Bài số 14
CHỢ
TRỜI-CHÙA THẦY
Hồ
Xuân Hương
Ảnh Chùa Thầy vào Xuân, Google
Hoá công xây đắp đã bao đời (1)
Bày đặt ra nên cảnh
chợ trời! (2)
Buổi sớm gió đưa,
trưa nắng đứng, (3)
Ban
chiều mây họp, tối trăng chơi. (4)
Bầy
hàng hoa quả tư mùa sẵn, (5)
Mở
phố giang sơn bốn mặt ngồi. (6)
Bán
lợi, buôn danh nào những kẻ, (7)
Chẳng
nên mặc cả một đôi lời. (8)
(Theo bản khắc 1914 và cập nhật)
Khảo dị:
Bản khắc 1922
Tựa đề: Chợ Trời
Câu 1: Khen
thay con tạo khéo trêu ngươi
Câu 2: Bày đặt
ra nên cảnh chợ Trời
Câu 3:
Buổi sớm gió đưa trưa nắng đứng
Câu 4:
Ban chiều mây họp tối trăng chơi
Câu 5:
Bày hàng hoa quả tư mùa
sẵn
Câu 6: Mở phố giang
sơn bốn mặt ngồi
Câu 8: Không lên mặc
cả một hai lời
- Bản Quốc
văn tùng ký
Tựa đề: Chợ Trời
chùa Thầy
Câu 1:
Hoá công xây đắp đã bao đời
Câu 3:
Buổi sớm sương tan trưa gió
quét
Câu 4:
Ban chiều mây họp tối trăng chơi
Câu 6: Quảy
gánh giang sơn tám mặt ngồi
Câu 8: Lại
đây mặc cả một đôi lời
- Bản Xuân
Hương thi sao
Tựa đề: Vịnh
cái chợ Trời
Câu 1: Trải
bao vật đổi lại sao dời
Câu 2: Vẫn cứ
trơ trơ cái chợ Trời
Câu 3:
Buổi sớm mưa tan trưa gió
quét
Câu 5:
Bày hàng hoa cỏ tư
mùa đủ
Câu 6: Mở phố giang
sơn tám mặt ngồi
Câu 7: Những
kẻ mua danh cùng
bán lợi
Câu 8: Không lên mặc
cả một đôi lời
Nguồn:
Kiều Thu Hoạch, Thơ
nôm
*Văn bản chữ Nôm:
助 偨
化 公 搓 塔 㐌 包
怒 景 山 固 助
𣇜 拸 暏
胖 朝 哈 晬 月陵
排 行 花 果 四 日務 産
埔 江 山 四
貝 半 利 名 芾 仍 仉
庄 嘿 哿 殳 堆 口
* Chú giải:
Đến với
khu du lịch Chùa Thầy
Chùa Thầy là một ngôi chùa ở chân núi Sài Sơn, xã Sài Sơn huyện Quốc
Oai thành phố Hà Nội, cách trung tâm Hà Nội khoảng 20 km về phía Tây nam, đi theo đường cao tốc Láng - Hòa Lạc.
Sài Sơn có tên Nôm là núi Thầy, nên chùa được gọi là chùa Thầy. Chùa được xây dựng từ thờinhà Lý. Đây là nơi tu hành của Thiền sư Từ Đạo Hạnh, lúc này núi Thầy còn gọi là núi Phật tích.
LỊCH
SỬ
Chùa Láng gắn liền với giai đoạn đầu của cuộc đời Từ Đạo Hạnh, còn chùa Thầy lại chứng kiến quãng đời sau cùng cho đến
ngày thoát xác của vị sư thế hệ thứ 12 thuộc dòng Thiền Ti-ni-đa-lưu-chi này.
Ban đầu
chùa Thầy chỉ là một am nhỏ gọi là Hương Hải am, nơi Thiền sư Từ Đạo Hạnh trụ
trì. Vua Lý Nhân
Tông đã cho xây dựng lại gồm hai cụm chùa: chùa
Cao (Đỉnh Sơn Tự) trên núi và chùa Dưới (tức chùa Cả, tên chữ là Thiên Phúc
Tự). Đầu thế kỷ
17, Dĩnh Quận Công
cùng hoàng tộc chăm lo việc trùng tu, xây dựng điện Phật, điện Thánh; sau đó là nhà hậu, nhà bia, gác chuông. Theo thuyết phong thủy, chùa
được xây dựng trên thế đất hình con rồng. Phía trước chùa, bên trái là ngọn Long Đẩu, lưng chùa
và bên phải dựa vào núi Sài Sơn. Chùa quay mặt về hướng Nam, trước chùa, nằm
giữa Sài Sơn và Long Đẩu là một hồ rộng mang tên Long Chiểu hay Long Trì (ao
Rồng). Sân có hàm rồng.
KIẾN TRÚC
Chùa
Thầy gồm ba toà nhà chạy song song với nhau dựng trên nền cao bó đá hộc xanh.
Toà ngoài gọi là nhà tiền tế hay chùa Hạ. Toà giữa là trung điện hay chùa
Trung, toà trong cùng là thượng điện, thờ các hóa thân của Thiền sư Từ Đạo Hạnh, diễn tả 3
"kiếp" của Từ Đạo Hạnh: Tăng, Phật và Đế Vương. Bên trái là tượng
toàn thân Thiền sư bằng gỗ bạch đàn lắp máy tự động có thể đứng lên ngồi xuống được, nhắc nhở thời kỳ Ngài
đi tu ở Hương Hải am đã làm thuốc trị bệnh cứu người và dày công sáng tạo môn
nghệ thuật múa rối nước cổ truyền để cho dân giải trí. Tượng đặt trên ngai, sau
lưng ngai chạm trổ hình đầu rồng, lưỡi búa, sừng tê, ngọc báu... Chính giữa là tượng Thiền sư khi đã thành Phật, đội mũ hoa sen, tay chắp trước ngực, khoác áo cà sa vóc vàng, đặt trên một bệ tượng bằng đá thời nhà Lý, có hình sư tử đội toà sen. Bệ đá chạm
những cánh hoa sen, bốn mặt chạm hình rồng và hoa lá, bốn góc có hình thần điểu Garuda. Đây là di vật thời nhà Lý còn sót lại duy nhất ở chùa. Bên phải là
tượng Thiền sư sau khi đã hóa, đầu thai làm con trai của Sùng Hiền Hầu và trở
thành nhà vua Lý Thần Tông. Tượng Lý Thần Tông đầu đội mũ bình
thiên, mình khoác long bào, ngồi trên ngai
vàng.
Trong
chùa còn có tượng ông Từ Vinh và bà Tăng Thị Loan là cha mẹ Từ Đạo Hạnh và hai
bạn đồng đạo thân thiết của Ngài là Thiền sư Minh Không và Thiền sư Giác Hải. Hai bên chùa là hành lang dài thờ mười tám vị La Hán. Phía sau chùa là gác chuông và gác trống.
Trước cửa chùa có một hồ nước rộng có tên là Long
Chiểu (Ao Rồng). Giữa hồ có một thuỷ đình nhỏ vuông vắn, dùng làm nơi diễn rối nước. Hai bên chùa có hai chiếu cầu mái, do Phùng Khắc Khoan xây vào năm 1602. Cầu Nhật Tiên ở bên trái, trông vào đền Tam Phủ xây
trên một hòn đảo giữa hồ. Bên phải là cầu Nguyệt Tiên, nối với con đường lên
núi. Trên núi có chùa Cao, vốn là Hiển Thụy am, còn có tên là Đỉnh Sơn Tự, là
nơi Thiền sư Từ Đạo Hạnh đến tu đầu tiên. Trên vách chùa còn khắc những bài thơ
tức cảnh của Nguyễn Trực và Nguyễn Thượng Hiền. Tương truyền rằng động Phật Tích ở sau
chùa là nơi Ngài Từ Đạo Hạnh thoát xác để đầu thai làm vua Lý Thần Tông.
Phía trên chùa Cao có một mặt bằng gọi là
chợ Trời với nhiều tảng đá hình bàn ghế, kệ bày hàng, ly rượu,... trong đó có
một phiến đá nhẵn lì được gọi là bàn cờ tiên. Có lẽ nơi đây ngày xưa các bậc
trích tiên vẫn ngồi chơi cờ, uống rượu, thưởng trăng và ngâm thơ.
Từ chùa Cao, đi vòng ra phía sau là hang
Cắc Cớ, là nơi tình tự của trai gái ngày xưa trong những ngày hội hè, như ca
dao đã ghi lại
Gái
chưa chồng trông hang Cắc Cớ,
Trai
chưa vợ nhớ hội chùa Thầy.
Đi ngược lên trên là đến đền Thượng. Gần đền
Thượng có hang Bụt Mọc với nhiều tảng đá được thời gian bào mòn trông như tượng
Phật. Tiếp đó là hang Bò với lối vào âm u. Cách một đoạn là đến hang Gió với
những ngọn gió thổi thông thốc cả hai đầu. Ở chân núi phía Tây còn có chùa Bối
Am, còn gọi là chùa Một Mái, chùa có tên như vậy là vì chùa chỉ có một mái ngói, mặt sau chùa dựa vào vách
núi.
Như
vậy, quanh núi Thầy, ngoài chùa
Thầy còn
có cả một cụm kiến trúc Phật giáo được xây dựng trong những khoảng thời gian khác
nhau.
Trong
một bài ký ghi trên vách núi, Chúa Trịnh Căn đã phác họa cảnh chùa Thầy "như viên ngọc nổi lên giữa đám sỏi
đá, rạng vẻ xuân tươi khắp cả bốn mùa. Động trên hệt như cõi thanh hư, bên vách
còn in mây ráng. Ao rồng thông sang bến siêu độ, cầu tiên Nhật Nguyệt đôi vầng.
Hình tựa bình phong, sông như dải lụa".
Hội
chùa Thầy diễn ra từ ngày mùng 5 đến ngày mùng 7 tháng ba Âm lịch hàng năm. Trong ngày
hội, nhiều tăng
ni từ các
nơi khác trong vùng cùng về đây dự lễ trong những bộ cà-sa trang trọng, tay cầm
gậy hoa, miệng tụng kinh trong tiếng mõ trầm đều. Lễ cúng Phật và trai đàn - một diễn xướng có tính chất tôn
giáo - được thực hiện có sự phối hợp của các nhạc cụ dân
tộc.
Nhưng hội chùa Thầy không chỉ có
những nghi thức tôn giáo. Ở đây còn có trò múa rối nước mang đậm
sắc thái dân gian mà ngày nay có tiếng vang ở nhiều nước. Trai thanh gái lịch
gần xa tìm đến hội chùa Thầy còn để thỏa mãn tính mạo hiểm khi leo núi và khao
khát bày tỏ tình yêu trong một khung cảnh thiên nhiên rộng mở:
Rủ nhau lên núi Sài Sơn
Ai làm đá ướt đường trơn hỡi mình?
Hỏi non, non những làm thinh
Phải rằng non đã vô tình với ai?
Nước non ví chẳng chiều đời
Mắt xanh đâu lẽ phụ người tình chung?
Yêu nhau ta dắt nhau cùng
Non bao nhiêu đá nặng lòng bấy nhiêu.
Á Nam Trần Tuấn Khải
* Chú giải:
(1) (2) Giới thiệu
cảnh chợ Trời chùa Thầy ở Sài Sơn,
山,
núi Sài Sơn, có Chùa Thầy, nơi thờ Từ Đạo Hạnh, ở huyện Sài
Sơn, Sơn Tây. Nay thuộc tỉnh Hà Tây. Chùa Thầy nơi Từ Đạo Hạnh thoát xác, viên
tịch. Có Hang gọi là Hang Thánh Hoá.
(3) (4) Cảnh đẹp cả ngày, sớm trưa, chiều tối, có ánh nắng, có vầng
trăng, có gió, có mây.
Buổi sớm, có gió mát, gió đẫy, gió đưa. Buổi trưa, có nắng vàng rực rỡ,
do mătt trời từ thiên đỉnh chiếu thẳng đứng
xuống Chợ Trời Chùa Thầy.
Ban chiều, trời có nhiều mây, những vầng mây từ bốn phương, tám hướng của cõi trời bay về nơi
đây họp lại.
Buổi tối thường có vầng trăng đùa nghịch, đến chơi cùng danh thắng.
(5) (6) Cảnh
buôn bán nơi chợ Trời.
Hoa quả tứ thời, tư mùa, mùa nào, thức ấy được bày
hàng ra sẵn sàng chào mời khách.
Ngoài ra, cảnh đất
nước ở đây, giang sơn, đều có những tảng
đá trông giống như những phố xá xây dựng, mở
phố, tọa lạc, ngồi, quanh tứ
phía,bốn mặt.
(7) (8) Cảm tưởng
của tác giả.
Việc buôn bán ở
đây làm tôi (Hồ Xuân Hương) nhớ đến cảnh bán
lợi, buôn danh của thế nhân. Cảnh và người đều bằng đá, sản phẩm, lợi danh
như đá, có thể nào mãi mãi trường tồn. Đời người, lợi danh có nghĩa gì đâu! Sao
không tự vấn: “Trăm năm bia đá thì mòn,
Nghìn năm bia miệng hãy còn trơ trơ” (Ca dao). Quan nhất thời, dân vạn đại 倌 一
時, 民 萭 代,Làm quan có một thời, làm dân vạn đời, hay hết
quan hoàn dân . Vậy mà sao thế nhân vẫn hám lợi, mua damh nhỉ? Nếu phải vào vòng buôn bán lợi danh thìọchớ nên
trả giá, mặc cả, mới là người khôn
ngoan, sành đời.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét