chưa thể
coi đó là một biên khảo có tính khoa học; tuy vậy chúng ta cũng có thể
gạn lọc ở đó một nguồn tài liệu lớn. Riêng hai cuốn Lịch Sử Khẩn Hoang
Miền Nam và Đồng Bằng Sông Cửu Long hay Văn Minh Miệt Vườn cùa Sơn Nam
mang tính biên khảo nhiều hơn, nhưng chỉ mới có tính cách giới thiệu và
có thể là những khởi đầu cho những công trình biên khảo lớn hơn, khoa
học hơn của các tác giả sau này.
Tư Chơi Cầu Dakbla sưu tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét