Thứ Hai, 1 tháng 2, 2016

Hỏi trăng (2)/ Thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hương/ Ngân Triều chú giải


Bài số  43

                                                      Hoûi  traêng   (2)
                                                      Hồ Xuân Hương



                                 Trải mấy thu nay vẫn hãy còn,           (1)
                                 Cớ sao khi khuyết lại khi tròn.                      (2)
                                  Hỏi con bạch thố đà bao tuổi,           (3)
                                  Hỏi chị Hằng Nga đã mấy con?                            (4)
                                  Đêm tối cớ chi soi gác tía?                 (5)
                                  Ngày xanh còn thẹn với vừng son.               (6)
                                  Năm canh lơ lửng chờ ai đó?            (7)
                                  Hay có tình riêng với nước non?                 (8)
                                                                            (Quốc văn tùng ký) 
      Khảo dị: 
      - Bản Xuân Hương thi sao 
      Tựa đề: Vịnh vấn nguyệt 
      Mấy vạn trăm năm vẫn hãy còn 
      Cớ sao khi khuyết lại khi tròn? 
      Nuôi chàng Ngọc Thố đà bao tuổi 
      Giấu ả Hằng Nga đã mấy con 
      Đêm thẳm cớ chi soi gác tía 
      Ngày xanh sao lại thẹn vòng tròn 
      Năm canh thơ thẩn chờ ai đó 
      Hay có tình riêng mấy nước non? 
      - Bản Xuân Hương thi vịnh 
      Mấy vạn năm nay vẫn hãy còn 
      Cớ sao khi khuyết lại khi tròn? 
      Hỏi con Ngọc Thố đà bao tuổi 
      Chớ gái Hằng Nga được mấy con 
      Đêm vắng cớ chi soi gác tía 
      Ngày chầy sao thẹn mấy vầng son 
      Năm canh thơ thẩn chờ ai đó 
      Hay có tình riêng mấy nước non? 
      - Bản Nghi Xuân Uy Viễn Nguyễn gia thế phả chép bài này của Nguyễn Công Trứ, với lời như sau: 
      Mấy vạn ngàn năm vẫn hãy còn, 
      Cớ sao khi khuyết lại khi tròn? 
      Kia muông ngọc thỏ bao nhiêu tuổi, 
      Nọ ả Hằng Nga đã mấy con? 
      Chập tối cớ chi dòm gác tía, 
      Ban ngày sao thẹn với vừng son. 
      Ba mư­ơi mồng một đi đâu vắng, 
      Hay có tình riêng với nư­ớc non? 
      Nguồn: 
      - Kiều Thu Hoạch, Thơ nôm Hồ Xuân Hương, Nxb Văn học, 2008 
-     "Thêm ba bài thơ Nôm của Nguyễn Công Trứ", Nguyễn Thị Lâm, Tạp chí Hán Nôm, số 4 (107), 2011
     Văn bản chữ Nôm
𠳨𠳨𠳨   𣎞
𣦰           吻 矣 群
故   欺 闕 吏 欺 𧷺
𠳨 𡥵 白  厝  它 包  
𠳨 姊  姮  娥  㐌 氽 𡥵
𡖵 最  故  之 𥋸 格  紫
𣈜 𩇛 群  𢢆 唄  𣜸 𣜱
  更 泸  𣼽  䟻 埃  𥯉
能  𣎏 情 𥢆 𢭲 渃 𡽫
     Chú giải:
     Gác tía:格 紫,theo thành ngữ gác tía lầu son, cái gác sơn màu tía, cái lầu có màu son, tức là nhà ở cao, rộng; tả cảnh sống giàu sang phú quý thuộc thời phong kiến xưa.
lơ lửng 𣼽 hay lửng lơ:ở trạng thái di động nhẹ, ở khoảng giữa lưng chừng, không dính vào đâu cả.
   Xuất xứ: Bài nầy trích trong thơ truyền khẩu của Hồ Xuân Hương, do Lê Quý chép trong văn bản Landes năm 1882, từ một bản chép tay của con cháu Tử Minh, học trò của hồ Xuân Hương.
     Đại ý: Tâm sự của một người con gái mới biết yêu.
     “Hồ Xuân Hương đã yêu Nguyễn Du  rồi, tự vấn lòng mình:
*(1-2)Hỏi vầng trăng muôn thuở, Trải mấy thu nay vẫn hãy còn, những câu hỏi vu vơ, vì sao trăng khi khuyết lại khi tròn.
*(3-4) Hỏi con bạch thố, thỏ bạch trên cung trăng được bao nhiêu tuổi; và chị Hằng Nga bây giờ đã được mấy con…
*(5-6) Đêm tối cớ chi soi duyên nàng đến với Nguyễn Du, con nhà quyền quý ở gác tía lầu son. Khiến cho ngày xanh gặp nhau, thẹn với mặt trời đang lên.
*(7-8) Năm canh lơ lửng trằn trọc nhớ ai, hay đã có tình riêng với nước non, với chàng”.(Theo Trang Web của TS Phạm Trọng Chánh, Cổ Nguyệt Đường và mối tình Hồ Xuân Hương với Nguyễn Du, trang 5).


-

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét