Chủ Nhật, 28 tháng 9, 2014

Bài thơ Hồ Trường/ Nguyễn Bá Trác

Hồ Trường

Tác giả: Nguyễn Bá Trác
Đại trượng phu không hay xé gan bẻ cật phù cương thường
Hà tất tiêu dao bốn bể lưu lạc tha phương
Trời nam nghìn dặm thẳm
Non nước một mầu sương
Chí chưa thành, danh chưa đạt
Trai trẻ bao lăm mà đầu bạc
Trăm năm thân thế bóng tà dương
Vỗ gươm mà hát
Nghiêng bầu mà hỏi
Trời đất mang mang ai người tri kỷ
Lại đây cùng ta cạn một hồ trường
Hồ trường! Hồ trường!
Ta biết rót về đâu?
Rót về Đông phương, nước biển Đông chẳy xiết sinh cuồng loạn
Rót về Tây phương, mưa phương Tây từng trận chứa chan
Rót về Bắc Phương, ngọn Bắc phong vi vút cát chạy đá giương
Rót về Nam phương, trời Nam mù mịt có người quá chén như điên như cuồng
Nào ai tỉnh, nào ai say
Lòng ta ta biết, chí ta ta hay
Nam nhi sự nghiệp ư hồ thỉ
Hà tất cùng sầu đối cỏ cây 

2 nhận xét:

  1. Nguyễn Bá Trác
    Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
    Nguyễn Bá Trác (1881-1945), bút hiệu Tiêu Đẩu, là: quan nhà Nguyễn, cộng sự của thực dân Pháp, nhà cách mạng, nhà báo và là nhà biên khảo Việt Nam.
    Nguyễn Bá Trác sinh năm Tân Tỵ (1881) tại làng Bảo An, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Thuở nhỏ ông theo học ở Quảng Nam, năm 1906, thi đỗ Cử nhân ở Huế.
    Hưởng ứng lời kêu gọi của các nhà ái quốc trong phong trào Đông Du, ông ra Hà Nội học tiếng Pháp và năm 1908, ông sang du học ở Nhật. Nhưng cũng ngay năm ấy, dưới sức ép của Pháp, chính phủ Nhật đã giải tán phong trào Đông Du, ông phải sang Trung Quốc rồi trở về Hà Nội (Việt Nam) năm 1914, làm ở Phòng báo chí Phủ Toàn quyền Đông Dương và Chủ bút phần Hán văn tờ Cộng Thị cho đến năm 1916.
    Năm 1917, dưới sự bảo trợ của Louis Marty, Phạm Quỳnh sáng lập Nam Phong tạp chí, ông nhận làm Chủ bút phần Hán văn.
    Sau thôi làm ở báo Nam Phong, ông vào Huế làm Tá lý Bộ Học và lần lượt trải qua các chức vụ: Tuần vũ Quảng Ngãi, Thị lang Bộ Binh, Tổng đốc Thanh Hóa, Tổng đốc Bình Định.
    Tháng 8 năm 1945, Việt Minh lên nắm chính quyền, ông bị xử bắn công khai tại Quy Nhơn (Bình Định).
    Tác phẩm
    Ngoài nhiều bài viết trên tờ Nam Phong từ năm 1917 cho đến năm 1932, Nguyễn Bá Trác đã biên soạn thêm nhiều tác phẩm sau:
    Cổ Học Viện thư tịch thủ sách (soạn cùng với Nguyễn Tiên Khiêm) gồm 11 quyển (1921)
    Hoàng Việt Giáp Tý niên biểu (1925)
    Bàn về học thuật nước Tàu (1918)
    Hạn mạn du ký (1920. Năm 1921, Đông Kinh ấn quán - Hà Nội in lại)
    Bàn về Hán học (1920)
    Hương Giang mộng (1920)
    Ngã An Nam dân tộc Nam tiến chi lịch sử (1921)
    Mấy lời chung cáo của các nhà Nho (1921)
    Nguyễn Bá Học tiên sinh chi lược sử cập kỳ di ngôn (1921)
    Du Thanh Hòa ký (19210)
    Hán học văn học khảo (1917-1932)...
    Hạn mạn du ký[sửa | sửa mã nguồn]
    Nguyễn Bá Trác biên soạn nhiều sách, nhưng được nhiều người biết đến hơn cả là tập Hạn mạn du ký (có nghĩa là đi chơi phiếm). Đây là thiên ký sự bằng chữ Hán gồm 14 chương, sau ông mới đem dịch ra Việt văn, rồi đăng trên Nam Phong tạp chí từ số 38 đến số 43 vào năm 1920.
    Nguyên nhân sáng tác, trong lời mở đầu, Nguyễn Bá Trác đã cho biết như sau:
    Tôi về nước đã 5 năm nay, kể từ năm 1908 bước chân đi, đến năm 1914 tôi trở về Sài Gòn giữa ngày tháng 8, tính đốt ngón tay một dạo phiếm du chốc đã 6 năm có lẽ. Loanh quanh trong nước một năm, tạm trọ ở Xiêm La hơn 10 ngày, làm khách qua Nhật Bản một tháng, rồi lại sang Trung Hoa, bao nhiêu thương phụ to, tỉnh thành lớn, như Ba Thục miền Tây, U Uyên đất Bắc, Quế Việt cõi Nam, đều là chỗ mình có để ít nhiều dấu xe dấu ngựa. Nay đem đường lối phong cảnh mà mình đã trải qua nơi đất khách, chép nhặt một vài, còn chuyện chi chi (ý nói đến việc đi làm cách mạng của ông) không rổi mà nói đến.
    Đề cập đến tác phẩm này, nhà nghiên cứu văn học Phạm Thế Ngũ viết:
    ...Câu Việt văn khác mạch lạc suông sẻ, đôi chỗ đăng đối du dương. Những tình tiết ly kỳ của cuộc phiêu lưu nơi đất lạ đã đem lại cho câu chuyện nhiều vẻ hấp dẫn. Nhất là đối với các Nho gia ta khi ấy từng ôm cái mộng Đông du; nếu không thì trí não cũng đầy kỷ niệm văn chương về danh nhân, danh thắng Trung Hoa, đọc "Hạn mạn du ký" của Nguyễn Bá Trạc thật là thú vị. Cả nữ giới cũng hoan nghênh lắm. Bà Tương Phố từng kể hay gối Nam Phong ở đầu giường để đọc du ký của ông Quỳnh (Phạm Quỳnh), ông Trác mà mộng du đất Pháp, đất Tàu. Ông Dương Quảng Hàm khi làm sách Quốc văn trích diễm (1925) dành hẳn cho thiên du ký của Nguyễn Bá Trác hai bài trích, đó là Đường đi Hương Cảng và Điếu Kim lăng[1], đủ thấy độc giả đương thời đã thích thưởng thức dường nào.[2].
    Và trong tập sách này có một khúc ca phương Nam do ông dịch, đã giúp ông thêm nổi danh.

    Trả lờiXóa
  2. Nguyễn Bá Trác dịch thơ:
    Trượng phu không hay xé gan bẻ cột phù cương thường;
    Hà tất tiêu dao bốn bể, luân lạc tha hương
    Trời nam nghìn dậm thẳm, mây nước một mầu sương
    Học không thành, danh chẳng lập, trai trẻ bao lâu mà đầu bạc, trăm năm thân thể bóng tà dương.
    Vỗ tay mà hát, nghiêng đầu mà hỏi, trời đất mang mang, ai là tri kỷ lại đây cùng ta cạn một hồ trường.
    Hồ trường! Hồ trường! ta biết rót về đâu?
    Rót về đông phương, nước bể đông chẩy xiết sinh cuồng lạn;
    Rót về tây phương, mưa Tây sơn từng trận chứa chan
    Rót về bắc phương, ngọn bắc phong vì vụt, đá chạy cát dương;
    Rót về nam phương, trời nam mù mịt, có người quá chén, như điên như cuồng
    Nào ai tỉnh, nào ai say, chí ta ta biết, lòng ta hay
    Nam nhi sự ngiệp ở hồ thỉ, hà tất cùng sầu đối cỏ cây.[5]
    Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]
    ^ Khi soạn Việt Nam thi văn hợp tuyển, Dương Quảng Hàm có trích thêm một bài nữa trong "Hạn mạn du ký" của Nguyễn Bá Trạc, đó là "Quanh đường vượt ra khơi" (Nxb Trung tâm học liệu, Sài Gòn, bản in lại lần thứ 10, 1968, tr. 200).
    ^ a ă Phạm Thế Ngũ, Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, Quốc học tùng thư xuất bản, Tập 3, Sài Gòn, 1965, tr.326-327.
    ^ Giải thích từ khó hiểu:
    Nam phương (Phương nam) ở đây chỉ miền Lĩnh Nam (Trung Quốc).
    Chiết hạm: Có nghĩa là bẻ cột, có nhiều người lầm viết là bẻ cật. Điển tích "bẻ cột" xuất phát từ sách Hán thư – truyện Chu Vân: Thời Hán Thành Đế, Hòe Lý Lệnh (một chức quan trong hàng Tam Công) là Chu Vân tâu với vua xin giết An Xương Hầu Trương Vũ, vua nổi giận sai chém Chu vân. Khi bị bắt lôi đi, Chu Vân uất ức bám tay vào cột điện, cột cung điện bị vặn gãy. Nhân lúc lộn xộn ấy, Tân Khánh Kỵ giải cứu Chu Vân. Sau, Thành Đế biết Chu Vân xin giết Trương Vũ là vì lòng trung, bèn tha tội. Và khi cho sửa cung điện, ông vua này ra lệnh phải giữ nguyên dạng phần cột bị gãy, nhằm lấy hình ảnh đó mà biểu dương lời nói ngay thẳng. Đời sau thường dùng từ "chiết hạm" để chỉ hành vi dũng cảm trong việc dùng lời lẽ để can gián vua.
    Cương thường: Do chữ "tam cương" (vua tôi, cha con, chồng vợ) và "ngũ thường" (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín) ghép lại.
    Thương (được lặp lại nhiều lần trong lời ca): Có thể đọc là "trường" hay "tràng" mà Nguyễn Bá Trác đổi thành "Hồ trường". Thương có ba nghĩa:
    1/ Là cái chén uống rượu giống như cái tước, làm bằng sừng, "thương" là chén rót đầy rượu, khi chưa rót rượu vào thì gọi là "chí". 2/ Mời rượu người khác một cách kính trọng gọi là "thương". Sách Lã Thị Xuân Thu – thiên Đạt Úc có câu "Quản tử thương Hoàn Công" (Quản Từ kính cẩn mời rượu Tề Hoàn Công). 3/ Tự uống rượu một mình gọi là "thương", Phạm Thành Đại trong bài "Túc tư khẩu thỉ văn nhạn" có câu "bá tửu bất năng thương" (nâng ly khó uống một mình).
    Phần tử: (tác giả dịch là cỏ cây): Là từ được ghép bởi "Phần du" và "Tử lý" (hoặc "Tang tử"). Đây là tên các loại cây mà người đời sau cùng chữ này để chí cố hương. Xem thêm ở đây [1].
    ^ Bài Hồ trường khi đăng ở báo Nam Phong không có phần dịch nghĩa & chú thích từ khó hiểu. Hai phần này đều căn cứ ở đây: [2]
    ^ Có ít nhất năm bản dịch đang tồn tại, mà ở các bản đều có vài từ không giống nhau.
    Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]
    Wikisource có các tác phẩm gốc nói đến hoặc của:
    Nguyễn Bá Trác
    Hồ trường và Nam phương ca khúc
    Nguyễn Bá Trác và bài thơ Hồ Trường
    Bài ca Hồ trường - Nguyễn Bá Trác

    Trả lờiXóa