CHỮ NÔM VỚI ĐẠO CÔNG GIÁO
TỪ THẾ KỶ XVII – XX
Để vượt qua những
trở ngại của việc truyền thông giao tiếp và trong khi chữ Quốc ngữ còn trong
giai đoạn hình thành, các nhà truyền giáo đã biết vận dụng chữ Nôm là một thứ văn
tự sử dụng chữ Hán để ghi lại cách đọc tiếng Việt mà người Việt Nam vẫn còn dùng
khá phổ thông trong xã hội bên cạnh chữ Hán trong sinh hoạt văn chương và giao
tiếp hằng ngày, qua sự cộng tác của một số thầy giảng am tường Nho học để ghi lại
kinh bổn, giáo lý trong các công tác mục vụ.
Chữ Nôm là văn tự
ghi lại tiếng nói của người Việt Nam, theo sự biện giải đơn giản của một nhà
nghiên cứu, có lẽ do chữ Nam đọc chệch đi, “chữ Nôm” có nghĩa là “chữ của người
phương Nam, đối với “chữ Hán” của người phương Bắc, tức Trung Hoa.” (Nguyễn Thị
Chân Quỳnh, Khoa Cử Việt Nam, Thi Hương, tập
thượng, An Tiêm xuất bản, Paris, 2002, tr. 126).
Trong lời giới thiệu
cuốn Đại Tự Điển Chữ Nôm của cụ Vũ Văn
Kính, một tác giả Công Giáo ngoài 80 tuổi ở trong nước, ông Mai Quốc Liên đã viết
rằng “chữ Nôm là một thứ chữ ‘ghi âm’, nhưng
ghi qua việc dùng chữ Hán tuy nhìn chung có tính qui luật, nhưng còn biết bao cái
ngoài qui luật, biết bao cái biệt lệ, ngẫu nhiên, thay đổi qua từng thời, từng
tác phẩm. Nó chưa hề được điển chế hóa, chưa hề được hoàn thiện đến cùng, mặc dù
nó được hình thành khá lâu, ít nhất cũng đã có lịch sử mười thế kỷ.” (Nhà
x.b. Văn Nghệ TP. HCM, Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, 1998, trang 6).
Theo Giáo sư Đoàn
Khoách, “chữ Nôm là loại văn tự xây dựng
từ chất liệu chữ Hán, do đó trước khi tìm hiểu cách cấu tạo chữ Nôm, chúng ta
thử tìm hiểu sơ qua cách kết cấu chữ Hán mà người xưa gọi là lục thư 六 書”. (Đoàn Khoách, Đặc san Đại Học Huế, Vài nét đại cương về chữ Nôm, 2017, trang 174). Giáo sư Đoàn Khoách
cũng cho biết : “Trong việc cấu tạo chữ
Nôm, ngoài việc dùng chữ nghĩa Hán âm Việt (gọi là Hán tự Việt độc hay Việt độc
hoặc Hán-Việt) như 家 庭 gia đình hay xã hội 社 會
v.v…, trước đây người Việt thường chỉ mượn ba trong sáu cách của lục thư là Hội
ý, Hình thanh, Giả tá. Tuy nhiên, trong quá trình chuyển biến của lịch sử, do
âm đọc chữ Hán của người Việt có sai khác, nên phần ngữ âm lịch sử Việt Nam
cũng có một ảnh hưởng nhất định trong việc cấu tạo chữ Nôm.” (tr. 174-175).
Theo Trần Văn Giáp,
trong quyển Lược khảo vấn đề chữ Nôm thì
“chữ Nôm là một thứ chữ khối vuông của Việt
Nam dùng để phiên âm tiếng Việt, mới xuất hiện trên đất Việt Nam từ cuối đời
Hán Minh đế, dưới thời thống trị của Sĩ Nhiếp, thế kỷ thứ II sau công nguyên,
do người Việt Nam tự sáng tạo ra.” (Trần Văn Giáp, Nhà xb Ngày Nay
Publishing 2002, tr. 34). Ý kiến của Trần Văn Giáp là dựa vào quan điểm của sư
Pháp Tính 法 性 tác giả cuốn Chỉ Nam Ngọc
Âm Giải Nghĩa 指 南 玉 音 解 義 được khắc in vào năm Tân tị thứ 22 triều
Lê Cảnh Hưng (1761). Bài tựa sách này có đoạn như sau: “Từ khi thánh nhân lập ra lối chữ có bộ phận để chỉ nghĩa, chỉ tên gọi
cho chính xác, khiến cho người Trung Quốc dễ hiểu, còn các dân tộc khác thì hãy
còn khó hiểu. Mãi đến thời Sĩ Vương sang đóng ở nước ta trong khoảng hơn 40
năm, ra sức giáo hóa, giải nghĩa bằng tiếng Nôm để thông hiểu từng đoạn, từng
câu, họp lại thành thơ ca quốc ngữ, đề ghi tên gọi, ghép vận làm thành sách Chỉ
Nam Phẩm Vựng 指 南 品 彙 chia ra thượng hạ 2 quyển…” (Đoàn Khoách,
Vài nét đại cương về chữ Nôm, Đặc san Đại
Học Huế, Kỷ niệm 60 năm Đại Học Huế (1957-2017), trang 177).
Dưới thời Tự Đức
(1848-1883), Văn Đa cư sĩ Nguyễn Văn Xan 文 多 居 士 阮 文 餐 cũng đề cập niên đại thành lập chữ Nôm trong cuốn Đại Nam Quốc Ngữ 大 南 國 語 tựa đề năm Tự Đức thứ 33 (1880) trong có đoạn (dịch): “Nước ta từ
đời Sĩ Vương (Sĩ Nhiếp) đã đem dịch tiếng Nam bằng tiếng Bắc (Trung Quốc);
trong số tiếng dịch ấy, có nhiều tên còn chưa rõ, như “thư cưu” (chim uyên
ương” chẳng biết gọi là chim gì, “dương đào” (cây khế) chẳng biết gọi là cây
gì…” (Đoàn Khoách, Bài đã dẫn, tr.178).
Những người chung ý
kiến với Trần Văn Giáp có Lê Dư, Nguyễn Đổng Chi.
Các học giả P.
Pelliot và L. Cadière cho rằng chữ Nôm được sáng chế từ cuối thế kỷ XIII, dẫn
đoạn sau đây trong sách Hải đông chí lược
海 東 志 畧 của Ngô Thời Sĩ 吳 時 仕 : “Ngã quốc văn học đa dụng quốc ngữ tự Thuyên thủy” (văn học nước ta dùng nhiều quốc ngữ bắt đầu
từ ông Thuyên); lại nêu những danh sĩ đồng thời với Nguyễn Thuyên như Nguyễn Sĩ
Cố có tập Quốc Âm thi phú, Chu Văn An
có Quốc Ngữ thi tập… để minh chứng những
hoạt động văn nghệ nói trên nằm trong phong trào lưu hành thi phú bằng tục ngữ
trong thời đại nhà Trần. Từ đó hai ông suy luận rằng chữ Nôm là thứ chữ để biên
ký tục ngữ Việt Nam, có lẽ được sang chế từ cuối thế kỷ thứ XIII (trong đời nhà
Trần) là một thời kỳ văn học tục ngữ (quốc âm thi) rất phát đạt tại Việt Nam.
(Đoàn Khoách, bài đã dẫn, tr. 178). Chữ tục ngữ nói ở đây xin hiểu là tiếng Việt
sử dụng hằng ngày. Người ta cũng tương truyền câu chuyện Nguyễn Thuyên, (bắt
chước Hàn Dũ năm 819) làm bài thi đuổi cá sấu xuất hiện ở sông Phú-lương (Nhị
Hà), sau đó được vua Trần Nhân Tông đổi tên Hàn Thuyên, nhưng theo Trần Văn
Giáp trong Lược truyện các tác gia Việt
Nam, tập I, bài thơ đuổi cá sấu in
trong Tứ Dân Văn Uyển hồi đầu thế kỷ XX nói là của Hàn Thuyên và được một số
sách báo in lại, đúng ra là của Phó bảng Nguyễn Can Mộng ngụy tạo để đùa chơi,
tiếc rằng lời cải chính in trên một số báo sau đó ít người được đọc nên nhiều
người vẫn tưởng là của Hàn Thuyên thực. Song nếu đọc kỹ sẽ thấy toàn bài không
có lấy một từ ngữ cổ, thơ cũng không viết theo thể Hàn luật, khó có thể tin là
của Hàn Thuyên.” (Nguyễn Thị Chân Quỳnh, Sđd, tr. 128).
Theo học giả Nguyễn Văn
Tố, chữ Nôm được sử dụng vào thế kỷ VIII là vì Phùng Hưng khởi nghĩa
đánh diệt Cao Chính Bình năm 791, chiếm phủ lỵ, được dân chúng tôn là “Bố Cái đại
vương” 布 蓋 大 王. Về ý nghĩa chữ Bố Cái, sách Cương
Mục chua rằng: “Cổ tục hiệu phụ viết Bố, mẫu viết Cái” (theo cổ tục nước ta
gọi cha là Bố, mẹ là Cái). Họ Nguyễn lấy đoạn sử ấy như một thực lệ chữ Nôm đã
được sử dụng vào thế kỷ VIII và đặt niên đại thượng hạn (terminus ad quem) của
chữ Nôm vào cuối thế kỷ thứ VIII. Đào Duy Anh, trong cuốn Chữ Nôm, nguồn gốc-cấu tạo-diễn biến đã phản bác ý kiến của Nguyễn
Văn Tố khi cho rằng “ Việt sử lược là
sách tóm tắt bộ Sử Ký của Lê Văn Hưu không thấy chép hiệu Bố Cái Đại Vương, mà
bia đề đền thờ Phùng Hưng ở xã Cam lâm, huyện Phúc thọ, tỉnh Hà tây dựng năm
Quang Thái thứ 3, tức năm 1390 đời Trần Thuận-tôn cũng không thấy chép hiệu ấy.
Mãi đến sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ở thời Lê sơ mới thấy chép hiệu Bố cái đại
vương. Hiệu nước thời nhà Đinh là Đại cồ việt cũng đến bấy giờ mới thấy chép.
Như thế thì cũng chưa có thể tin chắc rằng những chữ nôm bố và cái đã có từ thế
kỷ thứ VIII.” (Đào Duy Anh, Chữ Nôm,
nguồn gốc - cấu tạo - diễn biến, Nhà xb. Khoa học Xã hội, 1975, trang 42).
Cụ Sở Cuồng Lê Dư
cho rằng quốc hiệu Việt Nam ở hai triều Đinh và Tiền Lê là Đại Cồ Việt 大 瞿 越 . Đó là một thí dụ chữ Nôm được sử dụng
trong thế kỷ X (Đoàn Khoách, Bài đã dẫn, tr. 179).
Theo ý kiến của
Giáo sư Chen Ching Ho 陳 京 和 (Trần Kinh Hòa) với chuyên môn về lịch sử các nước Đông Nam Á, từng
đảm trách chức vụ Giáo sư môn Sử học tại các đại học: Đại học Keio, Tokyo,
Japan, National University Taipei, Taiwan, Soka University Hachioji, Tokyo,
Japan, Korea University, Seoul, Korea, Chinese University of Hong Kong,
Southern Illinois University, Carbondale, Illinois, USA, và các đại học Saigon,
Dalat, Huế … chữ Nôm được sáng chế sau khi Việt độc thành lập, bắt đầu từ triều
đại nhà Lý. (Chingho A. Chen, “Hình thái
và niên đại sáng chế chữ Nôm”, Đoàn Khoách dịch, Tạp chí Đại Học, số 35-36, Viện Đại Học Huế,
tháng 10-12 năm 1963).
Khởi nguyên của chữ
Nôm theo Giáo sư Chen, phải ở vào giai đoạn sáng chế chữ hình thanh mới là hợp
lý và thích đáng. Muốn giải quyết niên đại sáng chế chữ Nôm, theo Giáo sư, phải
kiểm thảo hai vấn đề: niên đại hoàn bị của “khải thể” chữ Hán và niên đại Việt
ngữ áp dụng Hán ngữ làm ngữ vựng.
Vấn đề thứ nhất,
theo kết quả nghiên cứu của Văn Hựu, một học giả Trung Hoa (tác giả bài “Luận về tổ chức của chữ Nôm” đăng trong Yên kinh Học báo, kỳ 14, bài này đã được
nhà học giả Nhật-bản Sơn-bảng Đại-lang giới thiệu trong Đông-dương Học báo quyển 22, số 2, năm 1935. Chú thêm của NĐC) thì
chữ Nôm dứt khoát không thể xuất hiện vào thời cổ đại. Vấn đề thứ hai, theo kết
quả nghiên cứu ngữ âm học lịch sử tiếng Việt của H. Maspéro lại cho biết gần một
nửa ngữ vựng trong tiếng Việt là những tiếng mượn của Hán ngữ. Tuy nhiên đại đa
số Hán ngữ lại truyền nhập vào Việt ngữ ở một thời đại tương đối muộn và phải
qua trung gian của Việt độc (âm Hán-Việt), nghĩa là sau khi có cuộc phân ly
chính trị giữa Trung Quốc và Việt Nam, mới được thành lập. Có điều, hai vương
triều độc lập đầu tiên của Việt Nam là nhà Đinh (968-980) và nhà Tiền Lê
(980-1009) đều bị nội tranh quá nhiều và mau chóng bị lật đổ, nên phải chờ đến
nhà Lý (1010-1225) mới xuất hiện một vương triều tương đối lâu bền và ổn định.
Sự chỉnh đốn về chế độ văn vật, sự xuất hiện cuộc vận động văn hóa, sự thiết lập
chế độ khoa cử đều bắt đầu từ triều đại nhà Lý. Sách Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú cũng khởi bút từ
triều Lý. Bởi thế Giáo sư Chen suy luận rằng Việt độc đại khái được thành lập
trong thời đại nhà Lý.
Cũng nên thấy thêm
rằng hiện nay phần nhiều tiếng mượn của Hán ngữ trong tự vựng Việt ngữ đều
thoát thai từ Việt độc. Hiện tượng ấy chứng tỏ rằng những tiếng mượn ấy được
truyền vào tự vựng Việt Nam trong thời kỳ Việt Nam độc lập. Điều đáng chú ý nữa
là trong quy chế chữ Nôm, các chữ Hán giả tá hoặc hầu hết thanh phù của chữ Nôm
đều căn cứ vào Việt độc cả. Do đó mà Giáo sư Chen đoán định niên đại thượng hạn
của chữ Nôm là bắt đầu từ triều đại nhà Lý.” (Đoàn Khoách, Bài đã dẫn, tr. 181).
Có lẽ ai cũng biết
sự khó khăn của chữ Nôm khi muốn hiểu nó thì phải học chữ Hán trước, tuy vậy đến
người Hoa cũng không thể viết được hoặc đọc được chữ Nôm. Lẽ dĩ nhiên, biết được
chữ Nôm sẽ giúp cho việc hiểu biết thêm trong phạm trù nghiên cứu sử học hay
văn học, tôn giáo hoặc các ngành ngôn ngữ học khác.
Trong cuốn “Lược khảo vấn đề chữ Nôm”, Trần Văn Giáp
(1902-1973) đã viết: “Chính Ngô Thời Nhiệm,
thế kỷ thứ XVIII, đã phải nói trong bài tựa sách tự điển của ông: “…故 我 國 字 較 難 於 中 國 Cố
ngã quốc tự hiệu nan ư Trung Quốc (Cho
nên chữ nước ta so ra khó hơn chữ Trung quốc…” . Đó là những lý do chính khiến
cho chữ Nôm không còn có thể thông dụng dễ dàng được. Nhưng, mặc dầu thế, do sự
tranh đấu không ngừng của nhân dân, chữ Nôm vẫn đã được sử dụng. Nó đã đồng thời
tự phát với sự tiến triển của ngữ ngôn dân tộc và văn học cổ điển Việt Nam. Cho
nên, chúng ta không thể không nghiên cứu chữ Nôm một cách sâu rộng để thu tàng
lấy vốn cổ quí báu của ta về mọi lãnh vực.” (Trần Văn Giáp, Sđd, tr. 88)
Trong khi đó Giáo
sư Đoàn Khoách lại đã viết: “Nhưng cái ưu
điểm lớn nhất của chữ Nôm là ghi âm được tiếng Việt một cách tương đối trung thực,
trong khi chữ quốc ngữ ngày nay chưa xuất hiện. Nhờ thế mà ngày nay người Việt
biết được phần nào tình cảm và suy tư của tổ tiên mình. Ngoài ra chữ Nôm có thể
phân biệt được tiếng Việt đồng âm dị nghĩa mà thường rất khó phân biệt, ví dụ may
rủi với may vá, bụng dạ với vâng dạ, đầy đủ với đu đủ,
vợ chồng với chồng chất, v.v… Ưu điểm này thì chữ quốc ngữ hiện
nay chưa bì được… Lịch sử chữ Nôm ở Việt Nam đã có gần chín, mười thế kỷ nay,
các loại sử liệu bằng chữ Nôm không những có giá trị về phương diện sử học, mà
còn có giá trị về nhiều phương diện khác nữa như ngôn ngữ, phong tục, xã hội,
kinh tế, triết học, văn học v.v… mà các học giả đời nay cần sưu tầm, khai thác.
(Đoàn Khoách, bđd, tr. 184)
Như vậy, chữ Nôm là nguồn ký thác tình cảm và suy tư của tổ
tiên qua trường kỳ lịch sử mà con cháu là chúng ta cần có bổn phận tìm hiểu và
quý trọng bảo lưu. Theo cuốn sách của Đào Duy Anh được nhắc ở trên, hiện nay tại
Thư viện Khoa học Xã hội Hà Nội còn tàng trữ khoảng 1186 cuốn sách chữ Nôm, đó
là một kho tàng văn hóa cần được sử dụng khai thác.
Tiếp đây là ý kiến
của một người ngoại quốc nhưng cuộc đời đã cống hiến nhiều cho sự nghiệp văn
hóa dân tộc Việt Nam, Giáo sư Chen Ching Ho cũng đã viết rằng: “Sở dĩ chúng tôi đưa vấn đề chữ Nôm ra thảo
luận, là vì chúng tôi muốn nhấn mạnh đến các giá trị các loại sử liệu bằng chữ
Nôm về phương diện sử học. Đưa ra một vài nhận thức về nguyên lai và cấu tạo của
chữ Nôm, là cốt để tiện việc đọc và giải thích văn Nôm, vì văn Nôm là một di sản
văn hóa của Việt Nam.” (Đoàn Khoách, bđd, tr. 183).
Luận điểm của Giáo
sư Chen Ching Ho ở trên khiến chúng tôi nhớ lại một câu vè của người dân Bình
Trị Thiên về các cụ Ngô Đình Khả, cụ Nguyễn Hữu Bài về việc “đày vua” và “đào mả”. Các câu vè đó thường viết: “Phế (đày) vua không Khả, đào mả không Bài”. Ý
muốn nói cụ Ngô Đình Khả phản đối việc người Pháp phế vua Thành Thái, và cụ
Nguyễn Hữu Bài phản đối việc khâm sứ Mahé đào mả vua Tự Đức. Trong cuốn Đại Nam Thực Lục Chính biên Đệ lục kỷ Phụ
biên, do Quốc sử quán Triều Nguyễn biên soạn, câu vè đó được in lại bằng chữ
Nôm và chúng tôi đọc thấy là: “Bỏ vua không Khả, bới mả không Bài”
(Cao Tự Thanh dịch và giới thiệu, Nhà xb. Văn hóa – Văn nghệ, 2012, tr. 779).
Chữ bỏ viết chữ bổ 補 đọc bỏ, chữ bới (phương ngữ Bình Trị Thiên thường dùng chữ bới thay vì chữ đào) viết chữ bãi 擺 đọc Nôm là bới. Thí dụ
vừa nói đây cũng có cơ duyên giúp giới thích đọc sử (nếu biết chữ Nôm) đính
chính được câu nói theo đúng nguyên văn của nó.
Trong một bài báo
có tên Những lời thề của Lê-Lợi (văn Nôm
đầu thế kỉ 15) của cụ Hoàng Xuân Hãn, đăng trên Tạp chí Sử Địa, số 1 của
Nhóm Giáo sư, Sinh viên Đại Học Sư Phạm (Nguyễn Nhã) Sài gòn, 1966, tác giả cho
biết “nếu quả rằng các bài nôm nầy có tự
đời Lê Lợi, và không bị sao lại thất-chân, thì đây là hiện vật độc nhất của Việt-ngữ
trước nay già 550 năm.” (trang 4). Đây là một bài nghiên cứu có giá trị với
sự phân tích cẩn trọng của một học giả uyên bác, và cũng là một cống hiến rất
quý báu cho giới nghiên cứu văn sử học Việt Nam về chữ Nôm và văn Nôm.
2.- Chữ Nôm với đạo Công Giáo trong giai đoạn
thế kỷ XVII-XX.
Theo dõi quá trình xuất hiện của chữ Nôm
trong lịch sử văn học nước ta như ở trên, chúng ta cũng không lạ gì khi thấy các
giáo sĩ người nước ngoài lần đầu tiên khi đến nước ta truyền đạo đã nhìn thấy
chữ Nôm như là một lợi khí có sẵn cho các dự tính truyền giáo của mình.
Có một cuốn giáo lý
tiên khởi viết bằng chữ Nôm mà nay đã mất, được đề cập tới trong bức thư đề ngày
17-12-1621 của Thừa sai Gaspar Luis ghi lại như sau:
“Cuốn giáo lý mà người ta đã biên soạn bằng
tiếng Đàng Trong đã giúp ích nhiều lắm bởi vì không những trẻ em học thuộc lòng
cuốn giáo lý đó, mà người lớn cũng học. Cho tới đây các giáo hữu chỉ dùng tràng
hạt để đeo vào cổ cho người ta thấy mình là người có đạo. Nay họ dùng tràng hạt
để đọc kinh…” (Trương Bá Cần, Lịch
sử phát triển Công Giáo ở Việt Nam, Tập
I Thời kỳ khai phá và hình thành [Từ khởi
thủy cho tới cuối thế kỷ XVIII], Nhà x.b. Tôn Giáo, Hà Nội, 2008, trang
42.)
Nhận thức sự quan
trọng trong việc dạy cho các bổn đạo tân tòng học giáo lý cho nên “các thừa sai Dòng Tên, vì thế, chỉ mấy năm
sau khi tới Đàng Trong, đã cho soạn thảo ngay một cuốn giáo lý bằng tiếng Việt
‘không những cho trẻ em học thuộc lòng mà còn cho người lớn học nữa. Trong cuốn
giáo lý này không những chỉ có những điều cần biết về đạo, mà còn có những kinh
để đọc. Khi nói về lợi ích của “Cuốn giáo lý bằng tiếng Đàng Trong” này, trong
báo cáo ngày 17/12/1621, Linh mục Gaspar Luis viết: “Cho tới nay các giáo hữu
trong khu vực này chỉ dùng tràng hạt đeo cổ để chứng tỏ mình là người Công Giáo;
nay người ta dùng để đọc (nhờ các kinh trong cuốn sách nói trên.”
Nói thêm về cuốn giáo
lý này, tác giả Trương Bá Cần viết: “Cuốn
giáo lý nói trên đây chắc chắn được viết bằng chữ Nôm là chữ phổ biến lúc bấy
giờ. Vào thời điểm (trước 1621) này, không biết là chữ Quốc ngữ đã hình thành đủ
để viết một cuốn giáo lý hay chưa; nếu có thì cũng chỉ chép một ít bản cho các
thừa sai nước ngoài sử dụng mà thôi. Cho tới nay, chưa ai tìm thấy dấu vết của
những cuốn giáo lý đó. Một cuốn giáo lý mà trẻ em có thể học thuộc lòng được chắc
chắn không phải là đồ sộ và đầy đủ như cuốn giáo lý của Linh mục Rhodes xuất bản
ở Rôma năm 1651.” (Trương Bá Cần, Sách đã dẫn, trang 185).
Như vậy cuốn sách
giáo lý bằng chữ Nôm này xuất hiện năm 1621 do công sức của Linh Mục Buzomi và
Francisco de Pina đã tới Hội an năm 1616, góp công soạn thảo cùng với các vị khác
cho đến năm 1621, đặc biệt là công của một vài người trong giới thượng lưu đã
gia nhập đạo và những vị này là những hạt nhân sơ khởi cho tiến trình hình thành
chế độ “thầy giảng” trong giai đoạn về sau.
Nhắc đến cuốn giáo
lý chữ Nôm này, Linh Mục Đỗ Quang Chính trong bài viết “Lòng nhiệt thành của bổn đạo Việt Nam” cho biết tháng 4-1627, cha
Đắc Lộ giảng đạo ở vùng An Vực và Vân Nô, tả và hữu ngạn sông Mã, Thanh Hóa, rửa
tội cho 200 người tân tòng trong số có một vị sãi 85 tuổi thông thạo chữ Hán,
giỏi Nôm, rất đạo đức và rộng rãi. Ngài thường xuyên nhờ Cụ chép kinh sách và
Cha Đỗ Quang Chính cho biết có lẽ đây là sách kinh bằng chữ Nôm do cha F.de
Pina soạn ở Hội An khoảng 1620-1625? (Dũng Lạc. Net, 12/31/2006).
Nói chung, đối với
những người thuộc tầng lớp quý tộc Việt Nam như thuộc gia đình vua chúa, quan
chức đều là những người có trình độ học thức cao nên việc sử dụng chữ Nôm để trình
bày tư tưởng, diễn đạt tâm tình không phải là điều khó khăn hay trở ngại gì cả.
Linh mục Nguyễn Khắc Xuyên cũng kể lại một câu chuyện liên quan đến Cha Đắc Lộ
như sau: “Vào năm 1627, khi ngài vào đất
Bắc được bốn tháng, có một
bà thuộc hoàng tộc, “chị chúa Trịnh Tráng” gia nhập Ki-tô-giáo, giáo sĩ Đắc Lộ đặt
tên là Catarina. Bà này thông thạo văn chương thi phú. Bởi đó bà đã viết một tập
thơ, kể lại lịch sử cứu rỗi, từ tạo thiên lập địa cho tới Chúa thăng-thiên (Lịch
sử miền Bắc, tr. 164) và còn thêm một đoạn vịnh cuộc truyền giáo tại Việt Nam…” (Nguyễn Khắc Xuyên, Quan điểm thần học trong “Phép giảng tám ngày”
của Giáo sĩ Đắc-lộ, Tạp chí Đại Học, Số 1, Năm thứ tư, Tháng 2 – 1961, tr.
55). Đây có lẽ là tập thơ Nôm đầu tiên mang tính tôn giáo do một nữ sĩ viết. Tiếc
thay tên tuổi người nữ sĩ này không được để lại trong kho tàng văn học Công Giáo
Việt Nam.
Trong cuốn sách Người chứng thứ nhất, nhà văn Phạm Đình
Khiêm đã có viết “bà Công chúa
Ca-ta-ri-na, em chúa Trịnh Tráng, là một nữ thi sĩ, soạn quyển tiểu sử Chúa Giê-su
bằng thơ nôm” (Rhodes, Histoire du royaume de Tonkin, tr. 26.) (Phạm Đình
Khiêm, Tinh Việt Văn Đoàn, 1959, trang 76).
Giáo sư Trần Văn Toàn
đã viết về các linh mục thừa sai như
sau: “Các giáo sĩ Tây phương thì ngay thế
kỷ XVI đã học tiếng Việt để nói với người dân. Girolamo Maiorica đã cộng tác với
người Việt mới theo đạo để soạn sách vở bằng chữ Nôm cho người mình đọc.”
(Trần Văn Toàn, Đạo trung tùy bút, Nhà
x.b. Tôn Giáo, 2008, trang 28).
Nói đến Girolamo
Maiorica, Linh mục Thanh Lãng cho biết tuy không viết sách bằng chữ quốc ngữ nhưng
ông đã đứng ra biên tập một tủ sách tôn giáo gồm hơn bốn chục cuốn viết bằng chữ
Nôm thời gian từ 1631-1645. Girolamo Maiorica là người Ý sinh tại Napoli, gia
nhập Dòng Tên năm 1605, đến năm 1619 được sai sang Goa để truyền đạo và ở đó
cho đến cuối năm 1623, ông rời Goa qua Macao, rồi đến Việt Nam, có lẽ ở tại hải
cảng Hội an và ở đó 5 năm. Năm 1629 ông bị trục xuất nhưng đã rất thông thạo tiếng
Việt Nam. Năm 1631, ông lại theo một tàu Bồ đào nha mà vào Bắc Kỳ và sống ở Bắc
Kỳ khá lâu. G. Schurhammer cho biết Maiorica chết ngày 27.1.1656. Trong thời
gian theo học ở nước ngoài, LM Thanh Lãng đã chụp ảnh được 12 tác phẩm do công
Maiorica biên tập tại Thư viện Quốc gia Pháp. (Thanh Lãng, Những chặng đường của chữ viết quốc ngữ, Tạp chí Đại Học, số 1, Tháng 2, 1961, trang 10.)
Các sách của
Majorica thì một số còn được lưu giữ ở Thư viện Quốc gia Paris với 14 nhan đề.
Theo tài liệu của Dòng Tên thì Majorica đã biên soạn 48 cuốn sách đủ loại. Nhưng
những cuốn sách này là do Majorica biên soạn và viết thẳng chữ Nôm hay ông đã đọc
cho các giáo hữu thông Nho và giỏi Nôm chép lại? (Trương Bá Cần, Lịch sử phát triển Công Giáo ở Việt Nam, Tập
I Thời kỳ khai phá và hình thành [Từ khởi
thủy cho tới cuối thế kỷ XVIII], Nhà x.b. Tôn Giáo Hà Nội, 2008, trang
1860). Tác giả Trương Bá Cần cho biết các sách chữ Nôm của nhóm Majorica, tại
Thư viện quốc gia Pháp, đã được Linh mục Nguyễn Hưng lần lượt cho nhân bản kèm
theo bản đọc chữ quốc ngữ trong tủ sách “lưu hành nội bộ”. (Trương Bá Cần, Sách
đã dẫn, trang 185).
Trong tiểu mục “Chữ
Nôm là gì”, tác giả Thái Gia Kỳ, trong cuốn sách “ Chữ Hán, Tiếng Hán Việt và sự vận dụng tiếng Hán Việt trong tiếng Việt”
(Philadelphia, 2018) của ông, có đề cập đến một dòng về chữ Nôm sử dụng
trong Công Giáo Việt Nam: “Ngay cả đạo
Công giáo, cũng đã có tác phẩm Sấm truyền ca của Ly Y Đoan viết năm 1670, dùng
trong việc truyền giáo.” (trang 122). Đoạn văn này cho một ý niệm rất khái
quát thiết tưởng cần phải triển khai thêm.
Nội dung của câu
văn trên đây mang lại cho chúng tôi một số ý niệm đó là ba chữ “sấm truyền ca”
và tên Ly Y Đoan. Người công giáo Việt Nam cách nay cả trăm năm thường hay dùng
cụm từ “Sấm truyền mới” và “Sấm truyền cũ” để chỉ hai cuốn sách Cựu Ước (Old
Testament) và Tân Ước (New Testament) cũng gọi là sách Phúc Âm (hay bây giờ là
Tin Mừng). (Trần Văn Toàn, Đạo trung tùy
bút, Nhà xb. Tôn Giáo, 2008, tr. 147). Còn tên Ly Y Đoan vốn là tên Lữ-Y Đoan
mà ông Thái Gia Kỳ viết sai, là Louis Đoán, một thầy giảng cao tuổi đã được Đức
Giám Mục Lambert ở Đàng Trong phong chức linh mục năm 1676. (Trương Bá Cần, Lịch sử phát triển Công Giáo ở Việt Nam, Tập
I, Nhà xb. Tôn Giáo Hà Nội 2008, tr. 233). Giới nghiên cứu văn học Công Giáo
trong nước đã nói rõ về Lữ Y Đoan trong một cuốn sách có tên Về sách báo của tác giả Công Giáo (Thế Kỷ
XVII – XIX) do Trường Đại Học Tổng Hợp TP. Hồ Chí Minh, Khoa Ngữ Văn, 1993.
Trong bài “Đôi lời
giới thiệu” Về một số sách cũ do người Công Giáo viết ra từ thế kỷ XVII đến cuối
thế kỷ XIX, Giáo Sư Nguyễn Văn Trung viết: “Sấm
truyền ca” của Thầy cả Lữ Y Đoan (1670) nguyên tác là bản nôm hiện nay thất lạc,
chỉ còn bản quốc ngữ. Theo chúng tôi đây là một tác phẩm có ý nghĩa lớn vì tác
phẩm phản ánh một nỗ lực Việt Nam hóa (Tam giáo, võ thuật Việt Nam, văn hóa dân
gian, v.v…) để diễn tả Kinh Thánh. Có thể bản văn đã được sửa đổi qua các thời đại
nên bản hiện có làm người đọc nghĩ đến những truyện nôm nổi tiếng thế kỷ XVIII,
XIX.” (trang 3).
Đức Giám Mục
Lambert đã lần lượt phong chức : -năm 1668 cho hai linh mục Giuse Trang và Luca
Bền; -năm 1672 cho linh mục Manuel Bổn; - năm 1676 cho Linh mục Louis Đoán hay
Lữ Y Đoan. Bốn linh mục người Việt này nguyên là thầy giảng của các thừa sai Đòng
Tên.
Trong lãnh vực tôn
giáo, chữ Nôm được các giáo sĩ ngoại quốc khi đến nước ta truyền đạo, nỗ lực học
và sử dụng để biên tập các sách giáo lý, các kinh bổn đọc trong thánh đường và
trong gia đình, họ đạo hằng ngày. Chữ Nôm của đạo Công Giáo có một lịch sử dài
lâu từ thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XX, với rất nhiều công trình nghiên cứu,
biên tập kinh sách, tư liệu còn để lại hàng trăm cuốn trong thư viện của Hội Thừa
Sai Paris ở Pháp (Mission Étrangère de Paris), trong số đó có khoảng 20 cuốn
sách viết bằng chữ Nôm do Giáo sĩ Girolamo Maiorica, người Ý, chủ trương biên tập
từ đầu thế kỷ XVII (Tạp chí Đại Học,
số 1, tháng 2/1961, tr. 5; Trần Văn Toàn, Đạo
trung tùy bút, Nhà xb. Tôn giáo, 2008, tr. 188). Có tư liệu nói số sách này
nhiều hơn (khoảng 48 cuốn) mà một số còn lưu giữ tại Thư viện Quốc gia Paris
(Trương Bá Cần, Lịch sử phát triển Công
Giáo ở Việt Nam, Nhà xb. Tôn Giáo Hà Nội, 2004, tr. 185).
Ngày nay người ta cũng biết đến tên tuổi rất
nhiều các vị giám mục, linh mục ngoại quốc hay bản xứ, các thầy giảng, các vị
túc nho Công giáo đã để lại rất nhiều tác phẩm viết bằng chữ Nôm, ví dụ Giám Mục
Bá Đa Lộc (Pigneau de Béhaine) viết Thánh
Giáo Yếu Lý Quốc Ngữ, bản chữ Nôm được in tại Quảng Đông năm 1774, Giám Mục
Taberd biên soạn cuốn Tự vị Hán-Việt-Latinh
hơn 900 trang (tàng trữ tại văn khố Hội Thừa Sai Nước Ngoài tại Paris) có sự cộng
tác của Thánh Linh mục Phan Văn Minh. Trong cuốn tự vị này, theo Giáo sư Trần
Văn Toàn, nếu bỏ phần tiếng Latinh ra, thì cũng còn quan trọng vì vừa dùng chữ
quốc ngữ vừa dùng chữ Nôm. Chữ quốc ngữ thì ghi được một cách khá chính xác
cách phát âm, còn chữ Nôm thì tuy không ghi được cách phát âm, nhưng cũng là kết
tinh của mấy thế kỷ ông cha chúng ta cố gắng để tự lập về văn hóa đối với người
Hán tộc. (Trần Văn Toàn, Sách đã dẫn, tr. 190).
Trong quyển Hoa trái ở Phương Đông, Alexandre de Rhodes
(1593-1660) và công cuộc truyền giáo thời kỳ đầu của Dòng Tên tại Việt Nam
viết bằng tiếng Đức, linh mục Dòng Tên Klaus Schatz viết rằng: “Chữ Nôm phát triển kể từ thế kỷ XV, sau khi
Việt Nam hoàn toàn thoát khỏi sự thuộc Trung Hoa. Khởi đầu các nhà truyền giáo
cũng dùng chữ Nôm cụ thể vào năm 1620 ở Hội An, để soạn sách giáo lý, nhưng
sách này đã không được in và đã bị thất
lạc.” (Phạm Hồng Lam dịch, Nhà xb. Đông Phương, 2015, tr. 210). Cuốn sách
giáo lý này có lẽ là công trình của cha Francisco de Pina, người Bồ Đào Nha,
khi làm việc ở giáo điểm Dinh Chiêm (Quảng Nam).
Theo Linh mục Nguyễn
Hồng trong quyển Lịch sử truyền giáo ở Việt
Nam, “Chúng ta còn phải kể nhất là những cuốn sách bằng tiếng Việt mà các cha
viết cho giáo dân và cho các thày giảng. Đó là những cuốn sách đầu tiên trong tủ
sách văn chương công giáo Việt Nam. Ngoài cuốn sách bổn của cha Đắc Lộ viết bằng chữ quốc ngữ, in ở Roma, còn các
cuốn khác bằng chữ nôm, thứ chữ thịnh hành của thời đó. Hoặc đầu tiên các thừa sai
thảo bằng chữ quốc ngữ để các thày giảng viết ra chữ nôm, hoặc đọc cho các thày
viết, mà ta có thể đoán đó là trường hợp cha Buzomi và De Pina cho ra đời cuốn
sách về đạo lý công giáo đầu tiên bằng tiếng Việt ở Nước Mặn, Qui Nhơn, hay trường
hợp cha Đắc Lộ viết cuốn Ngắm 15 sự thương khó Đức Chúa Giêsu… Hoặc do chính thừa
sai viết bằng chữ nôm, như những cuốn của cha Majorica, nhưng chắc chắn cha
cũng được sự cộng tác của các thày giảng.” (Quyển I, Nhà xb. Hiện Tại,
1959, tr. 294).
Theo giáo sư Trần
Văn Toàn “chữ Nôm khó học thì họ (các
giáo sĩ Âu châu) chịu khó học, chứ không dám coi thường, càng không dám cho là
mách qué, như các nho sĩ chỉ biết chịu phục có người Hoa. Họ thực biết tôn trọng
vốn liếng chữ Nôm của ta, cũng như họ đề cao kho tàng Hòa văn (chữ viết của người
Nhật). Khi viết sách vở cho người Việt về những điều rất tôn nghiêm như tôn
giáo, họ đã dùng ngay chữ Nôm (như trong các tác phẩm của Girolama Maiorica, và
người công giáo tiếp tục viết, in và dùng sách chữ Nôm cho đến giữa thế kỷ XX.”
(Trần Văn Toàn, Sách đã dẫn, tr. 204).
Trong quá trình sử
dụng chữ Nôm, một số danh từ trong công giáo được chuyển âm từ tiếng La tinh
hay Bồ đào nha, thí dụ “câu-rút” từ chữ crux
nay được chuyển thành thánh giá, chữ
evangelium thành chữ phúc-âm, chữ Spiritus
Sanctus đổi ra thánh thần do sự đóng
góp của Cố linh mục Nguyễn Văn Thích ở Huế (Đoàn Khoách biên tập, Sảng Đình Thi Tập của J.M. THÍCH, Thanh
Tịnh xuất bản, California, 2001, trang 335),
hoặc các chữ bispo (tiếng Bồ) ra chữ vít-vồ (rồi giám mục) chữ Nôm thì dùng hai
chữ Hán “viết vô” 曰 無 nhưng phải đọc “vít vồ”, hoặc “pha-pha”
(vị giáo tông ở Rôma, cũng gọi là Giáo hoàng, La-tinh và Bồ gọi là “papa”.
Trong những năm 40,
50 của thế kỷ trước, giáo xứ Tam Tòa của
tôi ở Đồng Hới, Quảng Bình, các kinh sách đọc trong các dịp lễ lớn như Kinh Lễ Đèn
trong Tuần Thánh, Kinh Đàng Thánh Giá v.v… đều viết bằng chữ Nôm do các cụ chức
việc lớn tuổi trong làng phụ trách phần “than, gẫm”. Dĩ nhiên các cụ cũng biết đọc
chữ quốc ngữ, nhưng quen với kinh sách viết bằng chữ Nôm nhiều hơn.
Cụ Trần Văn Giáp
trong phần kết luận của cuốn Lược khảo vấn
đề chữ Nôm, có đề nghị làm một cuốn tự điển chữ Nôm nhưng theo cụ thì phải
loại trừ những phần chữ Nôm chua sẵn trong các tự điển Quốc ngữ La-tinh như của
Génibrel, của Tabert hay của Paulus Huỳnh Tịnh Của vì chính đấy là chữ Nôm của
các giáo sĩ Tây phương; đấy không phải là “những
chữ Nôm của nhân dân đã dùng”… còn “những
chữ Nôm của nhân dân ta lựa lọc mà viết ra thì thực đúng quá”. (Trần Văn Giáp, Sách đã dẫn, trang 89).
Để trả lời quan điểm
đầy tính chất kỳ thị tôn giáo dù rằng trong lãnh vực văn chương của cụ Trần Văn
Giáp, Giáo sư Trần Văn Toàn viết rằng: “Lại
có học giả cho rằng chữ Nôm do người
công giáo viết không phải là chữ Nôm đích thực. Xin thưa hai điều: một là phải
có cơ quan nào, như Hàn lâm viện hay là do nhà cầm quyền chính thức ấn định trước đã thì mới nói được cái
gì là đích thực; hai là: trừ một số chữ mới ra thì người công giáo dùng chữ Nôm
như người đương thời, cho nên nếu phải loại trừ tất cả những chữ do họ dùng,
thì cũng phải loại hầu hết thi văn chữ Nôm trong văn chương Việt Nam.” (Trần
Văn Toàn, Sách đã dẫn, tr. 207).
Chữ Nôm trong các
kinh sách của người Công Giáo đều là do các vị thừa sai có căn bản về các kiến
thức ngôn ngữ học, cùng sự cộng tác của các vị thầy giảng người Việt cũng vốn
là những bậc túc nho giỏi chữ Hán, thông thạo chữ Nôm (họ cũng là thuộc hàng
ngũ “nhân dân” một trăm phần trăm đấy chứ có thuộc dòng máu lai nào đâu), thì
sao gọi “chữ nôm do người Công Giáo viết không phải là chữ nôm đích thực”?
Chính các ông nhà nho trong phong trào Văn Thân, khi viết bài hịch “bình Tây
sát Tả”, chính các tác giả bài hịch đó là tú tài Trần Tấn, Đặng Như Mai ở Nghệ
Tĩnh vốn là những người khinh chữ nôm, coi chữ nôm là “nôm na mách qué” ngay cả
đến việc nghiên cứu, tìm hiểu về một tôn giáo họ cũng chưa từng nghĩ tới, không
hề để tâm, cho nên trong bài hịch Văn Thân của họ mới có những câu như: “Cầu nguyện thì xưng Trời, xưng Thánh, thật
là đui điếc ngu si; Giảng rao thì vô phụ vô quân, đúng là loài dê loài chó.” “Vô
phụ”, “vô quân” theo Trần Tấn, Đặng Như Mai đó là người Công Giáo không hề biết đến vua, đến cha, nhưng đó thật là sai
lầm vì người Công Giáo cách đây bốn thế kỷ cho đến bây giờ vẫn luôn tôn trọng
nhà cầm quyền ngoài xã hội và thờ kính cha mẹ trong vòng đạo hiếu gia đình. (Trần
Văn Toàn, Sđd, tr. 102, Một vài nhận xét
về thuyết ‘tam phụ”).
Quá trình hình thành
của chữ Nôm được thúc đẩy bởi nhiều yếu tố một là được viết theo thói quen, hoặc
là trong khung cảnh của địa phương và dĩ nhiên trong lãnh vực tôn giáo chữ Nôm
cũng được hình thành hay kiện toàn do ý thức tâm linh và giáo lý nữa.
Giáo Sư Trần Văn Toàn,
trong cuốn Đạo trung tùy bút đã được
dẫn chứng nói trên đã đưa ra một thí dụ thật hay. Ông viết: “Trong sách Thánh giáo yếu lý quốc
ngữ, do Đức Cha Bá Đa Lộc (Pierre Pigneau de Béhaine)soạn, thì bản Nôm viết
chữ rỗi bằng cách chắp nối chữ lỗi 磊
(ba chữ thạch) với bộ khẩu 口 ở
bên tả. Nhưng điều làm cho tôi rất lấy làm thán phục là trong cuốn sách nôm Phép
Dòng chị em mến câu rút Đức Chúa Giêsu, do Đức Cha Phước (Paul Puginier)
cho khắc in năm 1869, thì chữ rỗi được
viết bằng cách ghép chữ lỗi 磊 ở
bên hữu để chỉ cách đọc, và chữ sinh 生 ở
bên tả để chỉ nghĩa là sống. Nếu cách viết dùng bộ khẩu không có gì là thần tình,
thì cách viết dùng chữ sinh bên tả mới
thật là đúng tinh thần đạo Chúa Cứu Thế. Không biết vị cao minh nào đã có sáng
kiến dùng chữ sinh thay chữ khẩu như thế, vừa hợp với giáo lý, vừa đúng
với thần học: được rỗi cũng có nghĩa là được sống! Cùng một chữ rỗi mà vừa nói lên được cái ước vọng
thanh nhàn, lại vừa nói lên cái ước vọng được sống mãi mãi! Cách viết chữ Nôm
biết sử dụng lối hội ý như thế thật là thâm thúy, chữ quốc ngữ viết theo mẫu tự
La-tinh không sao sánh được.” (Trần Văn Toàn, Sđd, trang
122).
Trong tự điển Giúp đọc Nôm và Hán Việt của Linh mục
Trần Văn Kiện hay sách Đại Tự Điển chữ
Nôm của Vũ Văn Kính cũng có trưng một số cách viết chữ rỗi là dùng chữ lỗi 磊 làm
yếu tố hài thanh chính, và có khi dùng
bộ mã 馬, khi dùng bộ tâm忄 hay bộ thủy氵hoặc bộ khẩu 口 là tùy
theo từng trường hợp. Nhưng qua sự phân tích chữ rỗi kể như một thí dụ dưới con mắt của một nhà nghiên cứu tôn giáo
như GS Trần Văn Toàn, chúng ta có dịp đánh giá lại giá trị của chữ Nôm, thấm thía
được ý nghĩa của một loại văn tự trong kho tàng văn hóa dân
tộc và cũng nhờ đó nhận ra được tinh thần cố thấu đạt tới chân lý trong lãnh vực
tôn giáo của tiền nhân trước đây.
Nguyễn Đức Cung
Philadelphia,
Mùa Lễ Độc Lập Hoa Kỳ, July 4-5/ 2020
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét