Thứ Ba, 4 tháng 10, 2016

Cảm cựu tống Tân Xuân chi tác/ Thơ Hồ Xuân Hương/ Trích Lưu Hương ký

Bài số 2
Cảm cựu tống tân xuân chi tác
Hồ Xuân Hương

Văn bản chữ Nôm
Bài [I]


















Ảnh minh họa
Văn bản chữ Nôm,
Ngân Triều soạn


  沛  丐  春  𠸗
𣎏    𣎏 𣌁
 峝        𣘄 𣈖𣎏
𢩣 轟 窖漝 迢絲
風流 𠠩   𣳢
光景 𪚚    𠁀 𢠩
釿 鐄𡛤   尅 春 𢣿 𣼽
  𤾓塘 客 𢥢  𢠐

Phiên âm
Cảm chuyện xưa,
tiễn đưa người tình mới

Xuân nầy nào phải cái xuân xưa, (1)
Có sớm ư? Thời lại có trưa.
Cửa động hoa còn thưa thớt bóng, (3)
Buồng thoa oanh khéo dập dìu tơ.
Phong lưu trước mắt bình hương nguội,  (5)
Quang cảnh trong đời chiếc gối mơ.
Cân vàng nửa khắc Xuân lơ lửng,  (7)
Phố liễu trăm đường khách ngẩn ngơ.

Chú giải:
Tiêu đề bài thơ hơi khác thường vì người ta thường nói Tống cựu, nghênh tân, tiễn đưa năm cũ, đón mừng năm mới, ở đây thì ngược lại, tiễn đưa năm mới. Vì thế có người đã dịch Bài thơ là “cảm năm cũ, tiễn đưa năm mới”. (NXB Văn Học Hà Nội, 1982) nhưng chữ Xuân còn có nghĩa là người tình. Do đó tiêu đề có thể dịch như tiêu đề đã ghi trên: Cảm chuyện xưa, tiễn đưa người tình mới.
buồng thoa, 𢩣 , ( thoa, cái trâm cài đầu phụ nữ), cái buồng củangười con gái.
oanh, ,rầm rộ, rộn rã. Ở văn cảnh nầy là rộn rã.
dập dìu tơ, 漝迢絲, số lượng người trẻ trung tấp nập.
Phong lưu,風流,Khách đến chơi.
 bình hương nguội, 𣳢, ý nói lửa lòng đã tắt.
Sự đời đã tắt lửa lòng,
Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi!
ĐTTT, Nguyễn Du, câu 3045-3046
chiếc gối mơ, 𢠩, gối du tiên hay du tiên chẩm:
Trong Khai thiên di sự: Nước Quy Tư có dâng vua một chiếc gối rất kỳ lạ. Khi gối đầu ngủ thì chiêm bao thấy mình được đi chơi khắp cõi tiên. Vua Đường Minh Hoàng đặt tên gối là "Du tiên chẩm".
Cân vàng nửa khắc, 釿 鐄𡛤   , cuộc vui tuyệt vời, ngắn ngủi, cuộc vui  nửa chừng, chưa trọn vẹn.
Xuân lơ lửng, 𢣿 𣼽, Xuân phải hiểu là “đông quân”, , vừa là mùa xuân vừa  là người yêu. “Tân Xuân” phải hiểu là “người yêu mới”
Phố liễu, 庯 柳, phố có trồng liễu, nhà phố có mỹ nhân.
ngẩn ngơ: 𢥢  𢠐, đờ đẫn như tâm trí đang ở đâu đâu.
 Diễn ý thơ, bài 1:
 Hồ Xuân Hương viết hai bài thơ trên năm 1814, trước khi gặp Tốn Phong để  đưa chàng viết tựa xin diễn ý như sau:
Bài I.   
 (1)Hết cơn bỉ cực đến hồi thái lai, mùa xuân này không còn như những mùa xuân xưa,
(2)Cũng như đất trời đã có buổi sớm, tức là sẽ có buổi trưa.
(3)Trước cửa, người tìm thơm , trồng cây si không đông.
đến muộn màng, không thành).
(4-5) Trong nhà, không còn tiếng đàn rộn rã. Trước mắt, tấm lòng như bình hương nguội; vì cũng đã tưởng không còn yêu ai được nữa, đã lạnh với phong lưu rồi. (Lúc này, Xuân Hương đã trải qua nhìều kinh nghiệm nhân sinh, nhất là về tình ái).
(6)Nhưng nay gặp một đối tượng đúng như lòng mình mơ ước thật khó; quả là cuộc đời như ngủ trên một chiếc gối mơ (tích Du tiên chẩm)
(Ở tuổi tưởng như đã lỡ làng bỗng dưng được treo giá ngàn vàng,(được quan Yên Quảng Trần Phúc Hiển xin gá nghĩa tóc tơ)
(7) Ngắn ngủi cân vàng,  lòng chửa thỏa.
(Vì sao “cân vàng”, ngắn ngủi, lơ lửng? Phải chăng bà muốn so sánh bóng  bẩy chuyện “cân vàng”như 2 đĩa cân lên xuống, với hình ảnh làm cái “chuyện ấy” ,trong yêu đương của tình yêu đôi lứa. Thật rất tuyệt vời!)

(8)Tơ duyên đó, khiến cho lòng ngơ ngẩn,không khuây.

.
Diễn thơ bài 1: Ngân Triều
Xuân này không giống những xuân xưa,
Như đất trời có sớm, có trưa.
Trước cửa, tìm thơm, người vắng vẻ?
Trong nhà, đâu rộn rã âm tơ?
Lửa lòng đã tắt cùng sương gió,
Duyên đến như là ngủ gối mơ (1)
Ngắn ngủi cân vàng, nên chẳng chớ, (2)
Tơ duyên ngơ ngẩn, mấy cho vừa

--------------------------
Ghi chú:
(1) ngủ gối mơ, xin xem tích “Du tiên chẩm” ở trên.
(2) nên chẳng chớ = nên chăng chớ, chưa đạt yêu cầu,chẳng ra sao cả.

Bài [II]

Ảnh minh họa



















Văn bản chữ Nôm,
 Ngân Triều soạn

  𠁀 咮悋𤮿
䀡 法 𩄎
 音 搭 姅 𧜖群 短
幅 𡋦𦖑佘 㗂 㐌 餘
唸 𣖙 樗 尼 唁 仍𦰟
𥉫  𨩍 𣈜奴 滂 如 祠
初   群𥯉 兠 欣 姅
咍  仍 自 低 沛 世𣗓

Phiên âm:
Mới biết vị đời chua lẫn ngọt,  (1’)
Mà xem phép Tạo nắng thì mưa.
Tri âm đắp nửa chăn còn ngắn,  (3’)
Bức vách nghe xa tiếng đã thừa.
Nếm mía vụ nầy ngon những ngọn,  (5’)
Trông gương ngày nọ bẵng như tờ.
Xưa nay còn có đâu hơn nữa,  (7’)
Hay những từ đây phải thế chưa?

Chú giải:
bức vách, 幅  𡋦 hay tai vách mạch rừng, chỉ những dư luận đồn đại đa dạng nhiều chiều, phần nhiều do cảm tính, không đúng sự thật:
Rừng có mạch vách có tai.
Nghĩa là kín như rừng cũng có những lối đi nhỏ. (mạch) người ta có thể biết được, kín như vách, người ta cũng có thể nghe được.
Câu (5’), mía chính vụ vào dịp Heo may, trước Tết. Sau Tết người ta “bồng gốc”, làm tơi đất, bón tưới, thúc mầm cho mía lên.
Tục ngữ có câu:
Mía tháng ba ngọt ra đầu ngọn.
Tháng Ba mía còn non; họa chăng còn sót lại chút mía măng, ăn chẳng ra gì. Nếm mía vụ nầy ngon những ngọn là nếm mía vào lúc mía trái vụ. Trái vụ đồng nghĩa với cảnh quá lứa lỡ thì của người con gái.
Diễn ý thơ trên:

***
Bài II. 
*Lẽ đời trải nghiệm, đều có vị chua lẫn vị ngọt,
*như trên trời  có nắng, có mưa.
*Chưa phải là tri âm hoàn toàn (còn ngắn) so với lòng ước vọng.
*Những lời chê bai, dư luận (cho là nàng có số sát phu), đã quá nhiều rồi.
*Nay đã tìm ra người tâm đầu ý hợp, (quan Tham Hiệp Yên Quảng),
như vụ “mía tháng ba ngọt ra đầu ngọn”vì trái vụ.( tuy muộn màng nhưng rất thỏa lòng).
*Chạnh nỗi niềm xưa, đời đơn lẻ, soi gương quạnh vắng một mình.
*Từ trước đến giờ, đâu có  mối tình nào hơn mối tình nầy như thế.
*Có phải từ nay về sau sẽ thỏa lòng như thế hay không.
Soạn theo Thư viện Online và tham khảo tài liệu của TS Phạm Trọng Chánh.

Bài II. Diễn thơ của Ngân Triều:
*Lẽ đời tất định ngọt và chua,
*Như ở trên trời có nắng mưa.
*Duyên kiếp phải chưa, lòng ước vọng,
* Chê bai dư luận, hãy còn thừa. (1)
*Mía nầy trái vụ, ngon đầu ngọn. (2)
* Lẻ bóng soi gương,chạnh nỗi xưa,
*Thuở trước tình nào đâu đã trọn,
*Sau nầy có thỏa thế hay chưa.?
------------------------------------
(1) Cho là nàng có số sát phu.

(2) Nay đã tìm ra người tâm đầu ý hợp, quan Tham Hiệp Yên Quảng,  tuy muộn màng nhưng rất thỏa lòng.

Thứ Bảy, 1 tháng 10, 2016

Thệ viết hữu cảm /Thơ chữ Hán của Hồ Xuân Hương/ Trích Lưu Hương ký

Bài số 14
 Thệ viết hữu cảm
Hồ Xuân Hương
           Rồi một đêm trăng Hồ Phi Mai và Mai Sơn Phủ đã cắt tóc, mỗi người một mảnh gọp lại và chia làm hai, trích máu nhỏ vào hai chén chung rượu, chén tử và chén sinh cùng uống thề trọn đời yêu nhau. Bài Thệ viết hữu cảm. Xuân Hương ghi lại cảm nghĩ khi thề: Mười mấy năm trời một chữ tình, kể từ khi gặp Nguyễn Du mùa hạ năm 1790, mười năm sau 1800 mới gặp được người ngỏ ý yêu mình, muốn kết duyên với mình hẵn là duyên nợ ông Tơ bà Nguyệt đã dành. Cùng cắt tóc mây góp lại, (xưa các chàng cũng để tóc dài búi lên cột dây, nên tha hồ mà cắt) dao vàng cắt chia làm hai, mỗi người giữ một bó làm kỷ niệm..Lấy kim trích máu nhỏ đầy hai chén rượu, chén tử và chén sinh. Thề sống và chết trọn kiếp với nhau, thề không phản bội nhau từ đầu xanh đến bạc tóc. Nếu mai sau, ai chẳng giữ lời thì chết dữ vì dao búa.( Trước với Nguyễn Du không có thề nguyền với Xuân Hương, nên chàng lừng khừng: tròn trặn gương tình cũng có khi, nên ở biệt mãi Hồng Lĩnh):



Ảnh minh họa, Google
Cảm nghĩ khi thề
Mười mấy năm trời một chữ tình;  (1)
Duyên tơ này đã sẵn đâu dành.
 
Mái mây cắt nửa nguyền phu phát,
  (3)
Giọt máu đầy hai chén tử sinh,
 
Một kiếp đã thề cùng dạ thắm,
 (5)
Trăm năm đừng phụ với đầu xanh,
 
Mai sau lòng chẳng như lời nữa,
 (7)
Dao búa nguyền xin lụy đến mình.
Thơ Hồ Xuân Hương trong Lưu Hương Ký
Văn bản chữ Nôm:
願 曰 有 感
辻 買   𡗶  𡦂 ,
縁 絲尼 㐌   産  𠱷
𠃅  𩄎 𡛤願 夫 髪
𧖱  𣹓 𥗜 死 生
 㐌 誓 穷    𧺀
𤾓 𢆥  𠏦 買頭
𣈕   𢖖 𢙱     𠳒 
  吀 累 𦤾   𨉟
*
 Đại ý:
(1-2): Thời gian và cuộc tình.
 (3-4-5-6): Cụ thể việc thề ước gồm vật chứng và tấm lòng.
(7-8):Lời thề chấp nhận hình phạt nếu bội ước.
Chú giải:
nguyền phu phát, 願夫髪, lời nguyền cùng với tóc người chồng.
dạ thắm,   𧺀, tấm lòng trung trinh như son, lòng son.
Câu (6), trong cõi trăm năm, kiếp người, kông bao giờ bạc tình, bạc nghĩa với nhau.
duyên tơ,縁絲, như tơ duyên, 絲縁 , là sợi tơ hồng buộc đôi lứa yêu nhau:
Rằng: “Lòng đương thổn thức đầy,
Tơ duyên còn vướng mối nầy chưa xong…”
ĐTTT, Nguyễn Du, câu 719-720
“…Trăm nghìn gửi lạy tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủi, có ngần ấy thôi…”
Sđd, câu 751-752
đầu xanh,,tu từ hoán dụ, chỉ lớp người trẻ trung, tóc còn đen:
Đầu xanh đã tội tình gì,
Má hồng đến quá nửa thì chưa thôi…
Sđd, câu 2161-2162
***
          Diễn thơ của Ngân Triều:
Cảm nghĩ khi thề
Mười mấy năm trời, mới với nhau.
Duyên tơ  sẵn định có ai đâu?
Tóc mây cắt nửa chung lời nguyện.
Sinh tử, máu đào, chén ước giao 
Trọn kiếp đã thề lòng sắt đá,
Suốt đời liền cánh dẫu lao đao.
Mai sau lòng chẳng như lời hứa,
Nguyền nát thây phơi với búa dao.
                                          Ngân Triều

***
Phụ lục:

Việc thề nguyền ngày xưa
Trong văn học Việt Nam, chúng ta biết đến việc cắt tóc, trích máu thề nguyền qua Thúy Kiều và Kim Trọng. “Tóc mây một mái dao vàng chia hai”
Trong nguyên tác Kim Vân Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân do ông Tô Nam Nguyễn Đình Diệm dịch. Ông Phạm Đan, Quế có in lại trong Truyện Kiều đối chiếu nxb Hà Nội 1991 tr 100, có ghi bài văn thề của Kim Trọng Thúy Kiều.( Tôi xin trích sẵn sau đây để các bạn trẻ ngày nay chỉ việc  couper, imprimer và điền tên họ vào, nhớ phải sắm sẵn thuốc sát trùng và xài kim mới, người viết không chịu trách nhiệm về vấn đề y tế. và về thẩm mỹ đầu tóc)
THỀ RẰNG 
Chúng tôi hai kẻ đồng tâm là Kim Trọng và Vương Thúy Kiều
 
Trọng sinh năm...... tháng......ngày......giờ
 
Kiều sinh năm.........tháng......ngày......giờ.
 
Nay xin kính cẩn đốt nén hương lòng, dâng ly rượu tịnh, thề trước hoàng thiên hậu thổ linh thiêng.
 
Chúng tôi trộm nghĩ:
 
Vợ chồng trọng nghĩa, nghĩa phải thủy chung không rời. Nhi nữ đa tình, tình dẫu tử sinh không phụ.
 
Trước đây : Kiều muốn lấy chồng, Trọng mong có vợ, thương mộ tài sắc đã nguyền đôi chữ đồng tâm.
 
Ngày nay: Trọng lo buổi mới, Kiều sợ về sau, tạc dạ ghi lòng, cùng thề đến khi mãn kiếp.
 
Sau giờ minh thệ, ví thử chẳng may, gặp cảnh bất thường, quyết không thay đổi.
 
Ai mà phản bội lời ước. Cứu xin thần thánh xét soi.Ký tên (hai bản)
 
Kim Trọng  và Thúy Kiều 
 
(bảnThúy Kiều trao lại cho Thúy Vân, thay thế chị tiếp nối lời thề, tình chị duyên em, quy luật bất thành văn, vì trong lời thề không có khoản nào thay thế. Thúy Vân chỉ ung dung ngồi yên cho chị lạy, rồi hưởng hạnh phúc, mặc chị mười lăm năm phong trần gió bụi)
Chàng Kim viết và đọc xong văn tế, hai người quỳ lạy thiên địa, đoạn quay vào chén thù chén tạc. 
Nghi lễ thường cử hành lúc canh khuya có ba sao Tam Tinh (Sam Sung, của Đại Hàn lấy từ tích này đây) chứng giám, lấy tích trong Kinh Thi thuộc Đường Phong có câu Tam Tinh tại thiên, ba sao giữa trời, ý nói vợ chồng gặp nhau lúc canh khuya.
 Thời Hồ Xuân Hương sống trong chiến tranh Tây Sơn và chúa Nguyễn Ánh đang hồi quyết liệt, lời thề chết vì dao búa trong chiến tranh là lời thề khiếp sợ nhất.”
Theo tài liệu của TS Phạm Trọng Chánh, Paris.