Thứ Năm, 30 tháng 1, 2014

Blogngantrieu12.blogspot.com/ Xin chân thành cảm ơn

Blogngantrieu12.blogspot.com
Xin chân thành cảm ơn các bạn đã 
tham gia gửi bài vở cho trang blog của chúng ta ngàn càng đa dạng, phong phú về nội dung và hình thức:
*Danh sách các bạn đã cộng tác cùng ban biên tập:
1/- vhp.Hải Vân
2/- vhp.Hạ Vũ
3/- Viễn Phương
4/- Cảnh Tú
5/- Phạm Việt Nga
6/- Trần Lâm Phát
7/- Phạm Thị Hòa
8/- vkp.Đạm Phương
9/- Ngu Uyên
10/-Tô Thị Hằng
11/- Nguyễn Văn Xây
12/- Kim Trương
13/-Đinh Thị Hỏi
14/- Nguyễn Nam
15/-Thái Hy
16/- Thu Ngân
17/- Hồ Phất
18/- Hồ Thị An
19/- Mặc Hiền Phạm Văn Rã
20/-Đào Anh Dũng
21/- Võ Kim Ngân
22/- Trần Xuân Lộc 
.....
*Kính chúc các bạn cùng quý quyến,
MỘT NĂM GIÁP NGỌ AN KHANG &
 HẠNH PHÚC.
*Kỷ niệm Blogngantrieu 12.blogspot.com tròn hai năm tuổi. 
Số bài đăng        703 bài
Số lượt xem  12.590 lần


*Năm Giáp Ngọ 2014

*Năm Giáp Ngọ 2014 - Mã đáo Thành công.






Đi chợ ngày giáp Tết/ Phạm Hòa


Thứ Tư, ngày 29 tháng 1 năm 2014

Đi chợ ngày giáp Tết - P.Hòa

Mình không có thói quen la cà ở chợ để xem người ta mua bán gì vì sức khỏe không tốt khi chen vào các chỗ đông người.
Mấy hôm nay  gần Tết vì cần mua ít vật dụng thì đi chợ ...
Thật là nhộn nhịp, cái chợ nhỏ cạnh  cư xá,hàng hóa đủ thứ,người ta bày bán đầy trên vỉa hè,cạnh lối đi...đủ các loại hàng: cá thịt,rau cỏ vườn nhà và hoa trái để dành cúng ông bà trong 3 ngày Tết..
Nhưng mà ..ghé một hàng quen bán rau quả , cô Chi -trạc bằng tuổi con mình than thở:
Ế quá cô ơi,chưa năm nào ế hàng như năm nay,bà con ít mua quá,có món tới trưa chưa bán được gì...Tết đến,đủ thứ tiền phải chi...
Thấy vậy,chọn một ít thứ .Cô đảm bảo: "đây là đu đủ vườn nhà.Họ là người đàng hoàng không tiêm thuốc mau chín đâu mà cô lo"..ngồi lại một lát,mua trái đu đủ và ít rau rồi ra về.
Mình nhớ lại cách đây năm mươi năm,lúc mình còn bé và còn mẹ.Mẹ làm thợ may ở quê.Quanh năm,bà con ít may vá vì vải vóc khan hiếm và họ cũng nghèo,không có tiền ,mọi thứ chờ vào dịp tết.
Bắt đầu tháng chạp,việc nhiều không xuể.Đêm nào mẹ cũng  ngủ được khoãng 3,4 tiếng,thức gần như suốt bên ngọn đèn dầu...về sau thì khá hơn là chiếc đèn"măng-xông".
Người khá giả  một chút,nhờ bán đậu,lúa., mì ,rau quả.. được nhiều tiền thì mua sắm ngay từ đầu tháng chạp.Người nghèo , nhờ  mấy ngày giáp tết mới đủ tiền mua cho con manh áo mới.Câu "thợ may ăn vải" với mẹ mình là không đúng hẳn.Với mấy bà con nầy,khi đưa vải đều  nằn nì mẹ may cho hết :quần áo gấp lai  to để mai mốt nó lớn lên thì tháo ra sổ xuống...Đôi khi còn năn nỉ xin một miếng vải khác cặp vào lai quần,lai áo cho nó dài ra.
Chị Ba hàng xóm, sau buổi chợ sáng cầm khúc vải sọc đỏ trắng đến khoe:Năm nay ,ngày đưa ông Táo,con bán hết  sạch trơn 5 luống vạn thọ, lật đật mua vải nầy cho cô Hai (mẹ tôi)  may đồ cho mấy nhỏ,sợ không kịp Tết...
Tất cả đồ đặt may đều được xong trước 10 giờ đêm giao thừa.
Quần áo mấy đứa nhỏ đôi khi quá rộng  nhưng không sao,tụi nó lớn mấy hồi...Năm mới,miễn có áo mới mặc trong mấy ngày Tết là tốt rồi.Ba má tụi nó rất vui...
Mẹ  làm  tháng Tết rất khá,kiếm đủ tiền chi tiêu cho các công việc cần thiết.Sau đó: mùng một,mùng hai thì ngủ bù...Mọi người đều mừng vui...
                                                           *

Quá trưa,thằng con trai  nhà  hàng xóm oang oang : trời ,năm nay hoa kiển,trái cây  quá trời,dọc lề đường Lý chiêu Hoàng cả đống mà ít có người mua,đến đêm 30 có khi hốt rẻ ..Nó còn thêm: 
Cả thành phố nầy đều vậy,chỗ nào cũng có người bán mà ít người mua
Nghe thấy....làm sao ấy....
Nông dân  rất khó khăn để trồng trọt rồi mang sản vật  từ quê lên,ban đêm gần như thức trắng để canh hàng.Ban ngày mong có người mua để giải quyết bao nhiêu chuyện nợ nần mấy ngày giáp Tết ..Sao mà khổ vậy 
Nhớ lại ánh mắt buồn rầu của Cô Chi bán rau quả mà thương quá nhưng làm gì bây giờ.???...

Chúc Mừng Năm Mới - VHP.Hạ Vũ và Từ Cảnh+Pham Toàn

Chúc các Anh Chị và Quý Quyến TrọnNăm  Giáp Ngọ:
Vạn Sự Như Ý
Sức Khỏe Dồi Dào
Thân Tâm An Lạc


https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgOHOgII5Si8XZAUKhQHmCLoSZH0cISC_53vrqKFXaHUfPd7o-pCybDcws-ydIUVWruKuCdA6zlw2SZOsInIQLcRYkcapujHTQpTME04TXB6Oq4chGXasoqLdtA6aRewvPkGKcGM67bXYE/s1600/Th%C6%B0+phap+ch%C3%BAc+n%C4%83m+m%E1%BB%9Bi+sinh+%C4%91%E1%BB%99ng+(+Blog+mi+t%C3%B4m..).gif

Chúc Mừng Năm Mới Giap Ngo


Cầu phúc đầu năm cho tất cả nhà nhà được



 ..

   



https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEg6MqYs1ts7Js8hyphenhyphenHcU-SDNbPFiYd-6vNJ-y7mPnl5TbSD2iBpwjEH5gTE_M7vzbqMBN7yLDypawDFgZSvzMsI_91TvOkDSEuIgzbng7l-QlzwL_xuq6zFlRU804wW-DT2A557yIK5WPvU/s1600/1.gif



Thứ Tư, 29 tháng 1, 2014

Tết Sai gòn 100 năm trước/ Tam Thái


Tết Sài Gòn trăm năm trước


Tết Sài Gòn trăm năm trước
TTXuân - Những bức ảnh chụp Tết Sài Gòn từ đầu thế kỷ 20 như một cuốn phim quay chậm, trở về quá khứ. Một “nhân chứng” trung thực nhất của dòng thời gian mà ta còn cảm nhận được.

Múa rồng: Bức ảnh này không rõ dấu năm tháng, nhưng nhìn con đường Charner (nay là đường Nguyễn Huệ) còn là lộ đất, hẳn rằng ảnh đã được chụp trước năm 1905, vì đến năm này Charner mới được cán đá trải nhựa. Con rồng trong ảnh dài khoảng 50m với trên 25 người múa

Đấu cờ người: Bức ảnh này chụp cảnh đấu cờ người do Pháp đứng ra tổ chức ở Cercle Sportif Saigonnais vào năm 1918, nay là phía sân bóng đá Tao Đàn

Chơi Tết âm lịch trên đường Charner 1902 (nay là đường Nguyễn Huệ)

Đốt pháo Tết trong một sân chùa ở Chợ Lớn 1905. Quanh chùa có xây tường bao. Bên ngoài là nhà dân, tường xây, ngói đỏ nhưng chưa có lầu. Cả vườn trầu cau, cây lá rậm rạp. Bức ảnh được chụp một phía hông chùa nên không xác định được đây là chùa nào. Có thể là Nhị Phủ Miếu (nay ở số 264 Hải Thượng Lãn Ông, quận 5)

Quan chức người Việt và vợ chụp ảnh lưu niệm ngày Tết. Ảnh trắng đen tô màu. Giữa ảnh có chữ Bonne Année và dấu bưu điện 1901. Cả hai đều mặc áo dài. Chồng đội khăn đóng. Phụ nữ thời đó chỉ vấn khăn trên đầu, không dùng khăn đóng. Áo dài may thụng rộng, chưa chít eo. Y phục phải may bằng tay, máy may chưa có. Cả ông và bà đều mang hài vải, có thêu hoa văn
TAM THÁI

Thứ Ba, 28 tháng 1, 2014

Chúc mừng năm mới 2



Blog Ngan Trieu 12 kính chúc quý Bạn Đọc xa gần,
Một năm mới an khang, thịnh vượng, nồng ấm

Chúc mừng tân niên, 2014


Chúc mừng năm mới, Năm Giáp Ngọ 2014, Mã đáo thành công (Blog NganTrieu 12)




Cá tính "Hoa hai miền"/ Viễn Phương chuyển


* Dzui Dzui - Gái Sài Gòn và Gái Hà Nội

hphi vo
Ðến
tháng 1 27 vào lúc 11:34 AM

 
 

Gái Hà Nội Nè!


Gái Sài Gòn Nè!
_____________________________________________________

Điểm khác biệt giữa gái Sài Gòn và gái Hà Nội

Tác Giả: Kim Dung

gaihanoi
 
Luc còn là nhà báo trẻ, vào Sài Gòn công tác. Nghe cậu bạn trong đó kể, chỉ có hai câu để so sánh giữa con gái hai thành phố lớn mà mình nhớ mãi đến giờ: Gái Sài Gòn gọi là gái thành phố. Gái Hà Nội gọi là gái Thủ đô...
 
1. Con gái Sài Gòn thích ăn me. Con gái Hà Nội thích ăn sấu. Tuy nhiên, gái Sài Gòn thích me chín, còn gái Hà Nội mê sấu xanh.
2. Gái Sài Gòn thích trai dễ thương. Gái Hà Nội thích trai đẹp.
3. Gái Sài Gòn chia tay bạn trai thì khóc. Gái Hà Nội chia tay bạn trai thì cười.
4. Gái Hà Nội thích đàn ông to. Gái Sài Gòn thích đàn ông cao
5. Ai chửi gái Hà Nội sẽ bị chửi lại. Ai chửi gái Sài Gòn sẽ bị tránh xa.
 
6. Gái Sài Gòn lôi bạn đi ăn tiệm, gái Hà Nội lôi bạn về nhà nấu cơm.
7. Gái Hà Nội thích mua xe hơi. Gái Sài Gòn thích ngồi xe hơi.
8. Gái Hà Nội thích trai thông minh. Gái Sài Gòn thích trai hài hước.
9. Gái Hà Nội hay xem ti vi. Gái Sài Gòn hay đọc báo mạng.
10. Gái Sài Gòn ít đi chợ Bến Thành. Gái Hà Nội rất hay ra Hồ Gươm.
 
11. Lấy phải chồng xấu, gái Sài Gòn ly thân, gái Hà Nội ly dị.
12. Gái Sài Gòn ngồi trong tiệm gội đầu để tán chuyện. Gái Hà Nội ngồi trong đó để gội đầu.
13. Gái Hà Nội xài nước hoa theo nhãn hiệu. Gái Sài Gòn xài theo mùi thơm.
14. Gái Sài Gòn sợ nhất không có bạn trai. Gái Hà Nội sợ nhất thiên hạ biết mặt bạn trai của mình.
15. Khi đánh nhau, gái Sài Gòn dùng chân tay, gái Hà Nội dùng guốc dép.
 
16. Đi dự tiệc cưới, gái Sài Gòn nhìn bản thân mình, gái Hà Nội nhìn cô dâu chú rể.
17. Gái Hà Nội ăn quà chỗ nào đông. Gái Sài Gòn ăn quà chỗ nào ngon.
18. Gái Hà Nội ăn xong xỉa răng. Gái Sài Gòn ăn xong uống cà phê.
19. Gái Sài Gòn mặc đồ bộ ra đường. Gái Hà Nội mặc váy đầm trong nhà.
20. Gái Hà Nội thích chồng chức to. Gái Sài Gòn thích chồng lương to.
 
21. Gái Sài Gòn đi chùa vì vui. Gái Hà Nội đi chùa vì tin.
22. Gái Hà Nội thích Tuấn Hưng. Gái Sài Gòn thích Đàm Vĩnh Hưng. 
23. Gái Hà Nội thích ăn kem que. Gái Sài Gòn thích ăn kem ly.
24. Gái Hà Nội thích bún ốc, gái Sài Gòn thích bún bò.
25. Gái Sài Gòn có thể yêu một lúc nhiều người. Gái Hà Nội có thể yêu nhiều người nhưng liên tiếp.
 
26. Gái Hà Nội có thể tự xưng là “bà”. Gái Sài Gòn không bao giờ như thế.
27. Gái Hà Nội hay làm thơ. Gái Sài Gòn hay chụp hình.
28. Gặp kẻ cướp, gái Sài Gòn la lớn, gái Hà Nội đuổi theo.
29. Ngày Tết gái Hà Nội nấu canh măng, gái Sài Gòn nấu cà ri.
30. Gái Hà Nội khi ăn phải có nước tương. Gái Sài Gòn khi ăn phải có nước mắm.
 
31. Gặp con trai, gái Hà Nội hỏi bằng cấp, gái Sài Gòn hỏi gia cảnh.
32. Gái Hà Nội hay khoe chồng con. Gái Sài Gòn hay khoe bè bạn.
33. Gái Sài Gòn chụp hình áo tắm trên bãi biển. Gái Hà Nội chụp hình áo tắm ở bể bơi.
34. Gái Hà Nội thích lúc già sẽ giàu. Gái Sài Gòn thích lúc già sẽ trẻ lại. 
35. Khi chồng có bồ, gái Sài Gòn đánh bồ, còn gái Hà Nội đánh cả chồng lẫn bồ.
 
36. Khi chồng về khuya, gái Hà Nội quát “Sao anh không đi luôn đi?” còn gái Sài Gòn nói “Bây giờ mới về à?”.
37. Khi lấy chồng ngoại quốc, gái Hà Nội thích lấy chồng châu Âu, gái Sài Gòn thích lấy chồng châu Á.
38. Thấy người nổi tiếng, gái Hà Nội bĩu môi, còn gái Sài Gòn chạy tới chụp hình.
39. Gái Hà Nội bôi kem dưỡng da. Gái Sài Gòn bôi kem chống nắng.
40. Đọc bài này, gái Sài Gòn quên ngay. Còn gái Hà Nội sẽ nhớ đến già!

Tết Nguyên Đán là của Việt tộc/ Viễn Phương chuyển



Xin quý bạn đọc và lượng định độ chính xác của sử liệu.  hp


Tết Nguyên Đán ....có từ đâu?

Tết Nguyên Đán là của người Việt 

Sắp đến Tết Ta là Viễn Xứ cảm thấy buồn buồn, tủi tủi vì nghe nhiều người nói là New Year of China!!! (người ngoại quốc không biết đã đành nhưng nhiều người Việt cũng nói như vậy....thật là buồn)
Thật ra Tết Nguyên Đán là Tiết lễ đầu tiên của năm, bị người Trung Quốc (chôm) của dân Việt ta....

Tết:do chữ Tiết (thời tiết) mà ra.

Nguyên:bắt đầu.

Đán:buổi sáng sớm.

Vậy Tết Nguyên Đán tức là Tết bắt đầu năm, mở đầu cho một năm mới.

Một câu hỏi đôi khi được đặt ra: Tại sao tiền nhân chúng ta không chọn tháng 3 để tổ chức Tết Nguyên Đán, như các dân tộc Miên, Thái hoặc Lào hoặc một tháng nào đó trong năm mà lại chọn đúng vào ngày đầu tháng Giêng âm lịch. Người Trung Hoa sau này cũng trọn cùng ngày này làm ngày Tết của họ. Vì sự trùng hợp ngẫu nhiên (hay chôm văn hóa của ta) này thêm vào sự liên hệ giữa hai dân tộc Hoa - Việt vốn đã có hàng nghìn năm trước khi Trung Hoa đô hộ nước ta, nên nhiều người VỘI CHO RẰNG dân tộc ta bắt chước người Trung Hoa về thời gian mừng Tết Nguyên Đán.

Thật ra, đây chỉ là sự ngộ nhận.

Dựa vào lịch sử Trung Hoa, trải qua nhiều triều đại, chúng ta được biết người Trung Hoa có tục lệ mừng Tết Nguyên Đán không phải vào đầu tháng Giêng âm lịch như hiện nay mà thật ra thời gian được chọn để tổ chức mừng Xuân được thay đi đổi lại rất nhiều lần. Chẳng hạn, vào đời Tam Vương nhà Hạ, người Trung Hoa chọn tháng Dần đầu năm để mừng Xuân. Đến đời nhà Thương người ta đổi lại tháng Sửu tức tháng Chạp. Qua đời nhà Chu, người ta lại chọn tháng Tý, tức tháng Một. Ba vị vua trên đây không phải vô cớ, tùy hứng mà chọn những tháng đó, mà là họ đã dựa vào ý nghĩa tốt xấu, căn cứ theo ngày giờ lúc mới tạo thiên lập địa. Họ tin tưởng giờ Tý là giờ thành, giờ Sửu đất nở và giờ Dần sinh ra người.

Đến đời nhà Đông Chu, Khổng Tử một lần nữa noi theo nhà Hạ, đổi lại ngày Tết vào tháng Dần. Qua đời nhà Tần người ta lại thay ngày Tết vào tháng Hợi tức tháng Mười. Cuối cùng, khi nhà Hán lên ngôi, bấy giờ người Trung Hoa lại noi theo gương Khổng Tử chọn ngày đầu tháng Dần, tức tháng Giêng để mừng Tết.

Mừng xuân vào dịp đầu năm âm lịch nói là của người Trung hoa là hoàn toàn không chấp nhận được.

Tiền nhân chúng ta khôn ngoan, lại xuất thân từ giới nông dân. Sở dĩ các ngài chọn ngày đầu năm âm lịch để tổ chức Tết Nguyên Đán, vì thời gian này nhằm vào đúng mùa xuân, một mùa đẹp nhất trong năm với thời tiết mát mẻ, dịu dàng, cây cối đâm chồi nẩy lộc, khoe thắm sắc hương và mang một màu sắc xinh tươi, mới mẻ rất thích hợp trong việc thăm viếng bà con, thân thuộc, bạn bè.

 

Đây cũng là khoảng thời gian mà mọi công việc đồng áng đã hoàn tất, lúa gặt xong và được đem chứa vào những lẫm lúa. Người nông dân chân lấm tay bùn, sau một năm vất vả với công việc đồng áng, giờ đây được thảnh thơi hoàn toàn có thể cùng nhau hội họp, liên hoan, ăn uống vui vẻ với nhau để tỏ lòng biết ơn đối với Trời Đất và tưởng nhớ đến tổ tiên, ông bà cha mẹ, những người thân yêu ruột thịt đã qua đời!

Tết Nguyên Đán trước đây ta gọi là Tết Nhàn là Tết cổ truyền có từ thời Hùng Vương, sử cũ vốn ta có 12 tháng nhưng cách tính khác ngày này, 1 năm bắt đầu từ tháng chạp tức tháng 12, vì khi ấy dân ta bắt đầu hoạch lúa, tới tháng giêng thì xong, ngày đầu tháng giêng người Âu Lạc có tục cúng lễ tạ ơn tổ tiên trời đất sau 1 mùa lúa nước, ngày Tết diễn ra từ ngày 1/1 cho tới hết 30/3 và kết thúc là lễ hội ngày mùa để bắt đầu 1 vụ cấy mới, ngày Tết này ta sẽ thấy đến đời Hán Vũ đế bên Trung Hoa mới có, còn ta thì ai xem tích Bánh Trưng Bánh Dày thì đều thấy cả, mà tích này là từ thời Hùng Vương thứ 6 tức là trước đời Tần Thủy Hoàng rất là lâu chừng khoảng hơn 1000 năm, vậy mà ngày nay nó lại mang tên New Year of China.

Viễn Xứ hy vọng chúng ta cùng nhau chia sẽ, để cho người Ngoại Quốc cũng như con cháu chúng ta hiểu biết nhiều hơn về Lịch Sử và Văn Hóa dân tộc Việt.

P.S. vẫn còn nhiều thứ mà người Trung Hoa đã chôm văn hóa của người Việt ta rồi nhận là của họ alt

Viễn Xứ

Thằng ăn cắp/ Viễn Phương chuyển


Subject: Thằng Ăn Cắp



 Kính chuyển và tuỳ nghi về Từ Ngữ.
Câu chuyện cuộc sống



Thằng Ăn Cắp

Những người làm việc công mà đòi trả ơn, làm việc thiện chỉ do tư lợi, làm việc nước cốt vì quyền hành địa vị... thảy đều không hiểu chuyện nầy!! 
 (Năm 12 tuổi, tôi đọc ở đâu đó một truyện cổ tích Ấn Ðộ. Truyện rất ngắn, ít tình tiết, kể về một thằng ăn cắp. Hồi đó tôi không hiểu ý nghĩa. Ðem hỏi cha tôi thì người chỉ nói: “Lớn lên con sẽ hiểu. Người nào không có lòng công chính, không là người chân thật thì cũng không hiểu.”
Thường bọn móc túi nơi đám đông, quân đào tường, khoét vách nhà người ta để trộm tiền bạc, đồ đạc... là những vật cụ thể, hữu hình, thì chúng bị gọi là kẻ cắp. Ðiều đó dễ hiểu. Còn lòng danh dự, sự công chính, lương tâm là những thứ trừu tượng, những ý niệm, thảy đều có thể bị ăn trộm hay sao?

Ở một làng bên xứ Ấn Độ, có một thương gia nghèo. Ðời sống khó khăn, nạn cường hào ác bá quá đỗi lộng hành khiến bác ta sống không nổi, phải bỏ đi một xứ xa sinh sống. Sống nơi đất khách quê người lâu ngày, lòng riêng vẫn tủi. Lại thêm tuổi đà xế bóng, tính ganh đua, lòng ham muốn cũng mỏi mòn. Một hôm chạnh nhớ cố hương, bác quyết định trở về. Bán hết tài sản lấy tiền mua vàng, gói vào một túi vải giấu trong túi hành lý khoác vai, bác lên đường về quê hương.

Trong vùng quê người thương gia, giữa một cánh đồng, dân trong vùng xây một ngôi chùa nhỏ để các nông phu buổi trưa ghé vào lễ Phật và nghỉ ngơi. Một cây bồ đề lâu năm che bóng rợp xuống một sân nhỏ lát gạch, một cái giếng khơi, nước mát và trong vắt, cũng là nơi cho khách bộ hành ghé chân nghỉ ngơi, giải khát, hoặc đôi khi ngủ qua đêm trong chùa. Chùa không có người coi. Phật tử trong chùa đều là nông dân. Lúc rảnh việc thì tự ý tới làm công quả quét tước, dọn dẹp, chăm sóc cho đám cây cỏ sân chùa lúc nào cũng hương khói quanh năm.

Sau nhiều ngày lặn lội đường xa, người thương gia về gần đến làng cũ. Trời đã xế trưa, nắng gắt. Ði ngang qua chùa, bác ghé vào nghỉ chân dưới gốc bồ đề. Ra giếng nước giải khát, rửa ráy sạch sẽ xong, bác vào chùa lễ Phật. Trong chùa vắng lặng. Bác thắp hương quỳ trước bàn thờ Phật. Ngước nhìn lên, nét mặt đức Thế Tôn vẫn trầm mặc như xưa nay, hơn mười năm qua không có gì thay đổi. Cảnh vật như đứng ngoài thời gian. Lễ xong, người thương gia rời chùa. Thấy bóng chiều đã ngả, đường về còn khá xa, bác liền rảo bước, bỏ quên túi hành lý trong chùa.

Buổi chiều hôm đó, một nông dân nghèo khổ trở về làng sau một ngày làm việc ngoài đồng. Ngang qua chùa, ngày nào cũng vậy, bác ghé vào lễ Phật trước khi trở về nhà. Lễ xong, bác trông thấy một túi vải to để gần bàn thờ. Bác ta nghĩ thầm: Không biết túi vải của ai đi lễ đã bỏ quên. Nhỡ có người tham tâm lấy mất thì tội nghiệp cho người mất của. Âu là cứ mang về nhà rồi viết bảng thông báo để trả lại cho người ta.

Về đến nhà, bác nông dân gọi vợ con ra, trỏ vào túi vải, nói: 
- Ðây là vật người ta bỏ quên trong chùa. Nay mình cứ tạm kiểm kê rõ ràng, đầy đủ, mai mốt có người đến nhận đúng thì trả lại cho người ta.

Giở ra xem, thấy có gói vàng to, người nông dân nghiêm giọng dặn vợ con: 
- Vàng của người ta là một vật rất nguy hiểm. Nó làm nảy lòng tham. Mọi điều bất chính, bất lương, mọi sự đau khổ cũng từ đó phát sinh. Mẹ con mày chớ có dúng tay vào mà khốn! 
Bác cất cẩn thận bỏ túi vải vào rương, khóa lại.

Người thương gia rảo bước về gần đến làng, nhìn xa xa ráng chiều êm ả, những làn khói bếp vương vấn trên rặng tre quen thuộc. Cảnh xưa vẫn còn trong trí bác so với nay như không có gì thay đổi sau hơn mười năm xa cách. 

Vừa đến cổng làng, người thương gia mới sực nhớ đã bỏ quên túi hành lý ở chùa. Lo sợ, hốt hoảng, bác vội quay lại con đường cũ, vừa chạy vừa kêu: 
- Khổ thân tôi! Thế là tôi mất hết cả sản nghiệp dành dụm từ hơn mười năm nay! Bao nhiêu công lao trôi sông trôi biển cả rồi! Khổ thân tôi chưa! 

Người đi đường ai thấy cũng ngạc nhiên. 
Tới chùa thì cảnh vẫn vắng tanh, bên trong chỉ có một cụ già đang lễ Phật. Người thương gia vội túm lấy cụ già, hốt hoảng hỏi: 
- Túi đồ của tôi đâu? Vàng của tôi đâu? 

Cụ già ngạc nhiên: 
- Túi đồ nào của bác? Vàng nào của bác? 
- Thì cái túi hành lý tôi để quên hồi xế trưa trong chùa này! 

Cụ già vẫn bình thản: 
- Quả thật lão không thấy túi đồ của bác. Lão đã sống thanh đạm cả đời, nỡ nào trong chốc lát vứt bỏ lương tâm mà tham của người. Bác cứ bình tĩnh. Của mất, có duyên thì còn có ngày lấy lại, vô duyên thì của cầm trong tay cũng mất. Túi đồ của bác đã thất lạc, bác lại mất luôn cả cái tâm công chính, đỗ vấy cho người là cớ làm sao? Gần đây có một xóm làng, buổi chiều nông dân thường lễ Phật trước khi về nhà. Bác thử tới đó hỏi xem. Thói thường, thấy vàng là tối mặt lại. Nhưng cũng còn tùy. Cũng còn có nhiều người tốt.

Người thương gia nghe ra, nhận thấy mình vô lý, bèn xin lỗi cụ già rồi theo lời chỉ dẫn, tiếp tục đi tìm. Tới làng, ông ta hỏi nhiều người mà không ai biết. Nghĩ rằng sản nghiệp dành dụm trong mười năm của mình nay phút chốc như chiếc lá vàng rơi theo gió đưa, biết đâu là bờ bến mà tìm! Ðành phó mặc cho bước chân tình cờ may rủi. Khi tới cuối làng, giữa vườn cây cối um tùm có một căn nhà lá nhỏ tồi tàn. Trước cửa treo một tấm bảng đen, với hàng chữ trắng viết to: “Tôi có nhặt được một túi vải bỏ quên trong chùa. Ai là chủ xin tới nhận lại.” 

Người thương gia mừng quýnh đập cửa, gặp anh nông dân ra mở hỏi: 
- Bác là chủ túi đồ bỏ quên trong chùa? 
- Vâng, chính tôi. Tôi đã để quên trong chùa hồi xế trưa nay. Xin cho tôi nhận lại. 
- Nếu đó là của bác thì bác phải nói xem túi đồ của bác như thế nào? Trong đựng những gì? 

Người thương gia trả lời: 
- Ðó là túi vải, trong đựng một ít lương khô đi đường. 
Người nông phu nói: 
- Thế thì không phải túi đồ của bác. 
- Thú thật với bác, cũng còn một số vàng trong một gói vải khác màu đỏ. 

Người nông phu nghe tả đúng các đồ vật và số lượng vàng đựng trong túi vải, biết chắc người tới hỏi là chủ nhân bèn mở rương ra, nói với người thương gia: 
- Quả thật đó là túi đồ của bác. Xin mời vào nhận. 

Người thương gia nhận đủ số vàng, lòng vui khôn tả. Bác thấy cảnh nhà người nông dân nghèo nàn mà lại không có lòng tham, để tỏ lòng biết ơn, bác chia đôi số vàng gói vào một miếng vải đưa cho người nông dân. Bác nói: 
- Vàng của tôi tưởng đã mất, may sao lại gặp tấm lòng quý của bác. Tôi xin biếu bác một nửa để tỏ lòng thành thật biết ơn. 

Người nông dân ngạc nhiên: 
- Trả lại món vật không phải của mình chỉ là một việc bình thường, có ơn gì mà được đền? 
- Bác đã làm một điều thiện. Ðược đền ơn là đúng lẽ. 

- Làm việc thiện là nghĩa vụ tự nhiên. Đạo lý xưa nay vẫn dạy như vậy. Đó không phải là cái cớ để đòi hay nhận tiền thưởng. Cũng như lòng yêu dân tộc, yêu tổ quốc không phải là cái cớ để được trả công. Vàng của bác do công sức làm ra thì bác hưởng. Tôi có góp công lao gì vào đó mà chia phần? Thôi, xin bác hãy để tôi được sống yên vui trong cái nghèo của tôi hơn là sống giàu có nhờ vào của cải người khác. Như thế cũng là một cách ăn cắp. 

Người thương gia không còn lý lẽ gì để nói thêm bèn khoác hành lý lên vai, bất thần vất gói vải đựng nửa số vàng lên bàn rồi bỏ chạy. Ý định của ông ta là bắt buộc bác nông dân phải nhận sự đền ơn, nhưng bác vội nhặt gói vàng rồi đuổi theo, miệng hô hoán:
- Bớ người ta, thằng ăn cắp! Bắt lấy thằng ăn cắp. 

Dân trong làng nghe tiếng hô hoán liền đuổi theo bắt được người thương gia dẫn trở lại trước mặt bác nông dân, hỏi: 
- Hắn đã ăn cắp vật gì của bác? 
- Hắn định ăn cắp cái tâm công chính và chân thật mà tôi có được từ ngày tôi học Phật! 

Những người làm việc công mà đòi trả ơn, làm việc thiện chỉ do tư lợi, làm việc nước cốt vì quyền hành địa vị... thảy đều không hiểu chuyện nầy!!
Inline image 2

KÍNH CHÚC,
                      MỘT NĂM MỚI : VẠN SỰ NHƯ Ý.

Thứ Hai, 27 tháng 1, 2014

FW: Đi tìm Hoàng Sa trong... tu viện cổ Ý/ Viễn Phương chuyển

Đi tìm Hoàng Sa trong... tu viện cổ Ý


Ðến
Hôm nay vào lúc 1:31 AM


On Monday, January 27, 2014 8:13 AM,  
Sent from my iPad
Date: January 27, 2014, 7:59:05 AM PST 
Subject: FW:  Đi tìm Hoàng Sa trong... tu viện cổ Ý
 
 
 
Đi tìm Hoàng Sa trong... tu viện cổ Ý
 
TTCT - Lắng nghe câu chuyện của anh - người đã lặng lẽ đi tìm cuốn sách cổ nói về chủ quyền của Việt Nam trong một tu viện cổ ở miền bắc nước Ý, có cảm giác như đang dõi theo những thước phim quay một hành trình trĩu nặng dấu yêu với dấu vết chủ quyền Tổ quốc.
Tu viện Santa Maria al Monte, thuộc thành phố Torino, miền bắc nước Ý - nơi đang lưu giữ cuốn sách quý với những dòng chữ xác nhận Hoàng Sa thuộc vương quốc An Nam - Ảnh: webshots.com
Một ngày thật tình cờ, một người bạn cũ đang sống ở Ý email cho tôi biết: “Nước Ý hiện có rất nhiều tài liệu lịch sử, địa lý ghi chép về vương quốc An Nam (toàn bộ nước Việt Nam) hay Cochinchina (tức Đàng Trong) ở thế kỷ 19. Chắc khỏi phải nói thì mọi người cũng đều biết vấn đề quần đảo Hoàng Sa hiện tại quan trọng như thế nào.
Những tài liệu này ghi nhận quần đảo Hoàng Sa (Paracel hay Pracel hay Parcel trong cách gọi của các nước phương Tây) thuộc về An Nam hay Cochinchina”.
Kèm theo lá thư là đường dẫn của ít nhất năm cuốn sách cổ của Ý đã được số hóa trên website của Google (http://books.google.com/books). Nhưng câu chuyện tìm kiếm dấu vết Hoàng Sa không dừng lại ở những trang sách đã được số hóa này.
Từ Ý, người bạn cũ đã gửi cho tôi bản chụp những trang sách quý giá có bằng chứng Hoàng Sa ấy. Kèm theo là câu chuyện về hành trình tìm kiếm cuốn sách.
“Đi tìm dấu vết”
Tác giả câu chuyện này là ông Trần Doãn Trang,  sinh viên du học trước 1975, hiện là kỹ sư của Hãng Fiat ở Torino (Ý).
Khi tìm được trên Google bản sao những cuốn sách cổ xưa ở Ý nói về chủ quyền quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa của Việt Nam, ông Trang quyết đi tìm bằng chứng thực tế. Những trang sách này được ông chụp lại từ cuốn sách tìm thấy ở tu viện Santa Maria al Monte, nằm trên ngọn đồi Monte dei Cappuccini, bên cạnh dòng sông Po, thuộc thành phố Torino, miền bắc nước Ý.
Đây chỉ là câu chuyện nhỏ về một nỗi niềm lớn, đọc để biết thêm rằng cho dù ở phương trời nào, Hoàng Sa vẫn là nỗi thao thức khôn nguôi trong tim người Việt...
Hôm thứ sáu, một ngày đầu xuân, không gian đẹp tuyệt vời. Con đường đất đá dẫn lên đến đỉnh một ngọn núi cao. Thỉnh thoảng tôi dừng lại, đứng yên, hạ chiếc balô, tập trung để những giác quan hoạt động với hiệu quả tối ưu trong lúc hơi thở điều hòa lại. Một lúc, tôi bước đi tiếp... cứ thế tôi đi rồi dừng lại, và đi... Cuối cùng, chả biết là đã bao lâu, tôi đến.
Một ngôi nhà thờ nhỏ bé, gọn gàng, đơn giản, tròn trịa, tường quét vôi trắng đã ố... một cánh cửa gỗ to nặng nề nâu sẫm đóng chặt. Tầng trên một tháp tám cạnh, trên đỉnh tháp là một cây thánh giá bằng gỗ đen. Bên cạnh nhà thờ là tháp chuông, không cao lắm, đáy vuông, vút lên cao nhỏ dần. Bên cạnh tháp chuông là một bức tường chạy dài. Bức tường của tu viện dòng Francescano (dòng thánh Phanxicô).
Xung quanh không một bóng người. Tôi bước đến gần cánh cửa gỗ tu viện, cầm chiếc vòng sắt đường kính khoảng một gang tay, được gắn bản lề ngang đầu giữa tấm cửa gỗ, nâng lên cao rồi thả xuống cho nó gõ vào miếng sắt bên dưới. Một âm thanh đùng đục bật lên, phá tan sự yên tĩnh. Tôi đứng yên, lắng tai, chờ nghe những bước chân bên kia cánh cửa nặng nề. Một lúc, không một bước chân nào. Lòng chợt phân vân.
Tôi lại cầm chiếc vòng sắt nâng cao hết cỡ rồi buông tay thả xuống, nó xoay quanh bản lề đúng 180°, đập mạnh vào miếng sắt. Một âm thanh “keng” vang to... và lại lắng tai chờ và hi vọng. Một lúc vẫn không nghe được một tiếng động nào ngoài nhịp tim đang tăng dần trong lồng ngực. Tôi ngơ ngác đi vài bước ngắn, ngó dáo dác, tìm một điểm nào đó trong không gian để bám vào... Rồi một âm thanh khô vang lên sau lưng, tôi giật mình xoay lại, cánh cửa gỗ đã được mở hé.
Một thanh niên mặc áo choàng dài màu nâu sậm của người tu hành dòng Francescano, thắt lưng bằng một sợi dây thừng, chân đi dép đen hiện ra trên ngưỡng cửa. Tôi đến gần chào. Vị tu sĩ trẻ tóc đen ngắn nhìn tôi chào lại.
Tôi đang đi tìm một dấu vết xưa cổ! Tôi giải thích cho vị tu sĩ biết ý định của mình. Tu sĩ gật gù, đứng dạt qua một bên để cho tôi lách người vào. Trước mặt tôi là một cái sân rộng vuông vắn, mỗi cạnh là một hành lang thiết kế với mái hiên chòm hình vòng cung dựa trên những cột đá. Rất đơn giản và hài hòa kích thước. Qua một khung cửa đá, tôi bước vào một hành lang dài hẹp và thấp tối, vì ánh sáng từ bên ngoài chỉ có thể xuyên qua một khung cửa sổ bé tí ở cuối hành lang.
Khoảng giữa hành lang, vị tu sĩ trẻ mở một cánh cửa gỗ, bước vào một hành lang khác hẹp hơn, tối hơn, vì ánh sáng không chiếu thẳng mà đến từ những ô cửa sổ bé khác. Cuối cùng vị tu sĩ dừng lại ở một hành lang rộng, tiền sảnh của thư viện. Một loại hành lang rộng nối liền nhiều ngăn của thư viện chạy dài. Vài chục ngàn quyển sách kiểu dáng cổ xưa được sắp ngay ngắn trên những kệ sách dọc theo những bức tường đá lồi lõm.
Trang đầu cuốn sách Compendio di Geografia (trái) in năm 1850 và phần viết về chủ quyền của Việt Nam trong cuốn sách cổ - Ảnh: Trần Doãn Trang chụp lại
Tu sĩ chỉ tay cho tôi ngồi vào một chiếc bàn gỗ nâu đen bóng loáng bên cạnh một khung cửa sổ rồi biến mất sau bức tường đá. Tôi nhìn qua khung cửa sổ và sững sờ. Một khoảng sườn núi xanh đổ dài xuống tận thung lũng của dòng sông Po đang quanh co long lanh dưới những tia nắng. Tôi hít một hơi dài đầy lồng ngực, rồi nín thở cố giữ cho tư duy không lung lay và tâm điểm đôi mắt không rung rinh, để cho phong cảnh tuyệt vời đó không bị nhòe và in rõ nét trong tâm trí mình.
Cả trang sách là những ghi chép tỉ mỉ của Adriano Balbi - nhà địa lý lừng danh người Ý về vương quốc An Nam. Trong đó chỉ rõ biên giới với các quốc gia Trung Quốc, Xiêm La (Siam); những dòng sông chính như sông Mekong, sông Saung hay là sông Đồng Nai; tổng số dân và mật độ dân trung bình 57 người trên một dặm vuông...
Phần cuối ghi rõ “Thuộc về đế chế này còn có quần đảo Hoàng Sa (Paracels), quần đảo Hải Tặc (Pirate - quần đảo Hà Tiên) và quần đảo Côn Sơn (Pulo Condor hay Côn Đảo)”.
Có tiếng dép trên nền đá. Tôi quay đầu lại. Vị tu sĩ trẻ đứng đấy, trên tay là một cuốn sách dày cộp, bìa cứng màu đen. Tôi mỉm cười cảm ơn, giơ cả hai tay đón lấy cuốn sách, đặt ngay ngắn trên bàn trước mặt rồi yên lặng ngồi nhìn.
Tôi cố dằn sự hồi hộp.
Tôi chậm rãi lật từng trang cuốn sách Compendio di Geografia (địa lý thế giới) của nhà nghiên cứu địa lý lừng danh Adriano Balbi, được xuất bản gần 200 năm về trước, trên khắp nước Ý chỉ còn lại vài cuốn mà nhờ bạn bè, tôi tìm ra tung tích của một cuốn trong tu viện dòng Francescano này... Những trang giấy trắng đã ngả sang màu ngà.
Nhìn những hàng chữ đen đã phai màu, tôi mở bung những bản đồ kèm theo để ngắm hình dáng những quốc gia của thế giới 200 năm về trước... cứ thế lật từng trang, cho đến trang 437: Vương quốc An Nam. Một trang rưỡi thôi, trên hơn 600 trang của cuốn sách, nhắc đến vương quốc An Nam, trong đó có đúng mười hàng chữ về chủ quyền đất đai được in thật trang trọng, thật đậm, không có cách gì xóa được. Ở nửa hàng gần cuối đoạn, cái dấu vết nhỏ bé mà tôi đang đi tìm hiện rõ mồn một: Quần đảo Hoàng Sa thuộc về vương quốc An Nam.
LÊ ĐỨC DỤC
 
 
 

Còn nhiều sách cổ khẳng định Hoàng Sa của Việt Nam

29/05/2010 07:17 (GMT + 7)
TuoiTreCuoiTuan - Sau bài “Đi tìm Hoàng Sa trong tu viện cổ Ý” (TTCT số 19, ngày 16-5-2010), một bạn đọc ở Milan - ông Nam Tuân - đã cung cấp thêm những thông tin khác khẳng định Hoàng Sa là của Việt Nam đang lưu trữ ở Ý và nhiều nước khác, được viết từ đầu thế kỷ 19. TTCT trích đăng bài viết.
 
Những điều thú vị về những cuốn sách của Adriano Balbi với Hoàng Sa vẫn chưa dừng lại. Kiến thức địa lý của Adriano Balbi quá nổi tiếng và không ít cuốn sách của ông được in bằng các ngôn ngữ khác vào thời đó.
Cuốn Abrégé de géographie (tập 2) của Adriano Balbi xuất bản bằng tiếng Pháp tại Paris năm 1838, trang 768 nói đến vương quốc Cochinchine (Drang-trong hay Nam Annam) có các địa danh chính là Huế, Nha Trang, Phú Yên, Quy Nhơn, Hội An (Faifo), Đà Nẵng (Touron hay Hansan) và quần đảo Hoàng Sa (Paracels). Quyển này được lưu trữ tại một thư viện Mỹ (Library of the American Bible Society). Cuốn A.Balbi's Allgemeine Erdbeschreibung, oder: Hausbuch des geographischen Wissens xuất bản bằng tiếng Đức năm 1842 cũng dành nhiều dòng nói về Hoàng Sa. Quyển này được lưu trữ tại Thư viện Astor, New York (Mỹ).
Ngoài ra, có ít nhất năm cuốn sách cổ tiếng Ý nói về Hoàng Sa của Việt Nam đang được lưu trữ rải rác ở Ý và nhiều nước khác. Trong cuốn La cosmografia istorica, astronomica e fisica tập 6 của Biagio Soria in tại Napoli năm 1828, phần 4 nói về đế chế An Nam (trang 128-131) có câu cuối cùng ghi rằng: “Thuộc về đế chế này là quần đảo Hoàng Sa (Paracels) bao gồm các đảo và đá ngầm ở phía đông bờ biển nước này”. Cuốn này hiện được lưu trữ tại Thư viện ĐH California (Mỹ).
Cuốn Geografia Fisica e Politica của Luigi Galanti (tập 3) bản in lần thứ 5 tại Napoli năm 1834 đang được lưu trữ tại Thư viện Biblioteca Walter Bigiavi dell'Università degli studi di Bologna ở Bologna và Thư viện Biblioteca S. Antonio Dottore ở Padova.
Trang 197 và 198 có đoạn: “Cuối cùng, chúng tôi phải nói tới một mê cung các hòn đảo nằm ở phía đông của Đàng Trong (Cochincina) có tên gọi là Hoàng Sa (Parcel hay Percels) bao gồm các đảo đá nhỏ và vùng nước nông... Chúng thuộc quyền cai trị của vương quốc An Nam, cũng như quần đảo Pirati ở phía đông của Đàng Ngoài (Tonchino)”.
Cuốn sách tiếng Ý Nuovo compendio di Geografia của Balbi và một số tác giả khác in tại Milano năm 1865 cũng có đoạn viết: “Thuộc về đế chế này còn có quần đảo Hoàng Sa (Paracels), quần đảo Pirati và quần đảo Côn Sơn (Pulo Condor)” ở trang 642 và 643. Đây không phải là cuốn sách mà ông Trần Doãn Trang tìm thấy ở tu viện Torino. Bản in năm 1847 của cuốn này (in tại Torino, tức Turin) đang được lưu trữ tại Thư viện Biblioteca dell'Archivio generale della Regione del Veneto ở Venezia (tức Venice), quê hương của Adriano Balbi.
Cuốn bách khoa địa lý hiện đại Geografia moderna universale, tập 3 (viết về Ấn Độ, Trung Quốc và Đông Dương) của G. R. Pagnozzi xuất bản tại Firenze (tức Florence) năm 1823 dành rất nhiều trang (182-212) viết về vương quốc Annam. Phần mô tả về các hòn đảo của Annam (Isole dell'Annam) ở trang 207, 208 nói đến các đảo Pulo Condor (Côn Đảo), Bientson (trước kia là đảo Biện Sơn hay đảo Nghi Sơn, ngày nay tỉnh Thanh Hóa đã làm một con đường nối liền đảo với đất liền và trở thành bán đảo Nghi Sơn), Pracel (Hoàng Sa), Callao (Cù Lao Chàm). Cuốn này được lưu trữ tại Thư viện Astor (New York) và các thư viện ở Firenze, Livorno, Roma.
Một cuốn khác cũng bằng tiếng Ý là Del vario grado d'importanza degli stati odierni của Cristoforo Negri, xuất bản tại Milano năm 1841, trang 421 ghi rõ: “...Đảo Hòn Hải (phương Tây gọi là Pulo Sapata, nằm ở phía đông nam đảo Phú Quý, có điểm A6 trong tuyên bố đường cơ sở của Việt Nam) nằm cách bờ biển Đàng Trong 100 hải lý. Nước này năm 1816 đã chiếm hữu quần đảo Hoàng Sa (Paracelso), nhóm các đảo đá nguy hiểm nằm xa bờ trên biển Đông mà thuyền trưởng Ross người Anh đã tiến hành khảo sát...”.
Thật ra đây là một ghi nhận sự kiện vua Gia Long ra long trọng cắm cờ, đặt bia, bắn đại bác để thông báo sự chiếm hữu chính thức, xét theo tiêu chí phương Tây. Con tàu Amphitrite khi qua vùng biển này năm 1701 (theo luận án của tiến sĩ Nguyễn Nhã) chẳng phải đã ghi nhật ký rằng Paracels là quần đảo của vương quốc An Nam hay sao, đâu phải đến năm 1816 Việt Nam mới sở hữu nó!
Trong cuốn Storia delle Indie Orientali (tập 1 viết về Đông Ấn) của Felice Ripamonti in tại Milano năm 1825, đang được lưu trữ tại Thư viện Đại học Michigan, Mỹ (theo Google), phần “Libro XXII” từ trang 124-143 dành riêng để viết về Đàng Trong (Cochincina).
Trang 127 viết: “...Thuyền trưởng các tàu buôn phải thường xuyên qua lại vùng này thích cập cảng Hội An hơn, cảng này không xa thủ đô Huế. Những người đi biển ở ba cảng này (tức cảng Huế, Hội An và Đà Nẵng) là những người lão luyện nhất của quốc gia này và hằng năm có chuyến đi biển đến chuỗi đảo và bãi đá nhỏ có tên là Hoàng Sa (Paracel) nằm cách bờ biển Đàng Trong khoảng 20-30 dặm...”. Đó có phải là những đội hùng binh Hoàng Sa, Thanh Châu ra đảo thuở nào để giữ gìn mảnh đất đã được cha ông nhọc công khai phá?
NAM TUÂN