“MƯỜI QUẢ TRỨNG” MỘT BÀI CA Dao ĐẶC SẮC CỦA BÌNH TRỊ THIÊN
Là cả gia tài/chưa kể vay mượn phải trả của nhân vật trữ tình trong bài ca dao (Ảnh minh họa Google) |
Bàt dân ca Mười quả trứng từng nằm trong tập hợp Những câu hát than thân trích trong sách Ngữ văn.10. Tại nhà trường phổ thông, Mười quả trứng chỉ được dạy như một văn bản ngôn từ, không có phần âm nhạc. Lời ca như thế này:
Tháng giêng, tháng hai,
Tháng ba, tháng bốn,
Tháng khốn, tháng nạn
Đi vay đi dạm
Được một quan tiền
Ra chợ Kẻ Diên
Mua con gà mái
Về nuôi hắn đẻ ra mười trứng
Một trứng: ung
Hai trứng: ung
Ba trứng: ung
Bốn trứng: ung
Năm trứng: ung
Sáu trứng: ung
Bảy trứng: ung
Còn ba trứng nở ra ba con:
Con: diều tha
Con: quạ bắt
Con: mặt cắt xơi
Chớ than phận khó ai ơi
Còn da lông mọc, còn chồi nảy cây…
Có lẽ tự sự của bài ca đã gây ra một tác động tâm lý tức thời bởi năng lượng truyền cảm của nó. Vừa đọc lên, đã thấy lòng quặn thắt, bởi một nỗi khổ cực khốn cùng.
Đúng là nỗi khổ cực khốn cùng của người nông dân Bình Trị Thiên đã được diễn tả, nhưng đồng thời bài dân ca cũng nói lên niềm hy vọng mong manh của họ.
Dựa vào việc trình bày cảnh ngộ của người nông dân chăm sóc mười quả trứng, bài dân ca đã cho ta một hình dung toàncảnh về một cuộc đời khốn khổ.
Mở đầu:
Tháng giêng, tháng hai, tháng ba, tháng bốn…,
- ta gặp một phép kể và một cách tính quen thuộc của người nông dân: tính tháng, tình thời vụ. Bởi vì người nông dân sống bằng thời vụ; cũng như thời vụ và những công việc đồng áng chi phối toàn bộ cuộc sống của họ. Từ tháng giêng đến tháng tư nhà nông chưa có thóc, chưa đến thì gặt lúa, chưa đến mùa thu gặt. Mùa thu gặt phải chờ đến tháng 5. Tháng 3, tháng 4 như vậy là coi như tháng giáp hạt, tháng đói. Và đó cũng chính là lý do mà người nông dân này vừa kể vừa kêu khổ:
… tháng ba, tháng bốn, tháng khốn, tháng nạn.
Khốn là khốn đốn, nạn – là vận nạn, chỉ vận nạn khốn quẫn, khốn cùng, như đói kém, túng quẫn, thiếu thốn. Biết làm gì khi vụ mùa chưa tới? Sự chờ đợi đối với người nông dân dài dằng dặc, nghĩa là từ sau khi gieo mạ và chờ cây lúa lên sau tháng giêng hai.
Anh ta có sáng kiến, như tạo được một cơ hội:
Đi vay đi dạm được một quan tiền
Ra chợ Kẻ Diên mua con gà mái.
Đi vay đi dạm tức là phải chạy vạy, vay mượn vất vả.
Nhưng bù lại:
Về nuôi hắn đẻ ra mười trứng.
Mười cái trứng – đó là tất cả vồn liếng, là sự sinh sôi, nảy nở của ngày mai. Điều đó vừa bé bỏng, vừa lớn lao một cách khắc nghiệt vì nó chứa đựng toàn bộ niềm hy vọng.
Có thể hình dung ra tâm trạng thấp thỏm của người nông dân khi anh ta chờ đợi và nhặt lên từng quả trứng, thận trọng soi nó dưới ánh nắng mặt trời và cay đắng nhận thấy:
Một trứng: ung
Hai trứng: ung
Ba trứng: ung
Bốn trứng: ung
Năm trứng: ung
Sáu trứng: ung
Bảy trứng: ung
Quả là một con số dài dằng dặc và một kết luận đau xót. Tưởng chừng mỗi tiếng ung buông ra như kèm với tiếng thở dài nặng trĩu đầy thất vọng!
Còn ba trứng nở ra ba con.
Bài dân ca không mô tả thời gian và việc chăm sóc gà con, những vẫn cho người nghe một cảm nhận về sự chuyển vận của thời gian qua lời kể và qua những chăm chú thường trực của họ. Họ vẫn đếm và vẫn tính, trên cái Không có gì. Bởi số phận hiện ra như một sự trắng tay
Con: diều tha
Con: quạ bắt
Con: mặt cắt xơi
Lời ca nghẹn lại như một tiếng khóc than. Ta cảm thấy như là có một sự ngẫm nghĩ, sự suy ngẫm đau đớn trước cái gì điêu tàn, tan thương và mất mát. Và đó chính là sự suy ngẫm trước hiện thực và trước số phận bạc bẽo, là sự trực diện với đau khổ, với sự khô cằn, tan vỡ, và với cái nghèo không lối thoát.
Hoàn tất một sự kể khổ như vậy thực là độc đáo.
Thế nhưng ở hai câu cuối của bài ca dao, lời an ủi và niềm hy vọng lại cất lên. Và nó cất lên giữa một sự điêu tàn, sự tang thương bởi những mảnh còn sót lại của những con gà non bị diều tha, quạ bắt…
Chớ than phận khó ai ơi
Còn da: Lông mọc, còn chồi: nảy cây.Chớ than – đừng than thở; là một lời khuyên nhủ, lời an ủi, và cũng là một cách kìm nén nỗi đau khổ ở trong lòng, để nỗi đau khổ trở nên âm thầm, tạo thành một nghị lực và một sự chịu đựng, để sống và hy vọng. Niềm hy vọng ấy là từ những gì kế tục, sống lại và đồng nhất với khởi sự của một sự sống: Còn da: Lông mọc, còn chồi: nảy cây.Bài dân ca Bình – Trị – Thiên này dường như là được hát trên những vùng đất hoang vu đầy nắng, gió và cát. Nó hát về những nỗi khổ dài dằng dặc quanh năm suốt tháng, gửi gắm vào đấy nỗi bi thương và hát lên để tỏ bày, để thông cảm và để thương nhau, bởi vì sự thông cảm và thương nhau cũng là một nguồn sống. Đặc biệt là niềm hy vọng. Niềm hy vọng ở đây, là cái còn lại cuối cùng, sau nỗi khổ đau.và lời khẩn cầu cho sự sống lại đâm chồi nảy mầm.Và lời khẩn cầu cũng như niềm hy vọng ấy được ca hát lên, tựa như một ngọn gió hoang vu cất lên từ mặt đất cằn khô, bao la đầy cát trắng.Có một điều lạ lùng, rằng cái tiếng hát bi thương, buồn khổ này dường như cứ đeo đẳng và đi theo ta mãi, ám ảnh và làm cho ai đã nghe nó một lần cũng không thể quên, dai dẳng như là một nỗi nhớ đến dĩ vãng của một thời, của một người, của một vùng đất, một xứ sở, ngay cả khi ta đã sung sướng và giàu có. Sự không quên này sẽ giống như một ký ức, và nó đích thực là một tình yêu đối với quê hương, đối với con người, đối với nhân dân.
Hoàng Thủy Hương
Tháng giêng, tháng hai,
Tháng ba, tháng bốn,
Tháng khốn, tháng nạn
Đi vay đi dạm
Được một quan tiền
Ra chợ Kẻ Diên
Mua con gà mái
Về nuôi hắn đẻ ra mười trứng
Một trứng: ung
Hai trứng: ung
Ba trứng: ung
Bốn trứng: ung
Năm trứng: ung
Sáu trứng: ung
Bảy trứng: ung
Còn ba trứng nở ra ba con:
Con: diều tha
Con: quạ bắt
Con: mặt cắt xơi
Chớ than phận khó ai ơi
Còn da lông mọc, còn chồi nảy cây…
Có lẽ tự sự của bài ca đã gây ra một tác động tâm lý tức thời bởi năng lượng truyền cảm của nó. Vừa đọc lên, đã thấy lòng quặn thắt, bởi một nỗi khổ cực khốn cùng.
Đúng là nỗi khổ cực khốn cùng của người nông dân Bình Trị Thiên đã được diễn tả, nhưng đồng thời bài dân ca cũng nói lên niềm hy vọng mong manh của họ.
Dựa vào việc trình bày cảnh ngộ của người nông dân chăm sóc mười quả trứng, bài dân ca đã cho ta một hình dung toàncảnh về một cuộc đời khốn khổ.
Mở đầu:
Tháng giêng, tháng hai, tháng ba, tháng bốn…,
- ta gặp một phép kể và một cách tính quen thuộc của người nông dân: tính tháng, tình thời vụ. Bởi vì người nông dân sống bằng thời vụ; cũng như thời vụ và những công việc đồng áng chi phối toàn bộ cuộc sống của họ. Từ tháng giêng đến tháng tư nhà nông chưa có thóc, chưa đến thì gặt lúa, chưa đến mùa thu gặt. Mùa thu gặt phải chờ đến tháng 5. Tháng 3, tháng 4 như vậy là coi như tháng giáp hạt, tháng đói. Và đó cũng chính là lý do mà người nông dân này vừa kể vừa kêu khổ:
… tháng ba, tháng bốn, tháng khốn, tháng nạn.
Khốn là khốn đốn, nạn – là vận nạn, chỉ vận nạn khốn quẫn, khốn cùng, như đói kém, túng quẫn, thiếu thốn. Biết làm gì khi vụ mùa chưa tới? Sự chờ đợi đối với người nông dân dài dằng dặc, nghĩa là từ sau khi gieo mạ và chờ cây lúa lên sau tháng giêng hai.
Anh ta có sáng kiến, như tạo được một cơ hội:
Đi vay đi dạm được một quan tiền
Ra chợ Kẻ Diên mua con gà mái.
Đi vay đi dạm tức là phải chạy vạy, vay mượn vất vả.
Nhưng bù lại:
Về nuôi hắn đẻ ra mười trứng.
Mười cái trứng – đó là tất cả vồn liếng, là sự sinh sôi, nảy nở của ngày mai. Điều đó vừa bé bỏng, vừa lớn lao một cách khắc nghiệt vì nó chứa đựng toàn bộ niềm hy vọng.
Có thể hình dung ra tâm trạng thấp thỏm của người nông dân khi anh ta chờ đợi và nhặt lên từng quả trứng, thận trọng soi nó dưới ánh nắng mặt trời và cay đắng nhận thấy:
Một trứng: ung
Hai trứng: ung
Ba trứng: ung
Bốn trứng: ung
Năm trứng: ung
Sáu trứng: ung
Bảy trứng: ung
Quả là một con số dài dằng dặc và một kết luận đau xót. Tưởng chừng mỗi tiếng ung buông ra như kèm với tiếng thở dài nặng trĩu đầy thất vọng!
Còn ba trứng nở ra ba con.
Bài dân ca không mô tả thời gian và việc chăm sóc gà con, những vẫn cho người nghe một cảm nhận về sự chuyển vận của thời gian qua lời kể và qua những chăm chú thường trực của họ. Họ vẫn đếm và vẫn tính, trên cái Không có gì. Bởi số phận hiện ra như một sự trắng tay
Con: diều tha
Con: quạ bắt
Con: mặt cắt xơi
Lời ca nghẹn lại như một tiếng khóc than. Ta cảm thấy như là có một sự ngẫm nghĩ, sự suy ngẫm đau đớn trước cái gì điêu tàn, tan thương và mất mát. Và đó chính là sự suy ngẫm trước hiện thực và trước số phận bạc bẽo, là sự trực diện với đau khổ, với sự khô cằn, tan vỡ, và với cái nghèo không lối thoát.
Hoàn tất một sự kể khổ như vậy thực là độc đáo.
Thế nhưng ở hai câu cuối của bài ca dao, lời an ủi và niềm hy vọng lại cất lên. Và nó cất lên giữa một sự điêu tàn, sự tang thương bởi những mảnh còn sót lại của những con gà non bị diều tha, quạ bắt…
Chớ than phận khó ai ơi
Còn da: Lông mọc, còn chồi: nảy cây.Chớ than – đừng than thở; là một lời khuyên nhủ, lời an ủi, và cũng là một cách kìm nén nỗi đau khổ ở trong lòng, để nỗi đau khổ trở nên âm thầm, tạo thành một nghị lực và một sự chịu đựng, để sống và hy vọng. Niềm hy vọng ấy là từ những gì kế tục, sống lại và đồng nhất với khởi sự của một sự sống: Còn da: Lông mọc, còn chồi: nảy cây.Bài dân ca Bình – Trị – Thiên này dường như là được hát trên những vùng đất hoang vu đầy nắng, gió và cát. Nó hát về những nỗi khổ dài dằng dặc quanh năm suốt tháng, gửi gắm vào đấy nỗi bi thương và hát lên để tỏ bày, để thông cảm và để thương nhau, bởi vì sự thông cảm và thương nhau cũng là một nguồn sống. Đặc biệt là niềm hy vọng. Niềm hy vọng ở đây, là cái còn lại cuối cùng, sau nỗi khổ đau.và lời khẩn cầu cho sự sống lại đâm chồi nảy mầm.Và lời khẩn cầu cũng như niềm hy vọng ấy được ca hát lên, tựa như một ngọn gió hoang vu cất lên từ mặt đất cằn khô, bao la đầy cát trắng.Có một điều lạ lùng, rằng cái tiếng hát bi thương, buồn khổ này dường như cứ đeo đẳng và đi theo ta mãi, ám ảnh và làm cho ai đã nghe nó một lần cũng không thể quên, dai dẳng như là một nỗi nhớ đến dĩ vãng của một thời, của một người, của một vùng đất, một xứ sở, ngay cả khi ta đã sung sướng và giàu có. Sự không quên này sẽ giống như một ký ức, và nó đích thực là một tình yêu đối với quê hương, đối với con người, đối với nhân dân.
Hoàng Thủy Hương
Còn trời, còn đất, còn non nước...
Trả lờiXóaChẳng lẽ ta đâu mãi thế nầy
Nguyễn Công Trứ