Chủ Nhật, 5 tháng 1, 2020

TỤNG TÂY HỒ PHÚ Nguyễn Huy Lượng/ Ngân Triều st


TỤNG TÂY HỒ PHÚ
Nguyễn Huy Lượng
Tụng Tây Hồ phú
http://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%A5ng_T%C3%A2y_H%E1%BB%93_ph%C3%BA
Tây Hồ phú hay còn gọi là Tụng Tây Hồ Phú hoặc Tây Hồ cảnh tụng, là một bài phú của Nguyễn Huy Lượng ca ngợi cảnh Hồ Tây, thông qua đó ca ngợi sự nghiệp, công lao của triều đại Tây Sơn.
Hoàn cảnh ra đời

Năm 1801 vua Bảo Hưng nhà Tây Sơn ra thăm Thăng Long. Nhân tiết hạ chí, ông làm lễ tế mùa hè ở đền Phương Trạch tại Hồ Tây, sai Nguyễn Huy Lượng lúc bấy giờ đang là Chương lĩnh hầu, giữ chức quan Phụng nghị bộ Lễ, soạn một bài thơ và một bài phú, đọc trong buổi lễ tế ngày 21 tháng 6 năm Tân Dậu (1801). Bài thơ và bài phú này được nhà vua rất tâm đắc và đã ban thưởng cho Nguyễn Huy Lượng hai quan tiền đồng.[1]
Tên gọi
Sau khi hai bài thơ và phú này ra đời, dân Hà thành ai cũng muốn có một bản, nếu đã không đi tìm mua lại được họ mua giấy mực về chép lại. Do đó sau này có nhiều dị bản và tên gọi khác nhau. Những tên gọi còn ghi trong văn bản giữ lại được đến ngày nay là: Phong cảnh biệt chí; Tây Hồ phú; Tây Hồ cảnh tụng... Nhưng người dân khi nói đến bài phú này thì người ta thường gọi là Phú ông Lượng
Văn bản
Đây là bài phú chữ Nôm, gồm 86 liên, dùng chỉ một vần "hồ" (độc vận). Do những văn bản của bài phú này đều là những bản chép tay nên chúng không tránh khỏi có nhiều chỗ chép khác nhau. Hiện thư viện Hán Nôm có bốn dị bản khác nhau về bài phú này.
1.   Phong cảnh biệt chí (ký hiệu AB.377)
2.   Tây Hồ phú được Vũ Khắc Tiệp cho đăng trên Vĩnh Long Hưng thư quán, Hà Nội, 1931 (ký hiệu AB.299) [2]
3.   Tây Hồ cảnh tụng (ký hiệu VNv.184) được in trong sách: (Phú Việt Nam cổ và kim, Nxb. Văn hóa, H. 1962.)
4.   Hợp tuyển thơ văn Việt Nam (TK. XVIII - TK XIX), Nxb. Văn hóa, HN, 1963, Trang 155-162.[3]
Trong đó bản thứ nhất được cho là bản gần với nguyên tác hơn cả. Tạp chí Hán Nôm tháng 2 năm 1988 đã cho đăng những khảo cứu về bài thơ và bài phú này. Trong việc khảo cứu này lấy bản 1 làm bản nền. Các bản còn lại sẽ được dùng để đối chiếu với bản 1. Nơi nào mà bản 1 tối nghĩa thì thay vào bằng chữ có nghĩa ở bản khác. Trong việc chú thích, có chú thích của nguyên bản (chủ yếu là Bản 2 và Bản 3, người chú thích cũng có thể là chính tác giả, mà cũng có thể một ai đó về sau) và chú thích bổ sung của những người khảo cứu.
Đánh giá
Cuốn "Thăng Long – Hà Nội ngàn năm văn hiến" viết: "Có thể nói, trước và sau Nguyễn Huy Lượng, chưa hề có một tác phẩm nào viết về non sông đất nước Thăng Long Hà Nội hay đến thế, đẹp đến thế. Chỉ với một danh tác ấy cũng đủ xếp Nguyễn Huy Lượng vào hàng những văn nghệ sĩ tài hoa bậc nhất Thăng Long. Áng văn Nôm trác tuyệt tân kỳ, dân Hà thành hồi ấy gọi là "Phú ông Lựợng" trong khi đổ xô đi tìm mua bản chép tay này… Người ta mua giấy mực về chép lại khiến cho giá giấy phường Hàng Giấy, Hàng Gai vọt hẳn lên."[4]
Tụng Tây Hồ phú, một áng văn khiến người đọc say mê, rù rì đọc từng chữ từng câu. Cái dư âm của nó quấn quýt mãi không rời. Những từ láy lần đầu phát ra từ bài văn Nguyễn Huy Lượng và chẳng bao giờ lặp lại nữa. Nghĩ đến văn chương vùng đất Thăng Long, người ta nhớ ngay đến bài văn ấy, tác giả ấy. Thạc sĩ Phùng Hoài Ngọc nhận xét.
Ngay cả đến Phạm Thái người đã làm bài phú mang tên Chiến tụng Tây Hồ phú để đối lại bài Phú này của Nguyễn Huy Lượng cũng phải công nhận đây là một bài phú rất hay qua chính lời dẫn của ông ta: Ta thấy ban đầu thoạt đọc, ông cũng lấy làm hay, hỏi ngay: "Ai làm bài ấy mà hay thế?"..."Bạn rằng: Chương Lĩnh hầu Hữu hộ Lượng làm" thì ông thay đổi thái độ: "Ta rằng: Chao ôi! Hữu hộ Lượng à! Xưa hắn làm tôi triều Lê, nay ra làm nguỵ lại còn tụng Tây Hồ mà chẳng thẹn mặt... Nay nhân bỉ kẻ làm bài tụng, ta cũng làm bài Chiến tụng để góp chút trò cười với đời"[5]
Chú thích

1.   ^ Nguyên văn chú thích chữ Hán của văn bản "Tây Hồ Phú" như sau: Hạ chí tiết, hành hạ chi lễ. Hoàng triều Bảo Hưng Tân dậu niên, ngự tế Phương Trạch đàn tại Tây Hồ, nhưng mệnh Lê triều Hương cống Hành Lễ bộ phụng nghị quan. Chương lĩnh hầu soạn thi, phú các nhất thể, phụng ngự ban bao thưởng thanh tiền nhị thập quán 2. Dịch: (Tiết hạ chí, làm lễ tế mùa hè. Năm Tân dậu (1801) triều Bảo Hưng, nhà vua đến tế ở đền Phương Trạch tại Hồ Tây, sai quan Phụng nghị bộ Lễ, đỗ hương cống triều Lê, là Chương lĩnh hầu soạn thơ và phú, mỗi thứ một bài, được vua khen thưởng, ban cho 2 quan tiền đồng).
2.   ^ Cuối bài phú này có ghi "Kiến Phúc Giáp thân chi niêm, Nhị Thuỷ Nhị Cân Hương Đình Băng Mã lão phu bút thảo" (Nhị Thuỷ Nhị Cân Hương Đinh Băng Mã lão phu chép lại vào năm Giáp thân 1884 niên hiệu Kiến Phúc).
3.   ^ Vũ Thanh Hằng, Bài thơ và bài phú ca ngợi cảnh Hồ Tây của Nguyễn Huy Lượng, đăng trong tạp chí Hán Nôm 2-1988
4.   ^ Thăng Long – Hà Nội ngàn năm văn hiến, Nxb Lao động, 2009, trang 312
5.   ^ Thăng Long –Hà Nôi ngàn năm văn hiến, Nxb Lao động, tái bản lần 3-2009, trang 342.
Sách tham khảo
•   Thăng Long –Hà Nôi ngàn năm văn hiến, Nxb Lao động, tái bản lần 3, năm2009
•   Tạp chí Hán Nôm 2-1988
*

TỤNG TÂY HỒ PHÚ
Nguyễn Huy Lượng

西
1-Lạ thay cảnh Tây Hồ
西 .
Lạ thay cảnh Tây Hồ

3-Trộm nhớ thuở đất chia chín cõi
.
Nghe rằng đây đá mọc một gò
,
5-Trước Bạch Hồ vào ở đó làm hang, long vương trở nên vùng đại trạch
, .
Sau Kim Ngưu do vào đây hoá vực, Cao vương đào chặn mạch hoàng đô

7-Tiếng nghe gọi Dâm Đàm, Lãng Bạc
.
Cảnh ngó in tinh chử, băng hồ
,
9-Sắc dờn dờn nhuộm thức lam xanh, ngỡ động bích nổi lên dòng lẻo lẻo
, .
Hình lượn lượn uốn vòng câu bạc, tưởng vầng ngân rơi xuống mảnh nhò nhò

11-Dư nghìn mẫu nước trời lẫn sắc
.
Trải bốn bên hoa cỏ nhiều mùa
,
13-Áng đất phơi mỏ phượng còn in, kẻ rằng đài thượng nguyệt
, .
Vũng nước hút hàm rồng chẳng cạn, người gọi trản trung tô

15-Toà thạch tháp nọ nơi tiên để báu
.
Chốn thổ đôi kia chỗ khách chôn bùa
,
17-Đền Mục Lang hương lửa chẳng rời, tay lưới phép còn ghi công bắt hổ
,   .
Quán Chân Võ nắng mưa nào chuyển, lưỡi gươm thiêng còn để tích giam rùa

19-Kề bến nọ quán Thiên Niên lớp lớp
.
Cách ngàn kia ghềnh Vạn Bảo nhấp nhô
,
21-Toà kim liên sóng nổi mùi hương, chùa Trấn Quốc tưởng in vùng tĩnh phạn
, .
Hàng cổ thụ gió rung bóng lục, tràng Phụng Thiên nhận sẵn thú Nghi Vu

23-Dấu Bố Cái rêu in nền phủ
.
Cảnh Bà Đanh hoa khép cửa chùa
,
25-Trông mơ màng dường đỉnh Thứu nơi kia, vài tổ thước cuối làng kêu chích chích
彿 , .
Nghe phảng phất ngỡ động đào mái nọ, mấy tiếng gà trong trại gáy o o

27-Lò Thạch Khối khói tuôn nghi ngút
.
Ghềnh Nhật Chiêu sóng giật ỳ ồ
    ,
29-Rập rềnh cuối bãi Đuôi Nheo, thuyền thương khách hãy chen buồm bươm bướm
    , .
Thanh lảnh đầu hồ Cổ Ngựa, tháp cao tăng còn hé cửa tò vò

31-Chày Yên Thái nện trong sương chểnh choảng
.
Lưới Nghi Tàm ngăn ngọn nước quanh co
彿 ,
33-Liễu bờ kia bay tơ biếc phất phơ, thoi oanh ghẹo hai phường dệt gấm
, .
Sen vũng nọ nảy tiền xanh lác đác, lửa đóm ghen năm xã gây lò

35-Cầm ve gảy lầu thư ánh ỏi
 
Mõ cuốc khua án kệ rì rù
,
37-Gò Châu Long khi ngọn gió đưa quanh, hồi thú cổ thẳng kề bên mái trúc
, .
Non Phục Tượng lúc vầng trăng hé nửa, tiếng hàn châm nghe cách dải sông Tô

39-Người ngoạn cảnh thẩn thơ đòi đoạn

Khách thâu nhàn lai láng từng khu
,
41-Mảnh áo tơi lớp xớp trong mưa, ca thanh thảo quyến đàn trâu ngã Nịnh
,
Con thuyền trúc lân la trước gió, khúc thương lang đưa gánh củi chàng Chu

43-Vầy cuộc ẩn mọi nghề chẳng thiếu
.
Mượn thú vui bốn bạn gồm no

45-Cảnh Khán Sơn chưa gác cuộc cờ, lòng thơ đã bồi hồi ban lãnh thỏ
     .
Làng Vọng Thị còn đông tiệc rượu, tiếng cầm đà não nuột buổi tà ô

西
47-Khách Ngô Sở chợ tây ngồi san sát
.
Người Hi Hoàng song bắc gáy phi pho





Description: http://hocthuatphuongdong.vn/Themes/default/images/right_bt_td2.gif



,
49-Tới Mậu Thân từ rỡ vẻ tường vân, sông núi khắp nhờ công đãng địch
, 調 .
Qua Canh Tuất lại tưới cơn thời vũ, cỏ cây đều gội đức chiêm nhu.

51-Vũng trì chiểu nước dần dần lặng
  .
Nơi đình đài hoa phơi phới đua
,
53-Chốn bảy cây còn mấy gốc lăng vân, chẳng tùng bách cũng khoe hình thương lão
, 調 .
Nơi một bến đã đông đoàn hí thuỷ, tới uyên ương đều thoả tính trầm phù

55-Vẻ hoa thạch châu thêu gấm dệt
.
Tiếng trùng cầm ngọc gõ vàng khua
,
57-Bãi cỏ non trâu thả ngựa buông, nội Chu đã lắm người ca ngợi
, .
Làn nước phẳng kình chìm ngạc lặn, ao Hán nào mấy trẻ reo hò
,
59-Mặt đất đùn này thóc này rau, rầu lòng Cô Trúc
  , .
Mặt nước chảy nọ dòng nọ bến, mặc chí Sào Do
, 西
61-Cây quán kia còn đứng dậy thần uy, đoàn mán tới dám khoe lời tây hữu
, .
Sen chùa nọ lại bay về phật cảnh, lũ Ngô về từng niệm chữ nam mô

63-Dấu linh dị rành rành vẫn sáng
.
Mạch hậu nhân dằng dặc bao rò.
,
65-Mặt thành xưa đem lại thế kim thang, đất xây phẳng lặng
, .
Cánh hàn cũ sửa ra hình chỉ trụ, đá xếp xô bồ
, 
67-Ghé vùng danh nẻo lợi bấy lâu, cảnh tuy rằng nhỏ
, .
Song nước trí non nhân mấy chốn, cảnh đã chi thua
,
69-Trải mấy thu từng dựa bóng tàn xanh, thâu cảnh đã vào trong vũ trụ
,
Song ngàn dặm còn xa rời bệ tía, góp cảnh còn gọi chốn biên ngu

71-Tuy thú vị đã dãi bày ra đó
.
72-Song thanh dung còn trang điểm lại cho
 
:
Nay mừng

73-Trời phù chính thống

74-Đất mở hoành mô

75-Quyền tạo hoá tóm vào trong động tác
 
乾坤 .
76-Khí kiền khôn vận lại trước đô du
, 調
77-Nền hoàng thành đặt vững long biên, ngôi Bắc cực muôn phương đều củng hướng
, 西 .
78-Nền bắc trạch xây kề ngưu chử, cảnh Tây Hồ trăm thức lại phương phu
 
79-Chòm hủ thảo chưa qua tuần đom đóm
.
80-Áng tường vân đà cách độ tua rua
,
81-Ngắm nguyệt chiêm từ cấn tượng bốn hào, ống âm dương đà quét bụi
, .
82-Xem tuế luật đến di tân bảy tấc, lò thiên địa mới bay tro

83-Cơ vãng phục lạnh thôi lại ấm
  .
84-Lẽ doanh thâu bớt đã lại bù
, 
85-Dưới lục âm vừa sinh khí nhất dương, vạn phẩm đã nhờ ơn khôn tạo
, 調 .
86-Trên cửu đạo lại tề ngôi thất chính, bốn mùa đều theo hướng đẩu khu

87-Hương khâm kính xâm miền hạo đãng
.
88-Rượu cung càn thấm cõi linh u
,
89-Áng năm mây bày ngọc bạch đôi hàng, thảo mộc hãy ca công Thang, Vũ
, 調 .
90-Vang chín bệ nổi tiêu thiều mấy khúc, điểu thú đều vũ đức Đường, Ngu

91-Vẻ hoa lẫn dấu cờ năm thức
.
92-Mặt nước in bóng giáo ba ngù
彿 ,
93-Trước huân phong phảng phất cung đàn, làn thâm thuỷ muốn vái lên ngũ bái
午日肹 , .
94-Dưới ngọ nhật vang lừng tiếng trúc, hình viễn sơn mong rạp xuống tam hô

95-Lễ nhạc ấy nghìn thu ít thấy
.
96-Phong cảnh này mấy thuở nào so
調 ,
97-Trên dưới đều rồng mây các nước phải duyên, giọt vũ lộ tưới đôi hàng uyên lộ
, .
98-Gần xa cũng cõi bờ non sông một mối, tấm đan thành dung khắp lũ nghiêu sò

99-Hơi yêu mị quét dưới cờ thanh đạo
  .
100-Áng tường quang tuôn trước ngọn huyền lô
  ,
101-Rặng đầu ghềnh người mượn chữ vu viên, răn loài hồng nhạn
  句在渚 , .
102-Ca cuối vũng kẻ ngâm câu tại chử, nhủ lũ ê phù

103-Lời ca ngợi tưởng ngồi trong Chu nhã
調 .
104-Điệu ngâm nga nghe đứng giữa Nghiêu cù
,
105-Ngẫm nay đà vui thú tạc canh, đành chốn chốn cũng ca đồng vũ tẩu
, 調 .
106-Nhớ trước đã thoả loài động thực, hẳn đâu đâu đều bặt quỷ im hồ

107-Nay lệnh tiết đã tin điềm thái lãng
.
108-Xin thánh nhân càng ghín chữ dự du
,
109-Ngọn nguồn tuôn dàn rụa mái kia ghềnh, đèn chiếu thuỷ chia dòng Kinh Vị
, .
110-Chòm cỏ mọc tần vần bên nọ miếu, trống thôi hoa rẽ khóm huân do

111-Nhận giá sắc xét dân phong cần noạ
  .
112-Ngắm phong quang soi vật tính thanh ô
,
113-Chốn điểu đài xem cá nhảy chim bay, thâu sĩ lộ nơi thông nơi trệ
, .
114-Miền thôn ổ lắng chim kêu gà gáy, lượng nhân gian nơi háo nơi trù

115-Tình u uẩn khắp bày trong thị thính
.
116-Hiệu trị bình đành sắp dưới tề tu
,
117-Nơi mạch kia dân tựa ấy làm trời, hang chuột ẩn há chừa nơi cỏ khuất
, .
118-Bờ liễu nọ kẻ xây đà vững đất, lỗ kiến đùn khôn chuyển buổi nguồn xô

119-Đem phong cảnh lại một bầu chi nhỏ
.
120-Mở thái bình ra bốn bể mới to
:
Tôi nay

121-Hổ mình thiển lận

122-Dại trí thô sơ

123-Dư một kỉ yên bề hu lịch
.
124-Ngoài năm tuần thẹn bóng tang du
,
125-Trước phượng đàn đứng sánh hàng loan, trông hồ cảnh tiến một chương li ngữ
, .
126-Bên ngự đạo ngửa trông vầng nhật, nổi thanh sơn mừng muôn kỉ dao đồ. 

Nguyễn Huy Lượng 

*
Ghi chú:Văn bản này được đánh tự do không theo bản Nôm gốc nào nên có thể một số chữ chỉ đúng âm đọc (nhất là chữ địa danh).
HẾT



Description: http://hocthuatphuongdong.vn/Themes/default/images/right_bt_td2.gif

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét