Hiển thị các bài đăng có nhãn ân tình_ Lời bình Ngân Triều Hậu Nghĩa. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn ân tình_ Lời bình Ngân Triều Hậu Nghĩa. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 24 tháng 3, 2017

Bài [19-20], Tình sử Hồ Xuân Hương-Nguyễn Du/ Ngân Triều biên khảo


[Bài 19]
Hoïa nhaân


          Thời gian xa cách thắm thoát đã hai năm. Nguyễn Du vẫn biền biệt nơi Hồng Lĩnh. Mẹ Xuân Hương thúc ép nàng lấy chồng, Có anh thầy Lang xóm Tây làng Nghi Tàm, con cụ Lang, cậy người mai mối. Nhân có người về Hà Tỉnh. Hồ Xuân Hương gửi thơ cấp báo:
Vài hàng viết thư gửi chàng mà chạnh lòng nước mắt rơi,
 Tưởng rằng thức suốt năm canh ánh trăng vẫn còn đó, tưởng rằng em (nguyệt) có thể chờ đợi anh lâu hơn,
Nhìn lá nhuộm sương mai buổi sớm mà lòng thẹn (vì đã hẹn với chàng),
 Màu sương khói chỉ làm rộn ràng nỗi buồn,
Bước ra ngoài nhà thẩn thơ trước gió,
Xa xa tiếng địch ai thổi chói tai (lời anh Lang xóm Tây theo ve vản nàng),
 Muốn hỏi trăng già sao khe khắc với tình duyên đôi ta,
Trêu nhau làm chi mà xe mối tơ không trọn vẹn để đôi ta phải xa nhau.
             Phạm Đình Hổ đã chứng kiến, việc mẹ gã Xuân Hương cho anh thầy Lang, có lẽ cũng là học trò cụ Đồ Diễn, thư sinh ngày xưa không thi cử làm quan thì cũng hành nghề: Y, Lý, Bốc, Số, anh Lang không thi cử, trở về tiếp tục nghề nghiệp của cha. Bài Hoài Cổ. (Nhớ xưa) Phạm Đình Hổ viết về Xuân Hương, tôi dịch như sau: 
Năm xưa hoa đào nở,
 Em tôi học cài trâm.
 Năm nay hoa đào nở. 
Mẹ gả xóm Tây gần.
*
Năm nay hoa đào nở,
Gió xuân sao lạnh lùng.
 Em nhìn hoa mà khóc.
 Sầu vương nét mi cong.
*
Năm nay hoa đào nở,
Cỏ xuân mượt trời mơ.
Bên hoa em cười nụ,
 Ngâm thành tự đề thơ.
*
          Phạm Đình Hổ là người ham học hỏi, thấy người tài là đến chơi, thấy nhà ai có nhiều sách hay thì đến đọc, thấy việc gì cũng ghi chép. Trong thơ văn ông, tôi khám phá, ông chứng kiến mối tình Xuân Hương với Nguyễn Du, với anh Thầy Lang, với Mai Sơn Phủ, và cho Xuân Hương mượn tiền để mở quán sách Phố Nam thành Thăng Long, cạnh đền Lý Quốc Sư và trường ông Nghè Phạm Quý Thích, sau khi Xuân Hương dứt tình với Tổng Cóc Nguyễn Công Hoà. Xuân Hương không tự đề thơ, mà viết bài thơ cuối cùng cho Nguyễn Du.

*
Họa nhân
Vài hàng chữ gấm chạnh niềm châu;
Nghĩ tưởng năm canh nguyệt hé lâu.
Lá nhuộm thức lam thêm vẻ thẹn,
Sương pha khói biếc rộn thêm sầu.
Thẩn thơ trước viện, nhà khoe gió,
Đồng vọng bên tai, địch thét đâu,
Ướm hỏi trăng già khe khắc bấy,
Trêu nhau chi những sợi cơ cầu.
Thơ chữ Nôm Hồ Xuân Hương. Lưu Hương ký
*
Bản chữ Nôm Ngân Triều soạn:
𠄧𡨸𢤜惗珠
𢣂𠄼更月嚱
𦲿染式籃沾𡲈𢢆
霜波𤌋碧吨沾愁
𠽔𠓀院茄誇𩙍
同望𦖻𠯦
𠳨𦓅吃悲
嘲饒之仍 𥿥箕 裘
*
ảnh minh họa, Google

Ngân Triều diễn thơ:
Thư gởi đến chàng rơi nước mắt,
Năm canh cứ tưởng nguyệt luôn còn. 
Sương mai lá nhuộm lòng thêm thẹn, 
Khói trắng giăng giăng rộn nỗi buồn, 
Thơ thẩn ngoài sân trời nổi gió, 
Xa xa tiếng địch hét buồn nôn.
Trăng già sao nỡ duyên khe khắc!
Xe mối tơ xa, biết có tròn?
*
Tham khảo:

HỒ XUÂN HƯƠNG BÀ LANG KHÓC CHỒNG

          Lo lắng trước tình duyên của con gái, đã hai mươi bốn tuổi mà vẫn còn chờ đợi Nguyễn Du, ngày cưới hỏi vẫn chưa thấy đâu. Xóm Tây, con thầy Lang làng Nghi Tàm cậy mai mối đến hỏi cho con trai, cũng làm nghề thầy lang, cũng là học trò cụ Đồ Diễn. Gả con về Hà Tĩnh cách trở xa đường, còn con thầy Lang dầu sao cũng xóm làng gần. Hồ Xuân Hương gửi thơ bao lần thúc dục Nguyễn Du, Bài thơ nguyên là một ghi chú dài dòng nhân có ông ... về Hồng Lĩnh gửi thơ cho chàng:
          Vài hàng viết thơ gửi chàng mà nước mắt rơi lai láng, nghĩ tưởng rằng em sẽ chờ đợi chàng được lâu. Nhìn lá nhuộm sương buổi ban mai mà lòng thêm thẹn, màu sương khói chỉ làm rộn thêm nỗi sầu. Em thờ thẩn trước nhà, nhà đang sửa soạn chưng diện đám hỏi, lòng em trống trải, như nhà chưng diện để khoe với gió. Vì lòng em đã chán nghe những lời tán tỉnh của anh Lang như tiếng địch (tiêu, sáo dọc) thét bên tai, anh chàng thổi sáo dở, lại cứ đem địch thổi bên tai nghe chói như tiếng thét (ngày nay, mang đàn vĩ cầm đi tán gái, không cần người yêu than chói tai, hàng xóm cũng lấy trộm mất cây đàn vĩ cầm). Muốn hỏi trăng già sao khe khắt với tình yêu đôi ta, trêu nhau chi mà se những mối tơ không trọn vẹn để cho đôi ta phải xa nhau !
*

*****

          Nguyễn Du bặt tin. Hồ Xuân Hương không còn lối thoát đành lên kiệu hoa về nhà chồng, thầy Lang xóm Tây làng Nghi Tàm.
          Theo Gs Hoàng Xuân Hãn, tương truyền người chồng thứ nhất Hồ Xuân Hương là một thầy thuốc, con một thầy lang, chưa được bao lâu thì thầy lang đi chữa bệnh chẳng may bị nhiễm bệnh mất. Xuân Hương viết bài Bà Lang Khóc Chồng. Bản Quốc Âm Thi Tuyển chữ nôm tựa Khóc Chồng Làm Thuốc.
BÀ LANG KHÓC CHỒNG
Văng vẳng tai nghe tiếng khóc gì ?
Thương chồng nên khóc tỉ tì ti.
Ngọt bùi thiếp nhớ mùi cam thảo,
Cay đắng chàng ơi vị quế chi.
Thạch nhủ, trần bì sao để lại,
Qui thân, liên nhục tẩm mang đi.
Dao cầu, thiếp biết trao ai nhỉ ?
Sinh ký chàng ơi, tử tắc quy.
*
Chú thích
Cam thảo : thân cây có chất ngọt.
Quế chi : cành vỏ quế có quế vị cay, có quế vị đắng.
Thạch nhũ: một loại lá trà, cũng có nghĩa là vú trong hang động.
Trần bì : võ quýt phơi khô, nghĩa bóng cái giống người nữ hay người nữ trần truồng.
Qui thân : một loại cần, nghĩa bóng là qui đầu, dương vật.
Liên nhục : hột sen nghĩa bóng là thân thể.
Dao cầu : dao sắc thuốc bắc.
Sinh ký tử qui : Sống gửi thác về, lấy từ sách Hoài Nam Ký.
          Bài thơ Xuân Hương không yêu thầy lang nên đùa bỡn, mượn tên các vị thuốc : Cam thảo, quế chi, thạch nhủ, trần bì, qui thân, liên nhục. Và Dao cầu để sắc thuốc bắc, từ nay thân phận thiếp biết trao cho ai. Hồ Xuân Hương không cho mối tình này nằm trong tình sử của mình nên cũng không chép trong Lưu Hương Ký.
*****
[Bài 20]
Kyù moäng


         Trước sự nguy cấp của tình hình Nguyễn Du, không biết hành động gì hơn, đã trả lời bài thơ này bằng bài Ký mộng:
Thời gian qua nhanh như nước chảy ngày đêm,
 Anh như người du tử ở biệt mãi chốn quê hương.
Bao năm rồi không gặp mặt lại,
Nói làm sao hết những nhớ thương,
*
Chỉ còn biết gặp nhau trong mộng,
Đêm qua anh mơ thấy rõ ràng,
Em đến tìm anh nơi bến sông Giang Đình.
 Dung nhan vẫn như ngày xưa,
 *
Áo tứ thân không buồn chăm sóc.
Thoạt tiên em kể nỗi đau ốm,
Rồi than thở những ngày xa nhau,
Sụt sùi không nói hết, như cách một bức màn.
*
Bình sinh em không thuộc lối,
Mộng hồn không biết thực hay không.
Núi Tam Điệp nhiều hổ trĩ,
Sông Lam lắm cá sấu.
*
Đường đi hiểm trở khó khăn,
Không biết có nhờ cậy ai ?
Mộng đến ngọn đèn cô đơn giọi sáng,
Mộng tan gió thổi lạnh lùng.
*
Người đẹp của lòng anh không thấy nữa,
 Lòng anh rối như tơ vương.
Nhà trống ánh trăng xế soi vào,
Chiếu trên tấm áo cô đơn của anh.
*
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Kyù moäng
Thệ thủy nhật dạ lưu,
Du tử hành vị qui.
Kinh niên bất tương kiến,
Hà dĩ uý tương ti (tư).
*
Mộng trung phân minh kiến,
Tầm ngã giang chi mi.
Nhan sắc thị trù tích,
Y sức đa sâm si.
*
Thỉ ngôn khổ bệnh hoạn,
Kế ngôn cửu biệt ly.
Đái khấp bất chung ngữ,
Phảng phất như cách duy.
*
Bình sinh bất thức lộ,
Mộng hồn hoàn thị phi.
Điệp sơn đa hổ trĩ,
Lam Thủy đa giao ly.
*
Đạo lộ hiểm thả ác,
Nhược chất tưong hà y ?
Mộng lai cô đăng thanh,
Mộng khứ hàn phong xuy,
*
Mỹ nhân bất tương kiến,
Nhu tình loạn như ti.
Không ốc lậu tà nguyệt;
Chiếu ngã đan thường y.
*
Tham khảo bản chữ Hán, Thi Viện:

  

*
          Người vợ trước của Nguyễn Du là em của Đoàn Nguyễn Tuấn, đã mất ở Quỳnh Hải, Thái Bình. Lúc này Nguyễn Du ở Hà Tĩnh chiêm bao thấy vợ. Ông nghĩ lúc sống bà chưa biết đường làm sao tìm được ông trong giấc chiêm bao. 
Tham khảo: Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Trần Văn Nhĩ, NXB Văn Nghệ, 2007
*
GHI LẠI GIẤC MỘNG
Dòng nước ngày đêm chảy,
Người biệt chốn cố hương.
Bao năm không gặp mặt,
Làm sao hết nhớ thương ?
*
Trong mộng rành rành thấy,
Tìm ta nơi bến sông,
Dung nhau vẫn như trước,
Y trang buồn biếng chăm.
*
Trước kể nỗi đau ốm,
Rồi than những ngày xa,
Nghẹn ngào không nói hết,
Dường cách bức màn sa.
*
Bình sinh không thuộc lối,
Mộng hồn biết thật chăng ?
Núi Điệp đầy hổ báo,
Sông Lam lắm thuồng luồng.
*
Đường đi thật hiểm trở,
Phận gái nhờ ai không ?
Mộng đến đèn côi sáng.
Mộng tan gió lạnh lùng.
*
Giai nhân nào thấy nữa,
Lòng ta rối tơ vương.
Nhà trống vầng trăng xế,
Soi manh áo cô đơn.
(Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nhất Uyên dịch thơ)
*

Ngân Triều diễn thơ:
Thời gian như nước chảy, 
Biền biệt mãi quê hương. 
Bao năm rồi không gặp, 
Làm sao vơi nhớ thương, 
*
May ra là mộng tưởng, 
Đêm qua thấy rõ ràng, 
Tìm anh nơi Giang Đình.
Dung nhan như ngày cũ, 
*
Áo tứ thân xốc xếch. 
Em kể nỗi ốm đau ,
Than thở nỗi xa nhau, 
Bức màn không nói hết.
*
Bình sinh không thuộc lối, 
Mộng hồn biết thực không? 
Tam Điệp nhiều hổ báo, 
Lắm cá sấu đường sông
*
Đường hiểm trở khó khăn, 
Nhờ cậy có ai thân? 
Mộng có đèn soi sáng, 
Gió lạnh lùng mộng tan.
*
Người thương không thấy nữa,
Bối rối buồn nào hơn. 
Nhà trống bóng trăng xế, 
Rơi trên manh áo đơn.
***
Chú thích
Cách duy:
cách bức màn. Hoàng hậu vua Hán Vũ Đế là Lý Phu Nhân, sắc đẹp, múa giỏi, chết sớm. Vũ Đế rất thương tiếc. Có người phương sĩ nói có thể chiêu hồn Lý Phu Nhân về, vua bằng lòng. Ban đêm người ấy bèn giương màn, đốt nến, để vua ngồi trong màn, nhìn sang bức màn khác, thấy bóng người giống Lý Phu Nhân.
Nhược chất
: tư chất phụ nữ yếu đuối
Nhu tình:
, mối tình vấn vương tha thiết.
Bài thơ này, ông Đào Duy Anh cho rằng Nguyễn Du nhớ vua Lê Chiêu Thống; ông Trương Chính, Lê Thước lúc đầu cho rằng nhớ người bạn cũ, sau đó cho rằng nhớ vợ (em gái Đoàn Nguyễn Tuấn). Các bản khác đều cho như thế. Riêng tôi (TS Phạm Trọng Chánh), chứng minh bài này Nguyễn Du nhớ Xuân Hương Hồ Phi Mai.
          Hồ Xuân Hương đã nhận được bài thơ này, nên trong bài: Cảm Cựu Kiêm trình Cần Chánh học sĩ Nguyễn Hầu, gửi Nguyễn Du năm 1813. Hồ Xuân Hương đã nhắc lại bằng câu: Giấc mộng rồi ra nửa khắc không. Xuân Hương đã hiểu Nguyễn Du khi viết: Mộng đến đèn côi sáng, mộng tan gió lạnh lùng, Giai nhân nào thấy nữa, Lòng ta rối tơ vương. Nguyễn Du đã xem cuộc tình ba năm với Xuân Hương Hồ Phi Mai, như một giấc mộng.
          Bài Tạp Thi (I) , Nguyễn Du cũng xem cuộc tình với cô Xuân Hương làng Nghi Tàm, hay cô Cúc làng Trường Lưu đều là mộng ảo. Xuân lan, thu cúc, thành mộng ảo (Xuân lan thu cúc thành hư sự.)
          Dù còn yêu, nhưng biết rằng tình yêu không lối thoát, Nguyễn Du không có một hành động nào cậy mai mối hay người thân đến cưới hỏi, ít ra Nguyễn Du cũng còn mấy bà chị dâu, hay chị ruột ở Thăng Long ?  Ba đồng một miếng trầu cay, Sao anh không hỏi những ngày còn không ?
          Tin Nguyễn Du bị bắt giam tại Hà Tĩnh ra đến Thăng Long. Bà Đồ Diễn thôi thúc con gái lấy chồng. Phạm Đình Hổ trong bài Hoài cổ ( Nhớ xưa), mượn ý thơ Thôi Hộ, đã trêu nàng:
 Năm xưa hoa đào nở,
Em tôi học cài trâm.
Năm nay hoa đào nở,
Mẹ gả xóm Tây gần,
*
Năm nay hoa đào nở,
Gió xuân sao lạnh lùng.
Em nhìn hoa mà khóc,
Sầu vương nét mi cong.
***
Khứ tuế đào hoa phát,
Lân nữ học sơ kê.
Kim tuế đào hoa phát.
Dĩ giá lân gia tây ;
*
Kim tuế đào hoa phát,
Xuân phong hà thê thê,
Lân nữ đối hoa khấp,
Sầu thâm mi chuyển đê...
(Phạm Đình Hổ. Tuyển tập thơ văn ; nxbKHXH 1998.)
*
          Nguyễn Du phúc đáp bằng bài thơ Ký Mộng, mơ Xuân Hương, bỏ mẹ, bỏ lớp dạy trẻ , vượt đèo Tam Điệp đầy hổ báo, vượt Sông Lam lắm cá sấu, đường đi thật hiểm trở, vào Hồng Lĩnh thăm mình. Tỉnh dậy viết bài Ký mộng gửi Xuân Hương, nên năm 1813 khi tình duyên tan vỡ, đò đã qua mấy chuyến, trong bài Cảm Cựu Khiêm Trình Cần Chánh Học sĩ Nguyễn Hầu, mừng chàng làm Chánh Sứ: Xuân Hương nhắc lại: 
Giấc mộng rồi ra nửa khắc không .
Đáp lại các câu thơ: 
Mộng đến ngọn đèn sáng,
 Mộng đi gió lạnh lùng,
Giai nhân nào thấy nữa,
Lòng ta rối tơ vương.
          Ngày trước ông Đào Duy Anh, trong cuốn Khào luận Truyện Kiều căn cứ vào câu Du tử hành vị quy, cho rằng Nguyễn Du nhớ vua Lê Chiêu Thống. Các ông Lê Thước, Trương Chính trong thơ Chữ Hán Nguyễn Du cho rằng nhớ một người bạn cũ, sau đó lại cho rằng nhớ người vợ trước em Đoàn Nguyễn Tuấn. Riêng tôi, (TS Phạm Trọng Chánh),  Nguyễn Du không gọi là hiền thê, vợ hay bạn hay vua mà gọi là mỹ nhân, Mỹ nhân đó chính là Xuân Hương Hồ Phi Mai, lúc đó Nguyễn Du còn cô đơn chưa vợ. Ba mươi tuổi Nguyễn Du mới về Quỳnh Hải cưới vợ, lúc ở Hồng Lĩnh chỉ ở một mình bếp lạnh hoang vắng. 
*

Nguồn: Đi tìm Cổ nguyệt đường và mối tình HXH và Nguyễn Du của TS Phạm Trọng Chánh

Chủ Nhật, 20 tháng 10, 2013

Mời qúy độc giả đọc lại một bàì thơ xưa, "Giã vợ đi làm quan"/ Tác giả Phan Thanh Giản/ Lời bình Ngân Triều Hậu Nghĩa



Mời  quý độc giả đọc lại một bài thơ xưa:
Giã vợ đi làm quan, Tác giả Phan Thanh Giản

 Lời bình: Ngân Triều Hậu Nghĩa


Thay lời giới thiệu:
Tôi còn nhớ năm học lớp đệ thất (1956-1957), Ba Má tôi cho tôi lên học Trường Trung Học Lê Văn Trung,Tây Ninh, ở trọ nhà người bà con, cũng như nhiều anh chị khác ở Hậu Nghĩa; có thể là đất Tây Ninh hiền hòa và Trường Trung Học Lê Văn Trung bấy giờ gồm những bậc Thầy Cô danh tiếng và chi phí ăn học phù hợp với điều kiện kinh tế gia đình.
Nhớ có lần trong giờ Giảng Văn, lần đầu tôi được nghe Thầy Nguyễn Văn Luật, giảng một bài thơ rất hay trong sách Giảng Văn lớp đệ thất của Giáo sư Phan Ngô. Đó là bài thơ “Giã vợ đi làm quan” của Cụ Phan Thanh Giản. 
Dù nhớ nhớ, quên quên cũng hơi nhiều, nay xin được cùng quý bạn, đọc lại một bài thơ xưa, cách nay 57 năm...

Bài thơ

Giã vợ đi làm quan 
                         Phan Thanh Giản

Từ thuở vương xe mối chỉ hồng,
Lòng nầy ghi tạc có non sông.
Đường mây cười tớ ham dong ruổi,
Trướng liễu thương ai chịu lạnh lùng.
Ơn nước, nợ trai đành lỗi bậu,
Cha già nhà khó cậy nhau cùng.
Mấy lời dặn nhủ khi lâm biệt,
Rằng nhớ, rằng quên, lòng hỡi lòng.

Bản  chữ Nôm (Ngân Triều Hậu Nghĩa soạn)
 啫   婦   𠫾   濫            
                             
 課  𥿁  𦀺  䋦   𥿗  
𢙱   尼  記  昨   固   𡽫  
塘   𩄲    伵     搈  𨇒
  栁  傷   𠹾    𨉓
     𤳆     
  𦓅    𢚁   
         
       𢙱   𢙱

Bài thơ trên được sáng tác trong lúc từ giã vợ, chuẩn bị lên đường ra kinh kỳ làm quan, (Có thể được sáng tác vào năm 1826, lúc Phan Thanh Giản 30 tuổi), biểu đạt lời từ giã ân tình với vợ trước lúc ra đi và nỗi lòng của tác giả.
Sơ lược tiểu sử cụ Phan Thanh Giản (1796-1867)

Cụ Phan Thanh Giản      , (1796  1867)


Hình chụp tại Paris năm 1863
nhân dịp ông dẫn đầu sứ bộ sang Pháp, xin chuộc lại ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ
Phan Thanh Giản 潘清簡; 1796 - 1867), tự Tĩnh Bá 靖  伯 , Đạm Như (淡如), hiệu Lương Khê  梁   谿;, biệt hiệu Mai Xuyên  梅   川  là một danh sĩ, một đại thần triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam.
Thân thế và sự nghiệp
Phan Thanh Giản xuất thân trong một gia đình nghèo khổ. Tương truyền tổ phụ Phan Thanh Giản là Phan Thanh Tập, hiệu Ngẫu Cừ, sống thời nhà Minh[1]. Sau khi nhà Minh bị nhà Mãn Thanh tiêu diệt, Phan Thanh Tập di cư sang phủ Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định (Việt Nam). Nơi đây ông cưới vợ tên Huỳnh Thị Học, sinh được một trai tên là Phan Thanh Ngạn tục gọi là Xán.
Năm 1771, gia đình ông Ngạn vào Nam tạm cư ở Thang Trông, thuộc tỉnh Định Tường Sau dó lại dời về Mân Thít, trấn Vĩnh Thanh (thuộc Vĩnh Long ngày nay), rồi lại dời về ở huyện Bảo An, phủ Hoằng Trị, cũng thuộc tỉnh Vĩnh Long. Cuối cùng ông Ngạn đến lập nghiệp tại thôn An Hòa, làng Tân Thạnh, huyện Vĩnh Bình, phủ Định Viễn, trấn Vĩnh Thạnh (nay là xã Bảo Thạnh, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre).
Ở đây, ông cưới người vợ tên Lâm Thị Bút. Ngày 11 tháng 11 năm 1796, bà hạ sinh được một trai tên Phan Thanh Giản. Năm Phan Thanh Giản lên 7 (1802), thì mẹ qua đời, cha cưới người vợ nữa tên Trần Thị Dưỡng để có người chăm sóc con. Bà mẹ kế này rất thương yêu con chồng. Đến tuổi đi học, ông theo học với nhà sư Nguyễn Văn Noa ở chùa làng Phú Ngãi.
Năm 1815, vì sự cáo gian của kẻ có thù riêng với gia đình [2], cha Phan Thanh Giản lúc ấy đang làm Thủ hạp (một viên chức nhỏ), phải ngồi tù.
Nóng lòng vì cha bị hàm oan, ông đệ đơn lên Hiệp trấn Lương (không rõ họ) ở Vĩnh Long xin được thay cha vào tù. Cảm động trước tấm lòng hiếu thảo, viên quan này đã cho ông ở gần nơi cha bị giam cầm, để vừa trao giồi kinh sử, vừa có cơ hội thăm cha mỗi ngày [1]. Sau khi cha được mãn tù, nghe lời Hiệp trấn Lương, Phan Thanh Giản ở lại Vĩnh Long để tiếp tục học và chờ đợi khoa thi. Tại đây, ông gặp một người đàn bà nhân hậu tên Ân. Bà này đã giúp ông tiền và cơm, áo...để tiếp tục theo đuổi việc đèn sách.
Ra làm quan


Chân dung Cụ Phan Thanh Giản (Tranh truyền thần)
Năm 1825, ông đậu Cử nhân khoa Ất Dậu. Sau đó một năm, ông đậu Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ khoa Bính Tuất niên hiệu Minh Mạng thứ 7 (1826), vào năm 30 tuổi. Ông là người đậu Tiến sĩ khai khoa  (đầu tiên) ở Nam bộ.
Từ đấy, ông làm quan trải ba triều, là Minh MạngThiệu Trị và Tự Đức.
·         Dưới triều Minh Mạng, ông lần lượt giữ các chức vụ: Hàn lâm viện biên tu, Lang trung bộ Hình (1827), Tham hiệp tỉnh Quảng Bình (1828), Hiệp trấn tỉnh Quảng Nam (1828), Quyền nhiếp Tham hiệp tỉnh Nghệ An (1829), Lễ bộ tả thị lang và tham gia nội các (1830), Hàn lâm viện kiểm thảo sung Nội các hành tẩu và Hộ bộ viên ngoại lang (1832), Đại lý tự khanh sung Cơ mật viện đại thần (1834), Kinh lược trấn Tây (1835), Tuần phủ Quảng Nam (1836), Thống chánh sứ và Phó sứ rồi Hộ bộ thị lang (1839). Dưới triều Minh Mạng, ông đã ba lần bị giáng chức, trong đó có lần ông phải làm "Lục phẩm thuộc viên", tức giữ việc quét dọn, sắp đặt bàn ghế ở chốn công đường (1836).
·         Dưới triều Thiệu Trị, ông làm Phó chủ khảo trường thi Thừa Thiên (1840), Phó Đô ngự sử Đô sát viện (1847).
·         Dưới triều Tự Đức, ông phụ trách giảng dạy và điều khiển trường Kinh Diên, Thượng thư bộ Lại, sung Cơ mật viện đại thần (1849). Năm 1850, ông được cử vào trấn nhậm miền Tây Nam Kỳ cùng với tướng Nguyễn Tri Phương. Sau đó, được phong làm Kinh lược sứ Nam Kỳ.
·         Ông được vua Tự Đức giao làm Tổng tài Quốc sử quán coi việc biên soạn bộ Khâm định Việt sử Thông giám cương mục phụ tá có một Phó Tổng tài, 6 Toản tu góp tài liệu, viết lên, 6 Khảo hiệu xét lại và 6 Đằng tả viết chữ ngay ngắn. Sách soạn trong 3 năm 1856-1859, dâng lên Tự Đức coi lại các lần 1871, 1872, 1876, 1878 và có lời phê bên trên.




Cụ Phan Thanh Giản1796 - 1867
(Ảnh chụp năm 1863, lúc đi sứ,sang Pháp)
Thương nghị với người Pháp
Năm 1858, liên quân Pháp-Tây Ban Nha đổ bộ và tấn công tại cửa biển Đà Nẵng rồi lần lượt đánh chiếm các tỉnh miền Đông Nam Kỳ. Ông Phan Thanh Giản với vai trò là Chánh sứ và Lâm Duy Hiệp là Phó sứ được cử đi điều đình với Pháp, sau đó đại diện cho triều đình Tự Đức ký kết hiệp ước hòa bình và hữu nghị Hòa ước Nhâm Tuất ngày 5 tháng 6 năm 1862 tạiSài Gòn.
Hiệp ước gồm 12 khoản, theo đó, ba tỉnh Biên HòaGia ĐịnhĐịnh Tường và đảo Côn Lôn (Côn Đảo) được nhượng cho Pháp (Khoản 3 Hiệp ước); triều đình phải trả cho Pháp và Tây Ban Nha một khoản bồi thường chiến phí là 4 triệu piastres trong 10 năm, mỗi năm 400.000 đồng (quy ra bạc là 288 nghìn lạng-Khoản 8 hiệp ước); đổi lại, người Pháp sẽ trả lại tỉnh Vĩnh Long cho triều đình Huế, nhưng kèm theo điều kiện là triều đình phải có biện pháp chấm dứt các cuộc khởi nghĩa chống lại người Pháp ở các tỉnh (Khoản 11 hiệp ước). Do hành động này mà dân gian có câu truyền "Phan Lâm mãi quốc, triều đình thí dân" (Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp bán nước; triều đình bỏ dân chúng). Theo nhà sử học Phan Huy Lê, nguồn gốc và xuất xứ của câu này chưa được làm rõ, theo ông câu này không thấy ghi chép lại trong những tác phẩm viết về Trương Định của những tác giả đương thời, như Nguyễn Thông.


Khu mộ Cụ Phan Thanh Giản
Tuy việc thương nghị với Pháp, vua Tự Đức có cho ông tùy nghi tình thế mà định đoạt nhưng về việc cắt đất, nhà vua có căn dặn Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp ráng sức chuộc lại ba tỉnh với giá 1.300 vạn lạng, còn nếu phía Pháp đòi cắt đất luôn thì kiên quyết không nghe, nhưng Phan Thanh Giản đã phải cắt đất lại còn bồi thường chiến phí. Do đó mà hai ông khi trở về đã bị quở trách nặng nề [3].
Việc chuộc ba tỉnh không thành, Phan Thanh Giản bị cách lưu làm Tổng đốc Vĩnh Long, nhưng rồi lại được cử làm Chánh sứ (Phó sứ là Phạm Phú Thứ và Ngụy Khắc Đản) sang nướcPháp để điều đình một lần nữa về việc chuộc lại ba tỉnh miền Đông (1863), nhưng cũng không đạt được kết quả. Năm 1865, ông được phục chức Hiệp biện đại học sĩ, Hộ Bộ thượng thư, sung Kinh lược sứ ba tỉnh miền Tây (Vĩnh Long, An GiangHà Tiên) và được tha tội cách lưu.
Ngày 20 tháng 6 năm 1867, Pháp đánh chiếm Vĩnh Long (vốn đã được trao trả triều đình Huế ngày 25tháng 5 năm 1863), yêu cầu ông gửi mật thư cho thủ thành An Giang và Hà Tiên buông súng đầu hàng. Trước sức mạnh áp đảo của Pháp về mặt quân sự, biết thế không thể giữ nổi, để tránh đổ máu vô ích, Phan Thanh Giản đã quyết định trao thành, không kháng cự, với yêu cầu người Pháp phải bảo đảm an toàn cho dân chúng. Thế là chỉ trong 5 ngày (20-24 tháng 6 năm 1867), Pháp chiếm gọn ba tỉnh miền Tây không tốn một viên đạn. Sau khi thành mất ông tuyệt thực suốt 17 ngày, rồi uống thuốc độc tự tử vào ngày 4 tháng 8 năm 1867, hưởng thọ 72 tuổi.
Đền thờ Phan Thanh Giản hiện ở ấp Thạnh Nghĩa, xã Bảo Thạnh, huyện Ba TriBến Tre. Và từ rất lâu, nhân dân ở vùng núi Ba Thê, thuộc huyện Thoại Sơn tỉnh An Giang vẫn coi ông là một vị thầnThành Hoàng. Ngoài ra ông còn được thờ tại Văn Thánh Miếu Vĩnh Long
Nhận định về Phan Thanh Giản

Mộ Cụ Phan Thanh Giản
Phan Thanh Giản được nhiều người kính trọng vì tính cương trực, khẳng khái, hiếu nghĩa, thanh liêm[4]. Tuy nhiên, trong cơn nước biến, thái độ ôn hòa của ông khiến không ít người đã phàn nàn. Tháng 11 năm 1868, vì làm mất Nam Kỳ, triều đình Huế đã xử ông án "trảm quyết" (nhưng vì chết nên được miễn), lột hết chức tước và cho đục bỏ tên ông ở bia tiến sĩ. Mãi đến 19 năm sau (1886) ông mới được vua Đồng Khánh khôi phục nguyên hàm Hiệp tá đại học sĩ và cho khắc lại tên ở bia tiến sĩ.[5].
Ngược lại, cũng có nhiều trí thức đương thời đã tỏ lòng thông cảm cho ông. Như Nguyễn Thông đã từng dâng sớ lên vua Tự Đức để giải bày nỗi oan cho ông. Và nhà thơ đương thời Nguyễn Đình Chiểu cũng đã tỏ thái độ thương tiếc, trân trọng ông qua bài thơ điếu:
Minh tinh chín chữ lòng son tạc,
Trời đất từ nay bặt gió thu.
Trong bài "Văn tế lục tỉnh sĩ dân trận vong", một lần nữa Nguyễn Đình Chiểu lại nêu cao tinh thần yêu nước của Phan Thanh Giản:
Ý  người đặng xem tấm bản phong trần, Phan học sĩ hết lòng cứu nước.
Hai con trai của ông, Phan Tôn (1837 - 1893), Phan Liêm (1833 - 1896), nổi lên chống Pháp tại tỉnhVĩnh Long.
Một sĩ quan Pháp là Reunier, người đã từng tham gia chiến tranh ở Trung Quốc và Nam Kỳ, đã nhận xét về ông như sau:
Sống trong 4 tháng gần vị lão thành cao thượng ấy, chúng tôi có thể đánh giá các đức tính của ông ta...trong thời gian vượt biển này (chuyến đi sứ sang Pháp) ông không ngớt được khuyến khích bởi lòng nhiệt thành ái quốc của ông, và thúc đẩy bởi nguyện vọng thực hiện được công chuyện hữu ích cho nước nhà...[6]
Năm 1963, hành động giao nộp ba tỉnh miền Tây, được Trần Huy Liệu đem ra bàn luận, và đã kết tội ông là kẻ "bán nước" [7].
Sau 1975, nhiều đường phố ở miền Nam Việt Nam mang tên Phan Thanh Giản đã bị đổi thành tên khác[8][9].
Cho tới những ngày đầu năm 2008Viện Sử học Việt Nam mới thống nhất kết luận rằng :
"Phan Thanh Giản là người nổi tiếng về đạo đức, có nhiều đóng góp trong lịch sử dân tộc; nên đề nghị tôn vinh ông, cho khôi phục, tôn tạo những di tích và những gì gắn liền với ông";
và  nhận định nầy đã được các giới có thẩm quyền chấp thuận...[10]
Trong sách Đi & ghi nhớ của Sơn Nam (xuất bản năm 2008), một lần nữa, nhân vật lịch sử Phan Thanh Giản lại được đề cập trong một đoạn viết như sau:
Hồi xưa, lúc còn nhỏ, tôi (lời thuật của một giáo viên lớn tuổi đi cùng với Sơn Nam) được dạy cẩn thận, khi đi ngang qua miếu Văn Thánh, học trò phải giở nón, cúi đầu để chào ông Phan. Chào ông Phan, (được xem như) là lời thề rửa hận cho ông,  chớ không phải để bắt chước ông...
Người có công nghiên cứu về Phan Thanh Giản là Lê Thọ Xuân, đăng báo Đồng Nai đâu từ năm 1931...với những chi tiết thú vị. Tuy làm quan to nhưng ông tự xem mình như người dân thường ở nông thôn, đối xử như người bình dân, không bao giờ phô trương quyền lực.
Xin đề nghị: Trong chương trình Sử học cho học sinh, nên có một bài nói về ông, đủ lý đủ tình...Ông đã để lại cho đời sau một chút gì khó quên, khó xóa nhòa, gọi là tâm linh, phóng khoáng, thơ mộng. [11]
Tác phẩm
         * Phan Thanh Giản là một nhà văn lớn với nhiều tác phẩm giá trị.
·         Lương Khê thi thảo
·         Lương Khê văn thảo
·         Sứ Thanh thi tập
·         Tây phù nhật kí
·         Ước Phu thi tập
·         Tích Ung canh ca hội tập
·         Sứ trình thi tập
·         Việt sử thông giám cương mục (Chủ biên)
·         Minh Mạng chính yếu (Chủ biên).
·         Thoái thực ký văn  退   食   記   聞
·         Giá viên thi văn tập  蔗   園   詩  文   集
·         Tây phù thi thảo  西   浮   詩   草   (sáng tác lúc đi sứ sang Pháp)

Đền thờ Cụ Phan Thanh Giản tại Bảo Thạnh.
Tượng Phan Thanh Giản trong đền thờ ông ở Bảo Thạnh.
Cửa Hữu thành Long Hồ (phục dựng để kỷ niệm).


Đình Thần Cụ Phan Thanh Giản tại chân núi Ba Thê.
Chú thích
1.       a b Phan Thanh Giản (1796 – 1867). Trang chủ chính thức tỉnh Vĩnh Long. Truy cập ngày 6 tháng 3, năm 2008.
2.       ^ Theo GS. Trịnh Vân Thanh, sách dẫn bên dưới. Còn website tỉnh Vĩnh Long thì cho biết: "Phan Thanh Ngạn, đang làm thủ hiệu Phòng Công chánh Vĩnh Long bị lỗi vì chuyện thuế má phải chịu một năm tù" [1].
3.       ^ Tập san Sử Địa, số chuyên khảo về Phan Thanh Giản, tr 91
4.       ^ Năm 1852, Phan Thanh Giản được vua Tự Đức ban thưởng một tấm kim khánh trên khắc 4 chữ: "Liêm, Bình, Cần, Cán"
5.       ^ Theo Đại Nam thực lục, t.37, Hà Nội 1997, tr.223, 225.
6.       ^ Tập san Sử Địa số 7-8 Đặc khảo về Phan Thanh Giản tr26.
7.       ^ Trần Huy Liệu: Chúng ta đã nhất trí về việc nhận định Phan Thanh Giản. Tạp chí Nghiên cứu Lịch sửsố 55, tháng 10 năm 1963, tr. 18-19. (!)
8.       ^ Tường Chân (1 tháng 5 năm 2005). “Xuân thanh bình đầu tiên và mãi mãi”. Báo Tuổi Trẻ. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2009.
9.       ^ “Con Đường Cổ Thụ”. Việt Báo. 27 tháng 1 năm 2003. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2009.
10.    ^ Xem thêm
11.    ^ Sơn Nam, Đi & ghi nhớ, Tạp chí Xưa & Nay – Nxb Văn hóa Sài Gòn, 2008, tr. 152-153.
Sách tham khảo
·         GS. Trịnh Vân Thanh, Thành ngữ điển tích danh nhân từ điển(tập 2). Nxb. Hồn thiêng, Sài Gòn, 1966.
·         Nguyễn Huệ Chi, trong Từ điển văn học (bộ mới). Nxb. Thế giới, 2004.

Lời bình: Ngân Triều Hậu Nghĩa

Mở đầu, xin mời cùng đọc lại hai câu đề: (Hồi tưởng và tỏ lòng)
Từ thuở vương xe mối chỉ hồng,
Lòng nầy ghi tạc có non sông.
    𥿁  𦀺    𥿗  
𢙱         𡽫  
                                 “Hồi tưởng” là nhớ lại những sự việc đã qua. “Mối chỉ hồng” là duyên nợ vợ chồng đã được định trước bởi Ông Tơ xe duyên ,(Nguyệt Lão), hay chuyện xích thằng (sợi chỉ hồng):
Chuyện xích thằng  赤繩傳là chuyện sợi chỉ đỏ mà “nguyệt hạ lão nhân       ,   ông già dưới trăng, xe duyên cho các cặp trai gái trên thế gian đẹp duyên giai ngẫu, thành vợ, thành chồng.
Tích Vi Cố đời Đường (618-907), một nho sinh tài hoa lỗi lạc.  Nhân đi dạo trong một đêm trăng sáng, chàng gặp một ông già đang xe những sợi chỉ đỏ, bỏ vào trong một quyển sách thật to.  Thấy lạ, chàng liền lễ phép hỏi cớ sự, mới biết ông lão là một vi thần định trước nhân duyên cho trai gái ở thế gian… Thật sững sờ khi biết mình sẽ có một người vợ, hiện là con gái của lão ăn mày mù dưới chợ. Một bé gái, khoảng 3 tuổi xấu xí, dơ bẩn, rách rưới, đang ngồi khóc vì đói rét ở một góc chợ hôi hám.  Bất nhẫn sinh ác, chàng liền thuê bọn côn đồ thủ tiêu bé gái…những mong thoát khỏi thiên cơ…và có tiền việc đó xong ngay…
Mười lăm năm sau, Vi Cố mới đỗ Thám Hoa, được một người vợ trẻ đẹp như tiên nga, ái nữ của một vị quan to... Một hôm, tan chầu về nhà, vợ đang gội đầu, chàng đến giúp thì thấy trên đầu vợ, ẩn sau mớ tóc đen tuyền, bóng mượt, có một cái sẹo to…Lời thuật lại của vợ làm Vi Cố vỡ lẽ.  Người vợ, cô bé xấu xí ngày xưa, do ông nguyệt lão xe tơ, chàng đã cho thủ tiêu hòng cải lại “duyên thiên”… và người vợ hiện thời, chỉ là một... Mới biết chuyện gì, trời đã định thì không bao giờ thoát khỏi.
 “Ghi tạc” :Ghi  là lưu giữ một nội dung, một kỷ niệm nào đó bằng dấu hiệu, cách riêng hay chữ viết. Tạc: tạo ra một hình dạng  ba chiều hình khối thẩm mỹ. Ghi tạc là khắc sâu trong tâm trí, mãi mãi không bao giờ quên. “Non sông”, núi và sông, tiêu biểu cho mối tình bền vững như núi, dài như sông,.
Hai câu đề ý nói : 
“Nhớ lại chuyện đôi ta đã thành duyên giai ngẫu, chuyện hôn nhân tất định đó,lòng nầy xin ghi tạc mãi mãi cùng non sông ”.
Sang 4 câu thực-luận: ( Những lý do phải xa nhau, thương người ở lại và dặn nhủ)
Đường mây cười tớ ham dong ruổi,
Trướng liễu thương ai chịu lạnh lùng.
Ơn nước, nợ trai đành lỗi bậu,
Cha già nhà khó cậy nhau cùng.
  𩄲          𨇒
        𠹾    𨉓
      𤳆         ()
  𦓅      𢚁     
“Đường mây” chuyển nghĩa chữ Hán là “vân lộ”, chỉ đường làm quan, khởi đầu từ việc thi đỗ . (Thời phong kiến, kẻ sĩ phải thi đỗTiến sĩ hoặc Cử nhân mới được ra làm quan).  “dong ruổi” hay rong ruổi là mãi đi trên con đường dài nhằm mục đích nhấtb định. “Trướng liễu”, bức màn che cửa phòng người con gái ngày xưa ,(liễu, cây liễu, chỉ người phụ nữ) hoặc bức màn có thêu hoặc vẽ hình cây liễu. Phải chăng tác giả đã thay lời cho vợ mình, vợ chồng còn trẻ ...mà phải cách xa. Như trong bài “Khuê oán”      của Vương Xương Linh ( ? – 756?)  王 昌 齡  có câu:
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc
Hối giao phu tế mịch phong hầu
                        
            婿            
“Chợt thấy đầu đường màu dương liễu xanh tốt,
Tiếc đã khuyên chồng đi lập công danh để được phong tước hầu”
Dịch thơ:
“Lúc ngoảnh lại ngắm màu dương liễu,
Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong”
(CPNK – Đoàn Thị Điểm: câu 297-298)
Nợ trai” Chữ Hán là “nam nhi trái”     “cái nợ của người con trai ở đời” do tích ngày xưa bên Tàu,mỗi khi sinh con trai, phải dùng cây cung bằng nhánh cây dâu, lấy 6 cộng cỏ bồng làm tên bắn đi 6 hướng, cầu mong cho đứa bé khi lớn lên có chí vẫy vùng, tung hoành ngang dọc của người con trai thời phong kiến. Nguyên văn: “Tang bồng hồ thỉ nam nhi trái” (            )
“Bậu”( ) , phương ngữ, lời xưng hô thân mật của chồng gọi vợ hoặc người con trai gọi người con gái. Người con trai tự xưng mình là “qua”  ()
Ví dầu bậu()đó qua ()đây,
 Chẳng cho qua lại một giây giải sầu
(Ca dao Nam Bộ)
Hay là:
Ví dầu tình bậu muốn thôi,
Bậu gieo tiếng dữ, cho rồi bậu ra.
Ca dao Nam Bộ
Nàng đừng cười ta mải miết theo đường công danh.  Ta vẫn thương nàng phải chịu lạnh lùng, phòng loan lẻ bóng.  Vì phải đáp đền ơn nước, phải trả nợ với núi sông, nợ trai, đành phải lỗi hẹn với nàng.
Xin nàng hãy phụng dưỡng phụ thân (cha già), và gia cảnh bần hàn, ta xin nhờ nàng giúp đỡ thay ta vậy, (cậy nhau cùng).
Cặp thực- luận đối nhau thật hoàn chỉnh, ý thơ rất chân thực, thiết tha, hàm súc.  Một câu nói về mình, một câu nói về người vợ, cụ bà khi ấy,chắc là rất đẹp, rất tần tảo, đảm đang.
Việc phải ra đi theo lệnh vua truyền, quả là một việc chẳng đặng đừng:
“Sứ trời sớm giục đường mây,
Phép công là trọng, niềm tây sá nào!”
(CPNK – Đoàn Thị Điểm – câu 11,12)
Vậy nàng hãy thông cảm cho ta!
Hai câu kết: Nỗi lòng tác giả
Mấy lời dặn nhủ khi lâm biệt,
Rằng nhớ, rằng quên, lòng hỡi lòng!
             
         𢙱     𢙱
“Dặn nhủ”,  nói lên những điều cần thiết để làm theo bằng một thái độ ân cần, tha thiết
“Lâm biệt” ,    là sắp sửa rời xa nhau, có nghĩa như lâm hành    :
Thuở " lâm hành" oanh chưa bén liễu,
Hỏi ngày về ước nẻo quyên ca.
Nay quyên đã giục oanh già,
Ý nhi lại gáy trước nhà líu lo. 
(CPNK – Đoàn Thị Điểm, câu 125-128)
Thôi thì ta ra đi, nàng ở lại nhà. Những lời"dặn nhủ", xin nàng chớ quên. Người ra đi tuy tỏ ra rất khẳng khái nhưng người đọc cảm thấy có chút gì đó rất lưu luyến và ân tình rất mực đối với người ở lại. "Lòng nầy"ở câu 2 (tác giả) và "lòng hỡi lòng", câu cuối (người vợ hiền), chứa chan những tình cảm đằm thắm trong tình nghĩa vợ chồng.
*Nói về mình không phải dễ, nhưng Cụ Phan Thanh Giản đã thể hiện những sâu kín của lòng mình. Những lời thơ đời thường, gợi tả  như thế, thật là những lời lẽ của một nhân cách đôn hậu, ân tình.

Ngân Triều Hậu Nghĩa