Đặng Dung ( ? –
1414 )
Thế sự du du nại lão hà?
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca.
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca.
Thời lai đồ điếu thành công dị,
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa.
Trí chủ hữu hoài phù địa trục,
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà.
Quốc thù vị phục đầu tiên bạch
Kỷ độ Long Tuyền đái nguyệt ma.
Bản chữ Hán
述 懷
鄧 容 ( ? – 1414 )
世 事 悠 悠 奈 老 何 ? (1)
蕪 窮 天 地 入 酣 歌
時 來 屠 釣 成 功 易 (3)
運 去 英 雄 飮 恨 多
致 主 有 懷 扶 地 軸 (5)
洗 兵 無 路 挽 天 河
國 讎 未 复 頭 先 白 (7)
幾 度 龍 泉 帶 月 磨
Dịch nghĩa:
( 1 ) Việc đời bối rối (dằng dặc) mà ta đã già thì biết làm thế nào?
( 2 ) (Phải chăng) Trời đất mênh mông, (như) hòa nhập trong tiếng hát say!
( 3 ) Gặp thời, kẻ mổ heo, người kiếm
cá đều dễ thành công.
( 4 ) Lỡ vận, người anh hùng đành phải nuốt hận nhiều,
( 5 ) Giúp Chúa những mong xoay (thay đổi) trục đất
( 6 ) (Tiếc rằng) Chuyện rửa giáp binh , không còn cách nào, để kéo sông Trời.
( 7 ) Thù nước trả chưa xong , đầu sớm
bạc,
( 8 ) Bao phen mài kiếm Long Tuyền dưới ánh trăng!
國
讎 未 复 頭 先 白 / 幾 度 龍 泉 帶 月 磨
Quốc thù vị phục đầu tiên bạch / Kỷ độ Long Tuyền đái nguyệt ma.
Các bản dịch thơ:
*Bản dịch của Phan Kế Bính
Việc đời bối rối tuổi già vay ?
Trời đất vô cùng một cuộc say.
Bần tiện gặp thời, lên cũng dễ;
Anh hùng lỡ bước ngẫm càng cay.
Vai khiêng trái đất mong phò chúa,
Giáp gột sông trời khó vạch mây.
Thù trả chưa xong đầu đã bạc,
Gươm mài bóng nguyệt biết bao rày !
Phan Kế Bính dịch,
Đại Nam nhất thống
chí (Đông Dương tạp chí, số 116)
*Bản dịch của Tản
Đà:
Việc đời man mác, tuổi già thôi!
Đất rộng, trời cao chén ngậm ngùi.
Gặp gỡ thời cơ may những kẻ,
Tan tành sự thế luống cay ai!
Phò vua bụng những mong xoay đất,
Gột giáp sông kia khó vạch trời.
Đầu bạc giang san thù chửa trả,
Long Tuyền mấy độ bóng trăng soi!
Tản Đà dịch
***
Sơ lược tiểu sử Đặng Dung
(Theo Bách khoa toàn
thư mở Wikipedia)
Thân thế và sự nghiệp
Đặng Dung là người xã Tả Hạ, huyện Thiên Lộc, trấn Nghệ An[2] (nay là huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh). Ông
là con trai cả của Quốc công Đặng Tất.
Theo "Đặng
Tộc Đại Tông Phả"[3], ông tổ
4 đời của Đặng Tất là Đặng Bá Kiển vốn cư ngụ ở vùng kinh kỳ Thăng Long, sau đó
di dời vào Nghệ An châu. Con trưởng của Bá Kiển là Đặng Bá Tĩnh đỗ thám hoa đời nhà Trần. Bá
Tĩnh chính là ông nội của Đặng Tất. Con trưởng của Bá Tĩnh là Đặng Đình Dực
chính là cha Đặng Tất[4].
Sau khi quân Minh (Trung Quốc) tiến
chiếm nước Việt (khi ấy có quốc hiệu là Đại Ngu), nhà Hồ sụp đổ, Đặng Dung cùng cha tham gia cuộc khởi
nghĩa của Trần Ngỗi (tức Giản Định Đế).
Năm 1409, sau
trận đại chiến ở Bô Cô (xã Hiếu Cổ, huyện Ý Yên, thuộc
tỉnh Nam Định ngày nay); “vì nghe lời gièm pha của bọn hoạn
quan là Nguyễn Quỹ, nói rằng Đặng Tất chuyên quyền, vua Giản Định Đế đem lòng ngờ vực đã giết Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân.[6]. Đặng
Dung tức giận bỏ Trần Ngỗi (Giản Định Đế), cùng Nguyễn Cảnh Dị (con của Nguyễn
Cảnh Chân) rước Trần Quý Khoách từ Thanh Hóa về đất Chi La (nay là huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh), tôn
lên ngôi vua (tức Trùng Quang Đế), và ông được giữ chức Đồng
bình chương sự.
Về sau, do nhu cầu
cần phải hợp nhất hai lực lượng, các tướng của Trần Quý Khoách do Nguyễn Súy
cầm đầu đã tổ chức đánh úp vào Ngự Thiên, đem Trần Ngỗi ( Giản Định Đế) về Chi
La tôn làm Thượng Hoàng.
Dù phải chiến đấu
dưới quyền người đã giết cha mình, nhưng vì sự nghiệp chung ông đã “vượt lên
trên tất cả, trước sau vẫn giữ vững phẩm chất đường hoàng của một vị tướng”[7]. Từ đó ông trải qua rất nhiều trận giao
chiến, nổi bật hơn cả là trận đánh vào tháng
9 năm Quý
Tị (1413) ở khu vực Thái Gia[8].
Đang
khi đôi bên quân nam và quân bắc đang cầm cự nhau thì Đặng Dung bí mật dùng bộ
binh và tượng binh mai phục, đúng nửa đêm thì bất ngờ đánh úp vào doanh trại của
(Trương) Phụ. (Đặng) Dung đã nhảy lên thuyền của (Trương) Phụ và định bắt sống
(Trương) Phụ nhưng lại không biết mặt để có thể nhận ra hắn, vì thế, (Trương)
Phụ liền nhảy sang thuyền nhỏ chạy thoát. Quân Minh bị tan vỡ đến quá nữa, thuyền
bè, khí giới bị đốt phá gần hết, thế mà (Nguyễn) Súy không biết hợp lực để cùng
đánh. (Trương) Phụ biết quân của (Đặng) Dung ít nên lập tức quay lại đánh. (Đặng)
Dung đành phải chịu thất bại, quân sĩ chạy tan tác hết[9].
Nguyễn Khắc Thuần kể tiếp:
Tháng
11 năm 1413, Đặng Dung cùng Nguyễn Cảnh Dị bị Trương Phụ
bắt sống khi đang tìm đường tạm lánh sang Xiêm
La để tính kế lâu dài. Vì liên tục lớn tiếng chửi mắng nên
Nguyễn Cảnh Dị đã bị Trương Phụ hạ lệnh giết ngay. Còn Đặng Dung cùng Trần Quý
Khoách, Nguyễn Súy và một số tướng lãnh khác bị áp giải về Yên Kinh (Trung Quốc).
Nửa đường, Trần Quý Khoách nhảy xuống biển
tự tử, Đặng Dung cùng các tướng cũng lập tức nhảy xuống biển tuẩn tiết.[10]
Từ khi
thua trận ấy rồi, Trần Quý Khoách thế yếu quá không thể chống với quân giặc được
nữa, phải vào ẩn núp ở trong rừng núi. Chẳng được bao lâu Trần Quý Khoáng, Nguyễn
Cảnh Dị, Đặng Dung, Nguyễn Súy đều bị bắt, và phải giải về Yên Kinh cả. Đi đến
giữa đường, Quý Khoách nhảy xuống bể tự tử, bọn ông Đặng Dung cũng tử tiết cả.
Ông Đặng Dung có làm bài thơ Thuật
hoài, mà ngày nay còn có nhiều người vẫn truyền tụng.
Cha con
ông Đặng Dung đều hết lòng giúp nước phò vua, tuy không thành công được, nhưng
cái lòng trung liệt của nhà họ Đặng cũng đủ làm cho người đời sau tưởng nhớ đến,
bởi vậy hiện nay còn có đền thờ ở huyện Can
Lộc, tỉnh Hà
Tĩnh...[11]
Theo Minh Thực lục, thì:
Quan Tổng
binh Anh quốc công Trương Phụ mang quân đến Tra Hoàng, huyện Chính Hoà, châu
Chính Bình (Quảng Bình); tướng giặc là Hồ Đồng hàng. Nghe tin bọn Đặng Cảnh Dị,
Đặng Dung, Long Hổ Tướng quân nguỵ Lê Thiềm hơn 700 tên chạy đến Côn Bồ, Tiêm
Man ; bọn Phụ tiến binh ngay đến sông La Mông. Phải theo đường núi vin
cành lá mà leo lên nên đành bỏ ngựa, tướng sĩ tiếp tục đi theo. Đến sách Côn Bồ,
bọn Cảnh Dị đã bỏ trốn ; lại truy kích đến Tra Bồ Nại, bọn giặc và dân địa
phương đều trốn, không biết ở chốn nào, nên làm cuộc lục soát lớn. Vào canh tư,
đi trên 20 dặm , nghe tiếng trống điểm canh, Phụ sai Đô Chỉ huy Phương Chính
mang quân lẳng lặng đi, đến lúc trời sáng đến phía bắc sông, tại Tra Bồ Cán. Giặc
lập trại tại bờ phía nam, quan quân vượt sông vây đánh. Giặc chống không nổi,
tên bắn liên tiếp trúng, Cảnh Dị bị thương tại sườn, bắt được. Đặng Dung trốn,
Phương Chính mang quân truy lùng, bắt được Đặng Dung cùng với em là Đặng Nhuệ.
Bắt hết bọn giặc Lê Thiềm, tịch thu ấn nguỵ của Cảnh Dị. Cảnh Dị bị thương nặng,
bị róc thịt lấy thủ cấp, áp giải cùng anh em Đặng Dung đến kinh đô ; tất cả
đều bị xử chém để làm răn. (Minh Thực Lục quyển 13, tr. 1727-1728; Thái Tông quyển
147, tr. 2a-3b)
Hậu duệ của Đặng Dung
Đặng Nghi (lập
nghiệp tại Chúc Sơn, Chương Đức)
Đặng Địch Quả
(Giám sinh Quốc tử giám, về sống tại lại Tả Thiên lộc)
Đặng Di (lập
nghiệp tại Sơn Vi, Mao Phổ thuộc tỉnh Phú Thọ ngày nay)
Đặng Công
Thiếp (đỗ Hoàng giáp, di cư đến Sơn Đông, huyện Lập Thạch)
Hậu duệ nổi tiếng:
Đặng Lương Mô (có
hơn 300 công trình khoa học công công bố ở Mỹ, Nhật...hiện là Trưởng ban khuyến
học họ Đặng)
Cảm
hoài, bài thơ duy nhất còn lại của Đặng Dung.
Chú thích
^ Yến Quận công Đặng Tiến Thự viết năm 1683, Tiến sĩ Ứng Quận
công Đặng Đình Tướng tục biên năm 1686, Thái Nhạc Quận công Đặng Sĩ Hàn tiếp tục
tục biên năm 1745, Nguyễn Văn Thành dịch, NXB Văn hóa Thông tin 2002.
^ Sách Ngữ văn 10 (nâng cao), chú thích: Thuận Hóa: tên gọi cũ vùng địa giới hành chính bao gồmQuảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Đà Nẵng ngày nay. (Sách đã dẫn, tr. 157).
^ Theo Minh Sử của Trương Đĩnh Ngọc (người Trung Quốc) thì trận đánh này xảy ra tại Ái Tử, nay thuộc huyện Triệu Phong, Quảng Trị (dẫn lại theo Nguyễn Khắc Thuần, sách đã dẫn, tr. 235).
^ Đại Việt sử ký toàn thư (Bản kỉ toàn thư, quyển 9, tờ 22-b). Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục chép tương tự và kèm theo lời bình là: Trời nuông tha trương Phụ (Chính biên, quyển 12, tờ 39).
^ Thông tin của 5 vị trên đây căn cứ theo Đặng Tộc Đại Tông Phả do Yến Quận công Đặng Tiến Thự viết năm 1683, Tiến sĩ Ứng
Quận công Đặng Đình Tướng tục biên năm 1686, Thái Nhạc Quận công Đặng Sĩ Hàn tiếp
tục tục biên năm 1745, Nguyễn Văn Thành dịch, NXB Văn hóa Thông tin 2002.
Tư liệu tham khảo
Danh nhân Bình Trị Thiên, Nhiều
tác giả, NXB Thuận Hoá, 1986
Đặng Tộc Đại Tông Phả, Yến Quận công Đặng Tiến Thự viết năm 1683,
Tiến sĩ Ứng Quận công Đặng Đình Tướng tục biên năm 1686, Thái Nhạc Quận công Đặng
Sĩ Hàn tiếp tục tục biên năm 1745, Nguyễn Văn Thành giới thiệu, NXB Văn hóa
Thông tin 2002
Họ Đặng “Nam bang vượng tộc” thời Lý
đến thời Lê, Nguyễn Văn Thành, Phó Giám đốc Trung tâm
nghiên cứu và ứng dụng phả học Việt Nam
Danh nhân lịch sử Đặng Tất - Đặng Dung, Đặng
Huy Phúc, NXB trẻ, 2005.
Bài khảo luận
Ngân Triều Hậu Nghĩa
Hai câu đề: Sự bất lực trước hoàn cảnh và nỗi
buồn miên man.
Thế sự du du nại lão hà?
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca.
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca.
世 事 悠
悠 奈 老
何 ?
蕪 窮 天
地 入 酣
歌
Bài
thơ tự sự, mở đầu bằng những băn khoăn, tiếc nuối thời gian qua nhanh thoảng
chút ngạc nhiên, bối rối. Trước một
không gian cao rộng, với biết bao công việc cần phải thực hiện ngay, kẻ tráng
sĩ cứu nước nên ứng xử như thế nào cho hợp lẽ.(?)
[Câu 1 ]“Thế sự du du” 世 事 悠 悠 là việc đời còn dài dằng dặc, xa thăm thẳm, lê thê, ngổn ngang, bộn bề phía
trước. Điều đó không chỉ cảm nhận qua hiện thực cuộc sống, qua những sự kiện
xác thực của lịch sử thương đau mà nó
còn được cảm nhận bởi tấm lòng. Như thế thì việc đời buồn miên man không dứt,
chạnh lòng vời vợi, xót xa cay đắng, ray
rứt không yên, thể hiện một tâm trạng rối rắm bời bời của một tráng sĩ, một
mãnh tướng đang băn khoăn trên bước đướng cùng.
“nại lão hà”, 奈 老 何: già rồi sao, biết làm thế nào? Nghe như một lời thở than đầy bất lực cho kiếp nhân sinh. Đã đành
đời người chóng qua, dài trong gang tấc, nhưng đã già thì việc dấn thân, mưu cầu
công việc đại sự thì rất hạn chế, nếu không nói là phải bó tay. Ông Xanh ơi,
sao chẳng chiều người! Chẳng lẽ:
Soi gương mới sớm chiều thôi mà “buồn
ơi!” mái tóc mới óng mượt như tơ, tuổi
thanh xuân phơi phới,mới sáng chiều thôi, bỗng biến thành phau phau như tuyết:
Quân bất kiến,
Cao đường minh kính bi bạch phát,
Triêu như thanh ti, mộ thành tuyết.
Tương tiến tửu – Lý Bạch.
君 不 見
高 堂 明 鏡 悲 白 髪
朝 如 青 絲 暮 成 雪
將 進 酒 - 李 白
Biết chăng ai,
Gương tỏ nhà cao,
Buồn mái tóc
Mới sáng óng như tơ,
Mà tối đổi bạc phơ”.
Lời than thở, tiếc thương,
bất lực cho kiếp sống phù du , sớm nở tối tàn-phân vân, bối rối cho sự nghiệp
não nề, việc lớn chưa tới đâu như đời chưa “trang điểm” mà tuổi già đến
quá sớm, để thương cảm cho bản thân tàn tạ, suy yếu, gần đất xa trời- nghe bi
thảm, tái tê.
[Câu 2]
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca.
蕪 窮 天 地 入 酣 歌
Vô cùng thiên địa, 蕪 窮 天 地 :khoảng trời đất mênh
mông bao la, .
nhập hàm ca 入 酣 歌 : hòa nhập, đồng cảm qua tiếng ca.
Cả câu có nghĩa là (Phải chăng) Trời đất mênh mông,
(như cũng) ngẩn ngơ qua tiếng hát buồn!
Hai câu đề, chấm phá bằng một khoảng trời đất cao ngất, lồng
lộng, một hình ảnh cao cả, ngút ngàn.
Bốn câu thực luận: Thời vận, hoài bảo và tiền đồ
Thời lai đồ điếu thành công dị,
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa.
Trí chủ hữu hoài phù địa trục,
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà.
時
來 屠 釣
成 功 易
運
去 英 雄
飮 恨 多
致
主 有 懷
扶 地 軸
洗
兵 無 路
挽 天 河
Bốn câu thơ tiếp theo là bốn câu chắc nịch, mở rộng ý
chính của chủ đề, thể hiện nỗi lòng.
*Hai câu thực là vấn đề thời thế và vận nước
.
Câu [3]
tác giả đề cập chữ thời, 時 với lời khinh bạc, bi phẫn . Thời lai
時 來 tức là thời cơ hay cơ hội đến đúng vào một thời điểm nhất định, là thuận lợi,
may mắn, thành công.
Khi gặp thời thì kẻ
mổ heo đồ tể 屠 宰 là người bán thịt,
và người câu cá, điếu đồ 釣 徒 , những kẻ bần tiện, nghèo hèn đều thành công dễ dàng.
Đồ điếu thành công dị, 屠 釣 成 功 易 , Sự tích Phàn Khoái, lúc hàn
vi,làm nghề đồ tể, người hàng thịt,về
sau trở thành một dũng tướng của Hán Cao Tổ.Hàn
Tín, lúc nghèo hèn, thường đi câu cá để đổi gạo ăn, về sau trở thành Đại
Nguyên Soái nhà Hán.
Còn nếu thời vận lỡ
làng, thuộc về một ngôi sao xấu, thì phải chấp nhận thất bại, ra đi một cách
hiên ngang, lánh đời (!) cho dẫu trong tim tan nát, đầy dẫy thương đau :
Không than sinh bất phùng thời,
Vuốt xuôi mái tóc, cả cười ra đi.
Nguyễn Bính
Chớ nên đem thành bại mà luận anh hùng. Chẳng qua là do thời vận. Như câu đối đáp bất hủ của Ngô Thì Nhậm 吳時壬 (*) với Đặng Trần Thường:
Ai công hầu, ai
khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Ngô Thì Nhậm khảng
khái đáp:
Thế Chiến Quốc,
thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
====================================================================================
(*)Ngô
Thì Nhậm (吳時壬; còn gọi là Ngô Thời Nhiệm 吳時任[1]; 1746–1803), tự là Hy Doãn(希尹), hiệu là Đạt Hiên(達軒), là danh
sĩ, nhà văn đời hậu
Lê–Tây
Sơn, người có công lớn
trong việc giúp triều Tây Sơn đánh lui quân
Thanh. Ngô Thì Nhậm
xuất thân gia đình vọng tộc chốn Bắc Hà, là con Ngô
Thì Sĩ, người làng Tả
Thanh Oai, ngày nay thuộc huyện Thanh
Trì Hà
Nội.
Lúc Ngô Thì Nhậm được vua Quang Trung trọng dụng thì Đặng Trần
Thường đến xin Nhậm tiến cử. Trông thấy vẻ khúm núm làm mất phong độ của kẻ sĩ,
Nhậm thét bảo Thường:
Ở
đây cần dùng người vừa có tài vừa có hạnh, giúp vua cai trị nước.
Còn muốn vào luồn ra cúi thì đi nơi khác.
Đặng
Trần Thường hổ thẹn ra về, rồi vào Nam theo Nguyễn Phúc Ánh.
Sau khi nhà Tây Sơn mất, các võ tướng và một số quan văn bị giải
về Hà Nội để bị xử phạt đánh bằng roi ở Văn Miếu, trong số đó có Phan Huy Ích
và Ngô Thì Nhậm. Chủ trì cuộc phạt đánh đòn đó là Đặng Trần Thường.
Vốn có thù riêng, Đặng Trần Thường kiêu hãnh ra vế câu đối cho
Ngô Thì Nhậm:
Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Ngô Thì Nhậm khảng khái đáp:
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
Có thuyết nói rằng, nguyên câu đối lại của Ngô Thì Nhậm là:
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, dù thời thế, thế nào cũng thế
hoặc là:
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế nào vẫn thế
Đặng Trần Thường bắt ông phải sửa lại như câu nói "thế
đành theo thế" (hay thế
thời theo thế hoặc là thế
thì phải thế). Ngô Thì Nhậm không nói lại. Thường tức giận sai người
dùng roi tẩm thuốc độc đánh ông.
Sau trận đòn về nhà, Phan Huy Ích không bị đánh bằng thuốc độc
nên còn sống. Còn Ngô Thì Nhậm bị thuốc độc ngấm vào tạng phủ, biết mình không
qua khỏi, trước khi qua đời ông có làm bài thơ gửi tặng Đặng Trần Thường như
sau:
Ai tai Đặng Trần Thường
Chân như yến xử đường
Vị Ương cung cố sự
Diệc nhĩ thị thu trường
Nghĩa là: Thương thay Đặng Trần Thường. Nay quyền thế lắm đấy,
nhưng khác nào như chim yến làm tổ trong cái nhà sắp cháy, rồi sẽ khốn đến nơi.
(Giống như Hàn Tín giúp
Hán Cao tổ, rồi bị Cao tổ giết ở cung Vị
Ương). Kết cục của ngươi
rồi cũng thế đó.
Tạm dịch:
Thương thay Đặng Trần Thường
Tổ yến nhà xử đường
Vị Ương cung chuyện cũ
Tránh sao kiếp tai ương?
Quả nhiên sau này bài thơ ứng nghiệm, Đặng Trần Thường bị vua Gia Long xử tử.
Khi được thời thì xênh xang áo mão,xe ngựa rập rình, vinh thân phì gia,
xem thường thị phi, tự cao tự đại. Được
thời, thói đời chắc phải vậy thôi.
Khi hết thời, chợ búa rộn ràng
,nhà hiu quạnh, buồn thiu, ngẫm câu thơ xưa: (Quan nhất thời, dân vạn đại),Núi láng diềng,
chim bầu bạn/ Mây khách khứa, nguyệt anh
tam. (Nguyễn Trãi)
Câu [4] ngẫm về
vận nước.
Vận khứ, 運 去 là lỡ
vận. Lỡ vận , đã bỏ lỡ một cơ hội may mắn, thuận lợi lớn vốn đã được sắp
sẵn từ trước, một cách thần bí theo quan niệm xưa. Khi ấy, người anh hùng đành nuốt hận nhiều trong thất bại đắng cay.
(ẩm hận đa 飮 恨 多) .
Tuy tác giả không bộc
bạch, nhưng vận khứ ở đây, ứng vào hoàn
cảnh lịch sử thời Hậu Trần. Bấy giờ có rất nhiều nhân tài, nhiều nghĩa sĩ ra
giúp vua Hưng Khánh Giãn Định Đế (1407-1409), tiếp theo là vua Trùng Quang Trần
Quí Khoách (1403-1413)như Nguyễn Biểu; Nguyễn Súy; Cha con Nguyễn Cảnh Chân,
Nguyễn Cảnh Dị; Cha con Đặng Tất, Đặng Dung... Chiến công nổi bật nhất là Trận
Bô Cô (1408) chém được tướng giặc Minh
là Lữ Nghị giữa trận tiền và đuổi Mộc Thạnh về tới thành Cổ Lộng. Đồng thởi ở Thuận Hóa, tháng 9 năm 1413,nửa đêm, Nguyễn
Súy và Đặng Dung xông vào đánh trại của
Trương Phụ. Quân Minh tan vỡ chạy trốn cả, Đặng Dung đã vào được thuyền của
Trương Phụ định bắt sống hắn nhưng vì không biết mặt nên Trương Phụ nhảy xuống
một chiếc thuyền con mà thoát được...
Nhà Hậu Trần nổi
lên toan đường khôi phục nhưng vận nước đã đến hồi mạt vận, có nhiều nhân tài
nhưng lòng người ly tán, quân ít, lương thiếu, nhà vua thiển cận, hẹp hòi nên
chỉ kéo dài được 7 năm thì sụp đổ. Nước ta lại rơi vào ách đô hộ tàn bạo cả giặc
Minh.
Hai câu thực cân đối, chính xác;
tha nhân lúc gặp thời, người anh hùng khi lỡ vận,với bao cay đắng, hận lòng.
Hai câu luận là một hoài bão, là nỗi
lòng hằng ấp ủ trong tim và tâm trạng tác giả trước tiền đồ đất nước:
Trí chủ hữu hoài phù địa trục,
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà
致 主 有
懷 扶 地
軸
洗 兵 無
路 挽 天
河
Câu [5] Giúp Chúa những mong xoay trục đất.
Trí chủ hữu hoài, 致 主 有 懷 , trí chủ là tấm lòng đối
với Chúa (vua). Hữu hoài luôn mang nặng
trong lòng. Phù địa trục 扶 地 軸 làm vững an trục đất hay là phục quốc, quét sạch giặc
Minh ra khỏi bờ cõi, đem lại nền thái bình thịnh trị cho đát nước. Đây chính là
tấm lòng son, tấm lòng tận trung cứu quốc của tác giả.
Câu [6]
Tẫy binh洗 兵 rửa giáp binh, lấy ý hai câu thơ trong bài Tẫy binh mã洗兵馬của Đỗ Phủ杜甫 :
An đắc
tráng sĩ vãn Thiên Hà,
Tinh
tẫy giáp binh trường bất dụng!
安 得 壯 士 挽 天 河,
淨 洗 甲 兵 長 不 用!
“Mong có một người tráng sĩ kéo dòng sông Ngân xuống,
Để tẫy rửa đồ giáp binh, (xếp xó), mãi mãi không sử dụng nữa!”
Để tẫy rửa đồ giáp binh, (xếp xó), mãi mãi không sử dụng nữa!”
Tức là ước mong
đất nước thanh bình , trường cửu.
Nhưng ở đây,
muốn kéo sông Ngân, vãn thiên hà 挽 天 河
thì Vô lộ, 無 路, không có đường đi, không còn cách nào cả, vận nước như
đang ở trên bước đường cùng.
Rõ ràng, hai câu thơ hùng tráng, ngạo nghễ của một người
anh hùng thất cơ lỡ vận, đầy thương cảm,
ngậm ngùi. Xưa nay, thói đời thường phê
phán những kẻ công thành danh toại, cao ngạo, khoa trương địa vị của mình. Người tráng sĩ có chí, có tài nhưng thất cơ lỡ
vận thường được thông cảm và trân trọng.
Bút pháp sử dụng hình ảnh cao rộng to tát, đậm chất trữ
tình. Nghệ thuật đối hoàn chỉnh, trọn vẹn
thể hiện khí phách trác việt của một người anh hùng tài cao,
phận thấp chí khí uất.(Tản Đà).
Hai câu kết: Tuyệt mệnh nhưng không tuyệt
vọng.
Quốc thù vị phục đầu tiên bạch,
Kỷ độ Long Tuyền đái nguyệt ma.
國 讎 未 复 頭 先 白
幾 度 龍 泉 帶 月 磨
Câu [7] Đau đớn, nhìn lại những thất bại đầy cay đắng trong đời.
Đó là một chuỗi thất bại của công cuộc khởi nghĩa, từ trước tới thời điểm nầy. Không phải do ta không nổ lực, không quyết
tâm. Sự thất bại chẳng qua do thời vận
chưa đến. Trời Xanh chẳng chịu chiều người,
cuộc đại sự phải đến hồi mạt vận. Còn có
nỗi buồn nào hơn! Sớm già đi khi còn biết bao điều phải làm, còn đa đoan lắm
viêc, cũng là một thất bại của chính bản thân.
Có ai mong muốn vậy bao giờ? Cho
nên, hạ bút những vần thơ thống thiết nầy,
như là những lời tuyệt mệnh của tác giả.
Thù trả chưa xong đầu
đã bạc,Gươm mài bóng nguyệt biết bao rày !
Phan Kế Bính dịch. (Tranh minh họa Google-images)
Câu [8]
Long tuyền 龍 泉 Long Tuyền là tên của một bảo kiếm(*)Bảo kiếm Long Tuyền nổi tiếng đến mức
sau này qua lăng kính văn học mọi thanh kiếm báo đều được gọi là Long Tuyền và cụm từ
"tay vung ba thước Long Tuyền kiếm" đã trở thành một thành ngữ quen thuộc.
Đái nguyệt ma 帶 月 磨 là mài bảo
kiếm dưới trăng. Một hình ảnh rất thi vị. Mài bảo kiếm Long Tuyền dưới trăng, đã biết
bao lần, kỷ độ幾 度 Sự thất bại cuối cùng đã ngời lên ánh thép. Cho hay, sự tuyệt mệnh chưa hề kết thúc mà nó
còn hừng hực ngọn lửa chờ thời, cho một ngày vinh quang của dân tộc, “một trận mưa nhuần rửa núi sông”(Nguyễn Đình
Chiểu), hay là một trận đánh lịch sử, tan giặc, thanh bình. Ý thơ bàng bạc nỗi buồn thất bại nhưng vẫn cất
cao niềm tin mạnh mẽ vào ngày mai xán lạn của non sông, vẫn hoành tráng như chưa
từng tuyệt vọng.
Để kết thúc lời bình thơ, tôi xin mượn lời của Lý Tử Tấn
(1378-1457)[?], tác giả ‘Chuyết am văn tập” , đời Hậu Lê, đã
ca ngợi một cách ngắn gọn mà hào sảng:
“Phi hào kiệt, chí sĩ bất năng” 非 豪 傑 , 俧 士不 能 Nếu không phải là tráng sĩ, hào kiệt thì không thể hoàn thành kiệt tác
nầy.
NgânTriềuhn khảo luận
=============================================================
(*). Tương truyền
bảo kiếm Long
Tuyền do Âu Dã Tử, một thợ rèn kiếm nổi tiếng Trung Hoa thời cổ làm ra. Nhân chuyến ngao du, ông thấy dòng suối Long Tuyền trên núi Tần
Khê (Chiết Giang) có ánh ngời sắc
kim khí, ông liền cho xẻ núi và tìm được một mảnh "thiết anh" (sắt tốt). Ông
đã dồn hết tinh lực luyện nên thanh
bảo kiếm Long Tuyền, kiếm
dài ba thước, vô cùng sắc bén, chém sắt như chém bùn , đặt tên là Long Tuyền,liềnđem
dâng cho Sở Vương.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét