Thứ Năm, 2 tháng 3, 2017

[Bài 17&18] Tình sử Hồ Xuân Hương-Nguyễn Du/ Ngân Triều biên khảo


[Bài 17]
II .10
Xuân Hương lại gửi cho Nguyễn Du một bài thơ khác, bài Thu nhật tức sự:
Ngọn gió Tây đêm qua mang lạnh về, giậu cúc đìu hiu dù không có tuyết. Mưa rơi nặng mặt nước sông mờ mịt, mưa dứt, trơ trọi một đám mây núi như có ai vẽ đường nét mi. Sen tàn cuối hạ còn lưu lại một chút hương mùa xuân cũ. Bên cây liễu hương thơm lừng, chiếc áo xanh đã phai. Chim hót có thấu chăng cõi lòng mình,mỗi lời còn đọng mối tình thương nhớ quê. Trong thơ Nguyễn Du và Hồ Xuân Hương, gió Tây không chỉ là gió Lào từ hướng Tây, mà là quân Tây Sơn ra Bắc, do đó ta có thể đọc một cách khác những ẩn ý trong bài thơ tả cảnh để nói lên tình hình chính trị đương thời. Quân Tây Sơn ra Bắc làm cho tình hình đìu hiu. Cuộc chiến đang diễn ra trong Nam với quân Chúa Nguyễn, tình hình vẫn còn mờ mịt. Nay chỉ còn một mình Vua Tây Sơn nơi đất Bắc, triều đại nhà Lê suy tàn nhưng lòng người cũng còn nhớ đến. Có ai thấu chăng lòng mình còn nhớ đến quê hương.
 
 Hương liễu áo xanh phai, vẫn khoe,
Ngày thu tức cảnh 
Đêm qua lành lạnh gió Tây về,
Dậu cúc đìu hiu tuyết chửa đi.
Mưa nặng sông chia mờ mặt nước,
Mây trơ núi biếc vẽ đường mi
Sen tàn cuối hạ làn xuân rớt,
Liễu rũ hương thừa áo biếc che.
Chim hót nỗi mình ai có thấu,
Lời lời còn đọng mối tình quê. 

Thơ chữ Hán Hồ Xuân Hương. Hương Đình Cổ Nguyệt Thi tập. Nhất Uyên dịch thơ.
*
Thu nhật tức sự

Tây phong tạc dạ áp hàn chi, 
Ly cúc tiêu sơ tuyết vị phi. 
Mật vũ tà si phân thuỷ diện, 
Cô vân miêu chức viễn sơn my. 
Liên dư tàn hạ lưu xuân đới, 
Liễu bạng nhiêu hương lão thuý y. 
Đề điểu mạc phi tri ngã huống, 
Thanh thanh trường động cố hương ty (tư).
*
Nguồn: 
1. Hồ Xuân Hương thơ chữ Hán - chữ Nôm & giai thoại, Bùi Hạnh Cẩn, NXB Văn hoá - Thông tin, 1999 
2. Tứ gia thi tập (ký hiệu R. 423), Thư viện quốc gia Việt Nam

*


西 枝, 
未飛。 
面, 
眉。 
帶, 
  衣。
況, 
聲長 思。
*
Ngày thu tức cảnh

Bản dịch của Bùi Hạnh Cẩn


Đêm qua lành lạnh gió tây về, 
Giậu cúc đìu hiu tuyết chửa đi. 
Mưa nặng sông chia mờ vẻ mặt, 
Mây trơ non thẳm vẽ đường mi. 
Sen tàn hạ cuối dây thơm sót, 
Liễu ngả xuân thừa biếc áo che. 
Chim hót nỗi mình chăng có thấu? 
Lời lời dài đọng nỗi lòng quê.
*

Ngân Triều diễn thơ:
Gió Tây, đêm rét lạnh tư bề,
 Cúc vội đìu hiu tuyết chửa về.
 Nặng hạt mưa rơi sông mịt mịt,
 Tạnh mưa, mây núi vẽ đường mi.
Sen tàn cuối hạ còn thơm rớt,
 Hương liễu áo xanh phai, vẫn khoe,
Chim hót thấu chăng lòng lữ thứ?
Tiếng buồn vang vọng nỗi niềm quê.
*****
[Bài  18]

II .11 
Nguyễn Du lại viết một bài thơ Thu nhật ký hứng, mở đầu bằng chữ Tây Phong đáp lại bài thơ Thu nhật tức sự của Hồ Xuân Hương. Gió Tây mới đến, anh vẫn chưa về mà đã thấy khí trời lạnh lắm. Non sông nước cũ ngắm trông buổi chiều tà. Dù có xa em thân thế mặc như đám mây trôi nổi. Giật mình sợ cái cảnh già đến, đêm qua tiếng gió thu ở đâu nổi lên. Cười mình đầu bạc mà còn vụng thu xếp, đầy sân. Ta đọc lại bài thơ bằng hậu ý, Nguyễn Du tâm sự: Vì Tây Sơn ra Bắc nên chàng chưa về Thăng Long, không khí chính trị làm cho lòng dạ tái tê. Nhìn non nước cũ nhà Lê thời vận đã tàn, ở quê mình mà cũng như quê người, thân phận tha hương vẫn như đám mây trôi nỗi (khóc cười theo thời thế, im lặng giữ thân) Sợ rằng tuổi ngày một cao mà chưa làm nên việc gì, Đêm trước có nghe gió thu, từ phương Nam (Lạy trời cho có gió Nồm, để thuyền chúa Nguyễn dong buồm thẳng ra) mọi người đều hay biết. Tự trách mình bạc đầu còn vụng tính, nhìn lá vàng rơi rụng đầu hè.
 
Ngày thu cảm hứng 
Thu nhật ký hứng
Gió Tây mới đến khách chưa về, 
Khí lạnh mười phần dạ tái tê. 
Nước cũ non sông trời lặng ngắm, 
Quê người thân thế gửi mây che. 
Cái già chợt sợ nay đà đến, 
Thu đến nơi nơi đêm trước nghe. 
Tự trách bạc đầu ta vụng tính, 
Lá vàng rơi rụng, rụng đầu hè. 
Tây phong tái đáo bất qui nhân,
Đốc giác hàn uy dĩ thập phần.
Cố quốc hà sơn khan lạc nhật,
Tha hương thân thế thác phù vân.
Hốt kinh lão cảnh kim triêu thị,
Hà xứ thu thanh tạc dạ vân,
Tự thẩn bạch đầu khiếm thu thập
Mãn đình hoàng lạc diệp phân phân.

Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Thanh Hiên thi tập. Nhất Uyên dịch thơ.
Chú thích:
Bạch đầu:
白  頭, Nguyễn Du thường tả mình dầu bạc, có lẽ ông bị bệnh bạc tóc sớm. Thế kỷ 18,19 tuổi thọ trung bình người Việt Nam chỉ trên năm mươi.Đặc biệt làng Tiên Điền có tục ăn lão năm 53 tuổi, trên tuổi này được xếp vào hạng trưởng lão, ăn trên ngồi trước trong làng.. Anh em Nguyễn Du chỉ sống trên dưới 55 tuổi.
Tha hương:
他  鄉, Nguyễn Du còn ở Hà Tỉnh, đang nghĩ chuyện tha hương, vào Nam theo Chúa Nguyễn Ánh
*
Tham khảo Bản chữ Hán, Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Trần Văn Nhĩ dịch thơ, bài số 111, trang 238,NXB Văn Nghệ, 2007.
Huế vào thu, gợi hứng cho Nguyễn Du viết bài:

秋  日  寄  興
Thu Nhật Ký Hứng

西  風  再  到  不  歸  人
Tây phong tái đáo bất quy nhân
頓  覺  寒  威  已  十  分
Đốn giác hàn uy dĩ thập phân
故  國  河  山  看  落  日
Cố quốc hà sơn khan lạc nhật
他  鄉  身  世  托  浮  雲
Tha hương thân thế thác phù vân
忽  驚  老  景  今  朝  是
Hốt kinh lão cảnh kim triêu thị
何  處  秋  聲  昨 夜  聞
Hà xứ thu thanh tạc dạ văn
自  哂  白  頭  欠  收  拾
Tự thẩn bạch đầu khiếm thu thập
滿  庭  黃  葉  落  紛  紛
Mãn đình hoàng diệp lạc phân phân.
Dịch nghĩa:

Ghi Hứng Ngày Thu

Gió thu tới chưa được về
Chợt nghe rét mướt sắt se gấp mưòi
Chiều tà non nước trông vời
Quê người thân thế nổi trôi không nhà
Sáng nay chợt sợ cảnh già
Tiếng thu xào xạc đêm qua chốn nào
Trách mình vụng tính bạc đầu
Lá vàng lả tả xạc xào đầy sân.
Gió thu lại về, nhưng tác giả chưa được nghỉ hưu. Cái lạnh như lạnh thêm gấp mưòi. Niềm nhớ quê làm người xa quê thấy mình như mây nổi, thấy sợ cảnh già, chẳng còn biết tiếng thu ẩn náu nơi nào. Chỉ còn  trách mình vụng tính. Đầy sân lá vàng rơi lả tả.
*
Xạc xào nghe lá rụng đầy hè

nguồn: Mối tình của Hồ Xuân Hương và Nguyễn Du, TS Phạm Trọng Chánh



Ngân Triều diễn thơ:


Gió Tây mới  đến, vẫn xa quê,
Đã thấy khí trời lạnh tái tê.
Nước cũ chiều tà như gấm vóc,
Tha hương thân thế, mây lê thê.
Cảnh già sợ lắm nay đà biết,
Tiếng gió thu đâu lại trở về.
Đầu bạc tự trào còn vụng tính,
Xạc xào nghe lá rụng đầy hè

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét