Thứ Hai, 2 tháng 11, 2015

Chợ trời Chùa Thầy/ Thơ Hồ Xuân Hương/ Ngân Triều chú giải

          Bài số 14
                                      CHỢ TRỜI-CHÙA THẦY
                             Hồ Xuân Hương
                             

                                              Ảnh Chùa Thầy  vào Xuân, Google
                             
                             Hoá công xây đắp đã bao đời (1)
                             Bày đặt ra nên cảnh chợ trời! (2)
                             Buổi sớm gió đưa, trưa nắng đứng, (3)
                             Ban chiều mây họp, tối trăng chơi. (4)
                             Bầy hàng hoa quả tư mùa sẵn, (5)
                             Mở phố giang sơn bốn mặt ngồi. (6)
                             Bán lợi, buôn danh nào những kẻ, (7)
                             Chẳng nên mặc cả một đôi lời. (8)

                                                                                   
                (Theo bản khắc 1914 và cập nhật) 
Khảo dị: 
 Bản khắc 1922
Tựa đề: Chợ Trời 
Câu 1: Khen thay con tạo khéo trêu ngươi 
Câu 2: Bày đặt ra nên cảnh chợ Trời 
Câu 3: Buổi sớm gió đưa trưa nắng đứng
Câu 4: Ban chiều mây họp tối trăng chơi 
Câu 5: Bày hàng hoa quả tư mùa sẵn 
Câu 6: Mở phố giang sơn bốn mặt ngồi 
Câu 8: Không lên mặc cả một hai lời 
- Bản Quốc văn tùng ký 
Tựa đề: Chợ Trời chùa Thầy 
Câu 1: Hoá công xây đắp đã bao đời 
Câu 3: Buổi sớm sương tan trưa gió quét 
Câu 4: Ban chiều mây họp tối trăng chơi 
Câu 6: Quảy gánh giang sơn tám mặt ngồi 
Câu 8: Lại đây mặc cả một đôi lời
- Bản Xuân Hương thi sao 
Tựa đề: Vịnh cái chợ Trời 
Câu 1: Trải bao vật đổi lại sao dời 
Câu 2: Vẫn cứ trơ trơ cái chợ Trời
Câu 3: Buổi sớm mưa tan trưa gió quét
Câu 5: Bày hàng hoa cỏ tư mùa đủ 
Câu 6: Mở phố giang sơn tám mặt ngồi 
Câu 7: Những kẻ mua danh cùng bán lợi
Câu 8: Không lên mặc cả một đôi lời 
Nguồn: Kiều Thu Hoạch, Thơ nôm
*Văn bản chữ Nôm:
                                                            助       偨
                                                                                                化   公  搓  塔  㐌  包  
                                                                                                怒  景    山  固  助   
                                                                                                𣇜      拸  暏      
                                                                                                胖  朝     哈  晬 月陵    
                                                                                                排  行  花   果  四 日務   産
                                                                                                  埔  江  山  四    
                                                                                                貝  半  利     名  芾  仍  仉 
                                                                                                庄      嘿   哿  殳   堆 
* Chú giải:
           Đến với khu du lịch Chùa Thầy
          Chùa Thầy là một ngôi chùa ở chân núi Sài Sơn, xã Sài Sơn huyện Quốc Oai thành phố Hà Nội, cách trung tâm Hà Nội khoảng 20 km về phía Tây nam, đi theo đường cao tốc Láng - Hòa Lạc. Sài Sơn có tên Nôm là núi Thầy, nên chùa được gọi là chùa Thầy. Chùa được xây dựng từ thờinhà Lý. Đây là nơi tu hành của Thiền sư Từ Đạo Hạnh, lúc này núi Thầy còn gọi là núi Phật tích.
 LỊCH SỬ
            Chùa Láng gắn liền với giai đoạn đầu của cuộc đời Từ Đạo Hạnh, còn chùa Thầy lại chứng kiến quãng đời sau cùng cho đến ngày thoát xác của vị sư thế hệ thứ 12 thuộc dòng Thiền Ti-ni-đa-lưu-chi này.
            Ban đầu chùa Thầy chỉ là một am nhỏ gọi là Hương Hải am, nơi Thiền sư Từ Đạo Hạnh trụ trì. Vua Lý Nhân Tông đã cho xây dựng lại gồm hai cụm chùa: chùa Cao (Đỉnh Sơn Tự) trên núi và chùa Dưới (tức chùa Cả, tên chữ là Thiên Phúc Tự). Đầu thế kỷ 17, Dĩnh Quận Công cùng hoàng tộc chăm lo việc trùng tu, xây dựng điện Phật, điện Thánh; sau đó là nhà hậu, nhà bia, gác chuông. Theo thuyết phong thủy, chùa được xây dựng trên thế đất hình con rồng. Phía trước chùa, bên trái là ngọn Long Đẩu, lưng chùa và bên phải dựa vào núi Sài Sơn. Chùa quay mặt về hướng Nam, trước chùa, nằm giữa Sài Sơn và Long Đẩu là một hồ rộng mang tên Long Chiểu hay Long Trì (ao Rồng). Sân có hàm rồng.
  KIẾN TRÚC
            Chùa Thầy gồm ba toà nhà chạy song song với nhau dựng trên nền cao bó đá hộc xanh. Toà ngoài gọi là nhà tiền tế hay chùa Hạ. Toà giữa là trung điện hay chùa Trung, toà trong cùng là thượng điện, thờ các hóa thân của Thiền sư Từ Đạo Hạnh, diễn tả 3 "kiếp" của Từ Đạo Hạnh: Tăng, Phật và Đế Vương. Bên trái là tượng toàn thân Thiền sư bằng gỗ bạch đàn lắp máy tự động có thể đứng lên ngồi xuống được, nhắc nhở thời kỳ Ngài đi tu ở Hương Hải am đã làm thuốc trị bệnh cứu người và dày công sáng tạo môn nghệ thuật múa rối nước cổ truyền để cho dân giải trí. Tượng đặt trên ngai, sau lưng ngai chạm trổ hình đầu rồng, lưỡi búa, sừng tê, ngọc báu... Chính giữa là tượng Thiền sư khi đã thành Phật, đội mũ hoa sen, tay chắp trước ngực, khoác áo cà sa vóc vàng, đặt trên một bệ tượng bằng đá thời nhà Lý, có hình sư tử đội toà sen. Bệ đá chạm những cánh hoa sen, bốn mặt chạm hình rồng và hoa lá, bốn góc có hình thần điểu Garuda. Đây là di vật thời nhà Lý còn sót lại duy nhất ở chùa. Bên phải là tượng Thiền sư sau khi đã hóa, đầu thai làm con trai của Sùng Hiền Hầu và trở thành nhà vua Lý Thần Tông. Tượng Lý Thần Tông đầu đội mũ bình thiên, mình khoác long bào, ngồi trên ngai vàng.        
            Trong chùa còn có tượng ông Từ Vinh và bà Tăng Thị Loan là cha mẹ Từ Đạo Hạnh và hai bạn đồng đạo thân thiết của Ngài là Thiền sư Minh Không và Thiền sư Giác Hải. Hai bên chùa là hành lang dài thờ mười tám vị La Hán. Phía sau chùa là gác chuông và gác trống.
            Trước cửa chùa có một hồ nước rộng có tên là Long Chiểu (Ao Rồng). Giữa hồ có một thuỷ đình nhỏ vuông vắn, dùng làm nơi diễn rối nước. Hai bên chùa có hai chiếu cầu mái, do Phùng Khắc Khoan xây vào năm 1602. Cầu Nhật Tiên ở bên trái, trông vào đền Tam Phủ xây trên một hòn đảo giữa hồ. Bên phải là cầu Nguyệt Tiên, nối với con đường lên núi. Trên núi có chùa Cao, vốn là Hiển Thụy am, còn có tên là Đỉnh Sơn Tự, là nơi Thiền sư Từ Đạo Hạnh đến tu đầu tiên. Trên vách chùa còn khắc những bài thơ tức cảnh của Nguyễn Trực  Nguyễn Thượng Hiền. Tương truyền rằng động Phật Tích ở sau chùa là nơi Ngài Từ Đạo Hạnh thoát xác để đầu thai làm vua Lý Thần Tông.
             Phía trên chùa Cao có một mặt bằng gọi là chợ Trời với nhiều tảng đá hình bàn ghế, kệ bày hàng, ly rượu,... trong đó có một phiến đá nhẵn lì được gọi là bàn cờ tiên. Có lẽ nơi đây ngày xưa các bậc trích tiên vẫn ngồi chơi cờ, uống rượu, thưởng trăng và ngâm thơ.
             Từ chùa Cao, đi vòng ra phía sau là hang Cắc Cớ, là nơi tình tự của trai gái ngày xưa trong những ngày hội hè, như ca dao đã ghi lại
                        Gái chưa chồng trông hang Cắc Cớ,
                        Trai chưa vợ nhớ hội chùa Thầy.         
             Đi ngược lên trên là đến đền Thượng. Gần đền Thượng có hang Bụt Mọc với nhiều tảng đá được thời gian bào mòn trông như tượng Phật. Tiếp đó là hang Bò với lối vào âm u. Cách một đoạn là đến hang Gió với những ngọn gió thổi thông thốc cả hai đầu. Ở chân núi phía Tây còn có chùa Bối Am, còn gọi là chùa Một Mái, chùa có tên như vậy là vì chùa chỉ có một mái ngói, mặt sau chùa dựa vào vách núi.         
            Như vậy, quanh núi Thầy, ngoài chùa Thầy còn có cả một cụm kiến trúc Phật giáo được xây dựng trong những khoảng thời gian khác nhau.         
            Trong một bài ký ghi trên vách núi, Chúa Trịnh Căn đã phác họa cảnh chùa Thầy "như viên ngọc nổi lên giữa đám sỏi đá, rạng vẻ xuân tươi khắp cả bốn mùa. Động trên hệt như cõi thanh hư, bên vách còn in mây ráng. Ao rồng thông sang bến siêu độ, cầu tiên Nhật Nguyệt đôi vầng. Hình tựa bình phong, sông như dải lụa".
            Hội chùa Thầy diễn ra từ ngày mùng 5 đến ngày mùng 7 tháng ba Âm lịch hàng năm. Trong ngày hội, nhiều tăng ni từ các nơi khác trong vùng cùng về đây dự lễ trong những bộ cà-sa trang trọng, tay cầm gậy hoa, miệng tụng kinh trong tiếng  trầm đều. Lễ cúng Phật và trai đàn - một diễn xướng có tính chất tôn giáo - được thực hiện có sự phối hợp của các nhạc cụ dân tộc.        
           Nhưng hội chùa Thầy không chỉ có những nghi thức tôn giáo. Ở đây còn có trò múa rối nước mang đậm sắc thái dân gian mà ngày nay có tiếng vang ở nhiều nước. Trai thanh gái lịch gần xa tìm đến hội chùa Thầy còn để thỏa mãn tính mạo hiểm khi leo núi và khao khát bày tỏ tình yêu trong một khung cảnh thiên nhiên rộng mở:
                                                Rủ nhau lên núi Sài Sơn
                                    Ai làm đá ướt đường trơn hỡi mình?
                                                Hỏi non, non những làm thinh
                                    Phải rằng non đã vô tình với ai?
                                                Nước non ví chẳng chiều đời
                                   Mắt xanh đâu lẽ phụ người tình chung?
                                                Yêu nhau ta dắt nhau cùng
                                  Non bao nhiêu đá nặng lòng bấy nhiêu.
                                                                        Á Nam Trần Tuấn Khải  

* Chú giải:
(1) (2) Giới thiệu cảnh chợ Trời chùa Thầy ở Sài Sơn,   , núi Sài Sơn, có  Chùa Thầy, nơi thờ Từ Đạo Hạnh, ở huyện Sài Sơn, Sơn Tây. Nay thuộc tỉnh Hà Tây. Chùa Thầy nơi Từ Đạo Hạnh thoát xác, viên tịch. Có Hang gọi là Hang Thánh Hoá.
(3) (4) Cảnh đẹp cả ngày, sớm trưa, chiều tối, có ánh nắng, có vầng trăng, có gió, có mây.
Buổi sớm, có gió mát, gió đẫy, gió đưa. Buổi trưa,nắng vàng rực rỡ, do mătt trời từ thiên đỉnh chiếu thẳng đứng xuống Chợ Trời Chùa Thầy.
Ban chiều, trời có nhiều  mây, những vầng mây từ  bốn phương, tám hướng của cõi trời bay về nơi đây họp lại.
Buổi tối thường có vầng trăng đùa nghịch, đến chơi cùng danh thắng.
(5) (6) Cảnh buôn bán nơi chợ Trời.
Hoa quả tứ thời, tư mùa, mùa nào, thức ấy được bày hàng ra sẵn sàng chào mời khách.
Ngoài ra, cảnh đất nước ở đây, giang sơn, đều có những tảng đá trông giống như những phố xá xây dựng, mở phố, tọa lạc, ngồi, quanh tứ phía,bốn mặt.
(7) (8) Cảm tưởng của tác giả.

Việc buôn bán ở đây làm tôi (Hồ Xuân Hương) nhớ đến cảnh bán lợi, buôn danh của thế nhân. Cảnh và người đều bằng đá, sản phẩm, lợi danh như đá, có thể nào mãi mãi trường tồn. Đời người, lợi danh có nghĩa gì đâu! Sao không tự vấn: “Trăm năm bia đá thì mòn, Nghìn năm bia miệng hãy còn trơ trơ” (Ca dao). Quan nhất thời, dân vạn đại   , ,Làm quan có một thời, làm dân vạn đời, hay hết quan hoàn dân . Vậy mà sao thế nhân vẫn hám lợi, mua damh nhỉ?    Nếu phải vào vòng buôn bán lợi danh thìọchớ nên trả giá, mặc cả, mới là người khôn ngoan, sành đời.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét