Ngoùng
Gioù Ñoâng
Nguyễn Đình Chiểu
Hoa cỏ bùi ngùi ngóng gió Đông,
Chúa Xuân đâu hỡi, có hay không?
Mây giăng ải Bắc trông tin nhạn,
Ngày xế non Nam bặt tiếng hồng.
Bờ cõi xưa đà chia đất khác,
Nắng sương nay há đội trời chung.
Chừng nào Thánh Đế ân soi thấu,
Một trận mưa nhuần rửa núi sông
*
Bản Hán Nôm, Ngân Triều soạn
顒𩙋東 阮廷沼
花𦹵裴𠿯顒𩙋東
主春兠唉固咍空
𩄲𢬥隘北𥉩信雁
𣈗㫼𡽫南弼㗂鴻
坡𡎝𠸗拖𢺹坦恪
𣌝霜𠉞𧯶隊𡗶終
澄閙聖帝恩𤐝透
沒陣𩄎潤𤀗𡶀滝
*
Tiểu sử cụ Nguyễn Đình Chiểu
阮 廷 沼 (1822 -1888)
Tranh Cụ Nguyễn Đình Chiểu (1822 -1888) Nguyễn
Đình Chiểu 阮 廷 沼 (1822 - 1888) là một nhà thơ, nhà văn hóa cận đại của Việt Nam. Nguyễn Đình Chiểu 阮 廷 沼 tự Mạnh Trạch 孟 擇, hiệu Trọng Phủ 仲 甫, (sau khi mù, lấy hiệu là Hối Trai 晦 齋), sinh ngày 1 tháng 7 năm 1822, tại làng Tân
Khánh[1],
phủ Tân Bình, huyện Bình Dương, tỉnh Gia
Định (thuộc Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay), là một nhà thơ lớn của miền
Nam Việt Nam trong
nửa cuối thế kỷ 19.[2]
[1]-Thân
thế và sự nghiệp Nguyễn
Đình Chiểu sinh ngày 13 tháng 5 năm Nhâm Ngọ (1 tháng 7 năm 1822) tại quê mẹ là làng Tân Thới,[3] phủ Tân Bình, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định (nay thuộc phường Cầu Kho, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh). Ông
xuất thân trong gia đình nhà Nho. Cha ông là Nguyễn Đình Huy, người làng Bồ Điền, xã Phong An,[4] huyện Phong Điền, tỉnh Thừa
Thiên; nay
thuộc huyện Phong Điền, tỉnh Thừa
Thiên Huế. Lớn
lên, ông Huy cưới vợ ở đây và đã có hai con (một trai và một gái). Mùa hạ tháng 5 năm Canh Thìn (1820) Tả quân Lê Văn
Duyệt được
triều đình Huế phái vào làm Tổng trấn Gia Định
Thành. Đến
đầu mùa thu, Nguyễn Đình Huy đi theo Tả quân để tiếp tục làm
thư lại ở Văn hàn ty thuộc dinh Tổng trấn. Ở Gia Định, ông Huy có thêm người vợ thứ là bà Trương Thị Thiệt, người làng Tân
Thới, sinh ra bảy con (4 trai, 3 gái) và Nguyễn Đình Chiểu chính là con đầu
lòng. [2]-
Đi học Thuở
bé, Nguyễn Đình Chiểu được mẹ nuôi dạy. Năm lên 6, 7 tuổi, ông theo học với một
ông thầy đồ ở làng. Năm 1832, Tả quân Lê Văn
Duyệt mất.
Năm sau (1833), con nuôi Tả quân là Lê Văn
Khôi, vì bất
mãn đã làm cuộc nổi dậy chiếm thành Phiên An ở Gia Định, rồi chiếm cả Nam Kỳ. Trong cơn binh biến, cha của Nguyễn Đình Chiểu bỏ trốn ra Huế nên bị cách hết chức tước. Xong vì thương con, cha ông lén trở
vào Nam, đem con ra gửi cho một người bạn đang làm Thái phó ở Huế để tiếp tục việc học. Nguyễn Đình Chiểu sống ở Huế từ 11 tuổi (1833) đến 18 tuổi (1840) thì trở về Gia Định. Năm Quý Mão (1843), ông đỗ Tú tài ở trường thi Gia Định lúc 21 tuổi. Khi ấy có một nhà họ Võ hứa gả
con gái cho ông. Năm 1847, ông ra Huế học để chờ khoa thi năm Kỷ Dậu (1849).[5] Lần
này ông cùng đi với em trai là Nguyễn Đình Tựu (10 tuổi). [3]-
Mẹ mất, bị mù lòa Ngày
rằm tháng
11 năm Mậu Thân (31 tháng 12 năm 1848), mẹ Nguyễn Đình Chiểu mất ở Gia Định. Được tin, ông bỏ thi, dẫn em theo đường bộ trở về Nam chịu tang mẹ. Trên
đường trở về, vì quá thương khóc mẹ, vì vất vả và thời tiết thất thường nên đến Quảng Nam thì Nguyễn Đình Chiểu bị ốm nặng. Trong thời gian nghỉ chữa bệnh ở
nhà một thầy thuốc vốn dòng dõi Ngự y, tuy bệnh không hết nhưng ông cũng đã học
được nghề thuốc. Lâm cảnh mù mắt, hôn thê bội ước, cửa nhà sa sút... Nguyễn
Đình Chiểu đóng cửa chịu tang mẹ cho đến năm 1851 thì mở trường dạy học và làm thuốc ở Bình Vi (Gia Định). Truyện thơ Lục
Vân Tiên của
ông có lẽ được bắt đầu sáng tác vào thời gian này.[6]
Năm 1854, Nguyễn Đình Chiểu cưới Lê Thị Điền (1835-1886), người làng Thanh Ba, huyện Cần Giuộc; trước thuộc Gia Định, nay thuộc tỉnh Long An làm vợ. Bà Điền là em gái thứ năm của Lê Tăng Quýnh, học trò ông, vì cảm
phục và mến thương thầy đã xin gia đình tác hợp. Truyện thơ Dương Từ-Hà
Mậu của ông có lẽ được bắt đầu sáng tác vào thời gian này.[7] [4]-
Dạy học, làm thuốc và sáng tác thơ văn yêu nước Năm 1858, quân Pháp nổ súng vào Đà Nẵng. Vấp phải sự kháng cự quyết liệt của quân và dân Việt, quân Pháp vào
Nam đánh phá thành Gia Định vào đầu năm 1859. Sau khi tòa thành này thất thủ (17 tháng 2 năm 1859), Nguyễn Đình Chiểu đưa gia đình về sống ở Thanh Ba (Cần Giuộc), tức quê vợ ông. Vô cùng đau đớn trước thảm cảnh
mà quân Pháp đã gây nên cho đồng bào, và rất thất vọng về sự hèn yếu, bất lực
của triều đình, ông làm bài thơ "Chạy giặc".[8] Đêm rằm tháng
11 năm Tân Dậu (16 tháng
12 năm 1861),[9] những
nghĩa sĩ mà trước đây vốn là nông dân, vì quá căm phẫn kẻ ngoại xâm, đã quả cảm
tập kích đồn Pháp ở Cần Giuộc, tiêu diệt được một số quân của đối phương và
viên tri huyện người
Việt đang
làm cộng sự cho Pháp. Khoảng mười lăm nghĩa sĩ bỏ mình.[10] Những
tấm gương đó đã gây nên niềm xúc động lớn trong nhân dân. Theo yêu cầu của Tuần
phủ Gia Định là Đỗ Quang, Nguyễn Đình Chiểu làm bài "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc", để đọc tại buổi truy điệu các nghĩa sĩ đã hy sinh trong trận
đánh này. Sau Hòa ước Nhâm Tuất 1862, ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ mất về tay Pháp, theo phong trào "tỵ địa",[11] Nguyễn
Đình Chiểu cùng gia đình rời Thanh Ba (Cần Giuộc) về Ba Tri[12]
(Bến Tre) vì không thể sống chung với họ. Chia tay với bạn
bè thân quen, ông làm bài thơ "Từ biệt cố nhân". Về Ba Tri, ông tiếp tục dạy học, làm thuốc và đem ngòi bút yêu nước của mình ra
phục vụ cuộc đấu tranh anh dũng của đồng bào Nam Kỳ suốt trong hơn 20 năm, dù đã mù lòa[13]. Năm 1863, em trai út ông là Nguyễn Đình Huân theo Đốc binh chống Pháp, hy sinh ở Cần Giuộc. Tháng 8 năm 1864, thủ lĩnh cuộc kháng chiến chống Pháp ở Gò Công là Trương
Định bị
thương rồi tuẫn tiết ở Ao Dinh; xúc động, Nguyễn Đình Chiểu làm bài văn tế và
mười hai bài thơ liên hoàn để điếu. Năm 1867, Kinh lược sứ Phan
Thanh Giản và Đốc học Vĩnh Long Nguyễn
Thông tổ
chức đưa di hài nhà giáo Võ Trường
Toản từ
làng Hòa Hưng (Gia Định) về táng ở Bảo Thạnh (Ba Tri), Nguyễn Đình Chiểu có đến dự lễ rước. Ngày
4 tháng 8 năm đó (1867), Phan
Thanh Giản tuẫn tiết vì không giữ được thành Vĩnh Long, Nguyễn Đình Chiểu có
làm hai bài thơ điếu. Có thể ông bắt đầu soạn quyển thơ Ngư Tiều vấn đáp
nho y diễn ca trong năm này. Năm 1868, thủ lĩnh kháng Pháp ở Ba Tri là Phan Tòng (còn có tên là Phan
Ngọc Tòng) hy
sinh, ông làm 10 bài thơ điếu. Năm 1877, Nguyễn Đình Chiểu dời đến ở làng An Bình Đông (sau đổi là An Đức)
cách chợ Ba Tri khoảng hai cây số.[14]
Năm 1883, Tỉnh trưởng Bến Tre là Michel Ponchon đã đến nhà để yêu cầu ông nhuận chính quyển
thơ Lục
Vân Tiên, đồng
thời ngỏ ý trao trả lại ruộng vườn của ông mà họ đã chiếm đoạt[15] Ông
khẳng khái nói: "Đất vua không ai trả thì đất riêng của tôi có sá
gì", rồi khước từ mọi hứa hẹn giúp đỡ của chính quyền thực dân. Lại hỏi
ý muốn riêng của ông, ông đáp "muốn tế vong hồn nghĩa sĩ Lục tỉnh",
và được viên Tỉnh trưởng chấp thuận. Sau đó, ông tổ chức lễ tế tại chợ Ba
Tri, và đọc bài "Văn tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh"[16]. [5]-
Qua đời Năm 1886, vợ ông là bà Lê Thị Điền qua đời lúc 51 tuổi. Buồn rầu vì vợ mất, vì
cảnh nước mất nhà tan đã bấy lâu, vì bệnh tật ngày càng trầm trọng,[17] hai
năm sau, ngày 24 tháng 5 năm Mậu Tý (3 tháng 7 năm 1888), Nguyễn Đình Chiểu cũng qua đời tại Ba Tri, thọ 66 tuổi. Ngày 3 tháng 7 năm 1888, ông mất tại Ba Tri, Bến
Tre. Người
ta kể lại rằng ngày đưa đi an táng, cả cánh đồng An Bình Đông, nay là An Đức,
trắng xóa khăn tang của những người mến mộ ông[18]. Ông được an táng cạnh mộ vợ, nay
thuộc ấp 3, xã An Đức, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre[19].
[6]- Tác phẩm chính ●
Lục Vân Tiên (truyện thơ Nôm, bắt đầu soạn khoảng 1851), gồm 2.082 câu thơ lục bát. Đây là một "bản trường ca ca ngợi chính nghĩa, những đạo đức
đáng quý đáng trọng ở đời" đã làm nên tên tuổi Nguyễn Đình Chiểu,[20] và
là một tác phẩm lớn của văn học Việt Nam, được nhân dân, đặc biệt là nhân dân Nam Bộ yêu chuộng.[21].
Sau thời gian phổ biến theo lối truyền miệng, truyện Lục Vân Tiên đã được Duy
Minh Thị (tên thật là Trần Quang Quang ở Chợ Lớn) khắc in lần đầu ở Trung Quốc trước năm 1864, và đã được các nhà văn như Aubaret, Abel de Michels, Bajot... dịch ra
tiếng nước ngoài.[22]
● Dương Từ – Hà Mậu (truyện thơ Nôm, bắt đầu soạn khoảng 1854). Căn cứ bản Tân Việt (Sài Gòn, 1964) do Phan
Văn Hùm sao
lục và hiệu đính, thì tập thơ gồm 3.456 câu, trong đó phần lớn là thơ lục
bát, có xen thơ luật
Đường (33
bài) và các thể khác..[23]. Tác
giả mượn câu chuyện này để nói lên thái độ của ông đối với đạo Phật và Công giáo Rôma mà ông không tán thành.[24] ● Ngư
Tiều vấn đáp nho y diễn ca (Ngư tiều y thuật vấn đáp, 1867?), gồm 3.642 câu, trong đó phần lớn là thơ lục bát, có xen 21 bài thơ
và một số bài thơ ca, phú… trích từ các sách thuốc Trung Quốc[25]. Đây là một quyển sách dạy nghề làm thuốc chữa
bệnh, viết dưới hình thức truyện thơ Nôm. Song giá trị chủ yếu ở việc tác giả
đã lồng tư tưởng yêu nước vào nội dung y thuật.[26]
Ngoài
ra, ông còn để lại khoảng 37 bài thơ và văn tế, trong số đó có nhiều bài nổi
tiếng như: ●
Văn tế nghĩa sĩ Cần
Giuộc (1861) ●Mười
hai bài thơ và bài văn tế Trương Định (1864) ●Mười
bài thơ điếu Phan Tòng (1868) ●
Văn tế nghĩa sĩ trận vong lục tỉnh (1874) ●
Hịch kêu gọi nghĩa binh đánh Tây (chưa xác định thời điểm sáng tác) ●
Hịch đánh chuột (chưa xác định thời điểm sáng tác). ● Tế Cần Giuộc sĩ dân trận vong văn (tức Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, 1861)
● Thơ điếu Đông các Đại học
sĩ Phan Thanh Giản (2 bài, 1867) ● Hịch kêu gọi nghĩa binh đánh Tây (chưa
xác định thời điểm sáng tác) ● Lục tỉnh sĩ dân trận vong văn (Văn tế
nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh, chưa biết đích xác thời điểm sáng tác)[27] ● Thảo thử hịch (Hịch đánh chuột, chưa
xác định thời điểm sáng tác)
● Ngóng gió Đông (chưa
xác định thời điểm sáng tác) ● Thà đui (chưa xác định thời điểm
sáng tác), v.v... ● Hịch kêu gọi nghĩa binh đánh Tây (chưa
xác định thời điểm sáng tác) ● Chạy giặc (chưa xác định thời điểm sáng
tác) [7]- Sự nghiệp văn chương Nguyễn
Đình Chiểu là một nhà nho tiết tháo, sống theo đạo nghĩa, tuy mang tật mù lòa và gặp lúc biến loạn nhưng vẫn giữ được phẩm
cách thanh cao. Ông không chỉ là người con có hiếu, người thầy thuốc mẫu mực
mà còn là một nhà thơ yêu nước, đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị. Ông
là nhà thơ có quan niệm văn chương nhất quán. Ông chủ
trương dùng văn chương biểu hiện đạo lý và chiến đấu cho sự nghiệp chính
nghĩa. Nói khác hơn, ông làm thơ là để "chở đạo, sửa đời và dạy người".[28] Vì
vậy, mỗi vần thơ của ông đều ngụ ý khen chê công bằng, rạch ròi, và đều bộc lộ
một tấm lòng thương dân yêu nước của ông. Sự
nghiệp văn chương của ông, có thể chia thành hai thời kỳ sáng tác: - Giai
đoạn đầu (những năm 50 của thế kỷ 19): Trong giai đoạn này, ông viết "Lục
Vân Tiên" và "Dương Từ-Hà Mậu". Có thể xem đây là thời
kỳ khẳng định tư tưởng nhân nghĩa, tư tưởng yêu nước yêu dân của ông. - Giai
đoạn sau bắt đầu từ ngày quân Pháp đến chiếm lấy Gia Định (1859) cho đến khi ông qua đời (1888): ngòi bút của ông ở giai đoạn này gắn bó mật thiết với cuộc sống của
người dân mất nước. Trong nhiều tác phẩm như "Chạy giặc",
"Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc", "Lục tỉnh sĩ dân trận vong"... ông đã lên án mạnh mẽ
quân Pháp xâm lược, phê phán triều đình nhu nhược, đồng thời ca ngợi tinh thần
nghĩa khí và những tấm gương chiến đấu anh dũng của nhân dân. Đây là giai đoạn phát triển cao và rực rỡ của sự nghiệp văn chương
Nguyễn Đình Chiểu.[29]
Dù
ở giai đoạn nào, trong các tác phẩm của ông nổi bật lên ba đặc điểm về nội
dung và hình thức, đó là: -
Ông thường dùng chữ Nôm, và bằng ngôn ngữ nghệ thuật bình dị, giàu sức gợi cảm khiến cho tác
phẩm của ông có sức thu hút mạnh mẽ người đọc, nhất là đối với nhân dân miền Nam. -
Ông là nhà thơ đầu tiên xây dựng thành công hình ảnh những người nông dân trong văn học Việt, đấp xây, tô tượng đài vĩnh cửu về người anh
hùng Nam Bộ tiên phong trong công cuộc chống thực dân Pháp xâm lược. -
Ông đề cao tư tưởng Nho gia, xem ra có vẻ bảo thủ. Song điều đáng chú ý là các tư tưởng ấy mang nội
dung đạo nghĩa nhân dân, gắn chặt với ý thức trách nhiệm đối với vận mệnh của
đất nước, do đó có một ý nghĩa xã hội to lớn, khởi đầu cho một thời đại văn
chương sử thi mới sau này.[30]
So với các trước tác của các nhà văn cùng thời, Nguyễn Đình Chiểu đã có một thái độ tích cực hơn, vì
dân vì nước hơn. Tuy không đứng vào hàng ngũ cầm khí giới, nhưng ông rất có cảm
tình với họ, chia sẻ với họ cái hờn mất nước, lòng căm ghét quân địch và bọn
hợp tác với giặc...[31] [8]- Giai thoại Thực dân Pháp cho Tôn Thọ Tường là bạn của Đồ Chiểu đến dụ dỗ
ông. Đến mấy lần, nhưng lần nào đều bị Đồ Chiểu tìm cớ lánh mặt, sau Tường gửi
tặng hủ Mộ
Nguyễn Đình Chiểu (giữa),
mộ vợ ông (phải), phía trái là mộ Sương Nguyệt
Anh chỉ thấy một phần ngôi mộ, con gái thứ năm và hậu cảnh là đền thờ của ông mắm cá lóc, mà Tường nói rõ trong thư là chính tay của vợ
mình làm, để biếu bạn xưa. Sau khi ăn gần hết, Đồ Chiểu mới phát hiện ở dưới
đáy hũ có mấy nén vàng, ông vô cùng tức giận, viết thư trách Tôn Thọ Tường và sai người trả lại
vàng. Michel Ponchon, tỉnh trưởng tỉnh Bến Tre cũng đã mấy lần thân hành đến nhà Đồ Chiểu. Có lần lấy cớ nhờ nhuận
sắc bản Lục
Vân Tiên,
nhưng ông giả vờ điếc đặc. Có
lần viên quan này thông báo việc trả lại ruộng đất ở Tân Thới (Gia Định) cho Đồ Chiểu nhưng nhận được câu trả lời:
-Đất vua còn phải bỏ, thì đất tôi sá gì! Lần
khác, M. Ponchon đặt ra vấn đề cấp dưỡng, Đồ Chiểu nói:
-Tôi đây đang sống đầy đủ trong sự tôn kính của các môn đệ và sự quý mến
của đồng bào. Điều đó đã làm tôi thỏa mãn lắm rồi"... Duy
nhất có một lần, M. Ponchon hỏi Đồ Chiểu về một ước nguyện. Đồ Chiểu nói chỉ
mong ước chính phủ Pháp cho ông tổ chức một buổi lễ tế vong hồn những người
dân đã chết trận, và đã được viên quan này đồng ý. Hôm
đó, tại chợ Đập (nay là chợ Ba Tri), nghe Đồ Chiểu đọc bài văn tế thảm thiết,
đông đảo mọi người đến dự đều không cầm được nước mắt...[32]
[9]- Thông tin liên quan Nguyễn Đình Chiểu có tất cả là ba người con trai
và ba người con gái. Trong số đó có nữ sĩ Sương Nguyệt Anh (con gái, thứ tư)[33] và
Nguyễn Đình Chiêm (con trai, thứ năm) đều là người có tiếng trong giới văn
chương. ·
Toàn thể khu đền thờ
và mộ Nguyễn Đình Chiểu tại huyện Ba Tri (Bến Tre) đã được Bộ Văn hóa-Thông tin công nhận Di tích Lịch sử Văn hóa ngày 16 tháng 3 năm 1993. [10]- Vinh danh Trong
thời kỳ chiến tranh Việt Nam, vào năm 1965 Hội Văn nghệ Giải phóng Miền Nam đã lập
ra Giải thưởng Nguyễn Đình Chiểu dành tặng cho các tác giả, tác phẩm nổi bật
trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật ở miền Nam. [11]-Tên đường phố Cuối năm 1945, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của Mặt trận Việt Minh đã cho đổi tên đường mang tên người
Pháp trước
đây thành đường phố mang tên danh nhân người Việt Nam, trong đó có phố Nguyễn
Đình Chiểu ở thành phố Hà Nội (nay là phố Phủ Doãn) và ở thành phố Hải Phòng (nay là phố Tôn Thất Thuyết). Tuy nhiên, sau khi thực dân Pháp
chiếm lại được các thành phố này vào cuối năm 1946 thì tên phố Nguyễn Đình Chiểu cũng bị mất đi và trở lại bằng các
tên đường mang tên người Pháp như cũ. Sau đó, chính quyền Quốc gia Việt Nam do Bảo Đại đứng đầu vốn trực thuộc khối Liên
hiệp Pháp cũng
cho đặt tên đường phố mang tên Nguyễn Đình Chiểu tại các thành phố này trên
cơ sở một lần nữa xóa bỏ tên đường mang tên người Pháp cũ. Cụ thể, từ đầu
năm 1951 tại thành phố Hà Nội lại có phố Nguyễn Đình Chiểu tại khu vực làng Ngũ Xã cũ nằm ven bờ hồ
Trúc Bạch; đến
năm 1954 tới lượt thành phố Hải Phòng cũng cho đổi tên ngõ Đồng Lùn cũ thành ngõ Nguyễn Đình Chiểu. Tuy
nhiên, sau đó ở Hải Phòng ngõ này đã đổi lại tên cũ thành ngõ Đồng Lùn cho đến nay; và tại Hà Nội đến năm 1964 trên cơ sở cho rằng con phố Nguyễn Đình Chiểu ngắn và nhỏ như vậy
hoàn toàn không phù hợp với công lao to lớn của ông đối với đất nước, chính
quyền Hà Nội lại cho đổi tên phố Nguyễn Đình Chiểu cũ thành phố Nam Tràng và
giữ nguyên cho đến ngày nay; còn phố số 296 vốn chưa có tên nằm ven hồ Bảy
Mẫu thì
cho đặt tên là phố Nguyễn Đình Chiểu. Từ năm 1950, tại vùng Hòa Hưng, Sài Gòn đã có một con đường nhỏ mang tên đường Nguyễn Đình Chiểu. Đến
năm 1955, chính quyền Sài Gòn đổi tên thành đường Hòa Hưng cho đến ngày nay. Ở Thành phố Hồ Chí Minh trước năm 1975 (lúc đó bao gồm Đô thành Sài Gòn và tỉnh Gia Định) có tới hai con đường mang tên Nguyễn Đình Chiểu. ● Tại Đô thành Sài Gòn cũ, từ
ngày 22
tháng 3 năm 1955 Nguyễn Đình Chiểu được đặt tên cho một con đường khá nhỏ ở
vùng Tân Định, đi ngang qua Viện Pasteur, nối từ đường Hai Bà
Trưng đến đường Trương Minh Giảng (nay là đường Trần Quốc Thảo). Ngày 14 tháng 8 năm 1975, đường Nguyễn Đình Chiểu cũ bị thay đổi tên thành đường Trần
Quốc Toản, còn
đường Phan
Đình Phùng cũ thì đổi tên thành đường Nguyễn Đình Chiểu theo Quyết định của Ủy
ban Quân quản thành phố Sài Gòn - Gia Định. ● Tại xã Phú Nhuận thuộc quận Tân Bình, tỉnh Gia Định cũ, từ sau năm 1955 cũng có một con đường ngắn và nhỏ mang tên là đường Nguyễn Đình
Chiểu, giữ nguyên tên cho đến ngày nay. Hiện nay, nhiều tên đường tại các
thành phố (Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Huế, Đà Nẵng, Đà Lạt...) và tên trường học (nhất là các trường dành cho trẻ em khuyết tật) ở
Việt Nam được mang tên ông. Tượng
Nguyễn Đình Chiểu
trong Văn miếu Trấn Biên, Biên Hòa, Đồng
Nai. Mô tả về nhân cách của Nguyễn
Đình Chiểu, "Nhân cách của Nguyễn Đình
Chiểu là một minh chứng sống động về tính năng động của con người. Cuộc đời
dù nghiệt ngã, nhưng sự nghiệp của con người ấy không vì thế mà buông xuôi
theo số phận. Vượt qua số phận để đứng vững trước sóng gió của cuộc đời,
chính là thái độ sống có văn hóa, là nhân cách cao đẹp của Nguyễn Đình Chiểu.
Trên cương vị của một nhà thơ, cái sâu sắc, thâm thúy trong thơ văn của Nguyễn
Đình Chiểu chính là chỗ chê khen, biểu dương và phê phán, thương ghét rõ
ràng, chánh tà minh bạch, hợp đạo lý, thuận tình người, theo đúng chuẩn mực
văn hóa Việt Nam." Dù đui mà giữ đạo nhà Còn hơn có mắt ông cha không thờ. Dù đui mà khỏi danh nhơ Còn hơn có mắt ăn dơ tanh rình... * Sự đời thà khuất đôi tròng thịt, Lòng đạo xin tròn một tấm gương. * Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm, Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà. ۞ Phạm Thế Ngũ nhận xét[35]: "So với các trước tác của
các nhà văn cùng thời, Nguyễn Đình Chiểu đã có một thái độ tích cực hơn, vì
dân vì nước hơn. Tuy không đứng vào hàng ngũ cầm khí giới, nhưng ông rất có cảm
tình với họ, chia sẻ với họ cái hờn mất nước, lòng căm ghét quân địch và bọn
hợp tác..." Ghi nhận những
thành tựu trong sự nghiệp văn học nghệ thuật của ông, trên trang web của tỉnh
Bến Tre có bài viết[36]: "Truyện Lục Vân
Tiên dài 2.082[37]
câu thơ mà nhiều nhà nghiên cứu cho là có mang tính chất tự truyện đã nhanh
chóng được phổ biến rộng rãi trong nhân dân, nhất là ở Nam Kỳ. Truyện lên án
bọn người độc ác, xấu xa, tráo trở, gian manh, bất nhân, bất nghĩa, đồng thời
ngợi ca những tấm lòng nhân hậu, thủy chung."
"Tác phẩm Dương Từ, Hà Mậu dài 3.448 câu thơ kịch liệt
công kích đạo Phật, đạo Thiên Chúa lúc bấy giờ như một mối nguy cơ cho đất nước.
Dựa vào trí tưởng tượng nhân gian (thiên đường, địa ngục), tác giả để cho
nhân vật tự “giải mê" qua cuộc hành trình dài đi tìm chân lý đầy gian khổ,
rồi trở về trong sự hòa hợp của gia đình, làng nước." "Năm 1859, giặc Pháp đánh
chiếm Gia Định. Nhà thơ lánh về quê vợ ở Cần Giuộc (Long An). Âm vang của trận
công đồn diệt bọn “Tây dương” tại nơi đây đã gợi lên cảm hứng để ông viết áng
văn bất hủ ngợi ca những người nông dân chân đất anh hùng xả thân vì sự nghiệp
cứu nước: Văn tế nghĩa dân chết trận Cần Giuộc..."[38] "Ông là người mở đầu cho
dòng văn chương yêu nước Việt Nam chống Pháp xâm lược ở nửa sau thế kỷ XIX.
Thơ văn ông gắn chặt với những biến cố lớn lao của đất nước lúc bấy giờ. Đó
là:Chạy Tây (1859),Văn tế nghĩa dân chết trận Cần Giuộc (1861), Cáo
thị, Thảo thử hịch', Thư gửi cho em, Mười hai bài thơ điếu Trương
Định (1864), Mười
hai bài thơ điếu Phan Tòng (1868), Văn tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh (1874) và hai tập truyện thơ dài Dương Từ - Hà Mậu và Ngư
tiều y thuật vấn đáp..." "Cảm hứng chủ đạo của thơ
văn ông ở giai đoạn đầu là cảm hứng đạo lý và yếu tố này đã được nâng lên
thành trữ tình đạo lý đầy nhân nghĩa, thảo ngay, đồng thời cũng giàu chất phê
phán, phẫn nộ trước mọi điều bất nhân, bất nghĩa như ông đã tự bạch:" Nói
ra thì nước mắt trào, Tấm lòng ưu thế biết bao giờ rồi... "Những tác phẩm ở giai đoạn
sau - thời kỳ đất nước bị xâm lăng - của ông là những trang bất hủ ngợi
ca cuộc chiến đấu oanh liệt của nhân dân ta chống xâm lược phương Tây ngay từ
buổi đầu chúng đặt chân lên đất nước ta”. Phạm Văn Đồng. Tóm lại, sáng tác của ông gồm nhiều
thể loại, thể tài, trong đó thành công nghệ thuật nổi bật nhất là truyện thơ
Nôm và văn tế Nôm. Ngôn ngữ nghệ thuật bình dị, giàu tính nhân dân cùng những
hình tượng nhân vật sinh động trong nhiều thể loại, khiến chơ ngòi bút của
ông có sức thu hút mạnh mẽ người đọc, nhất là đối với nhân dân miền Nam. Sáng
tác của Nguyễn Đình Chiểu đã góp phần bồi đắp tâm hồn dân tộc, nâng vị trí của
văn học miền Nam lên ngang tầm văn học cả nước. Ông là người kết thúc một
cách rực rỡ văn học của giai đoạn trước đó và mở đầu cho dòng văn chương yêu
nước chống xâm lược. Lôøi bình Ngaân Trieàu Bài thơ Ngóng gió Đông 顒 𩙋 東 còn có tựa đề là Xúc cảnh 觸 景 được trích trong Ngư Tiều Y thuật vấn
đáp, sau câu 1084, thể hiện lời giới thiệu một nhân vật thầy thuốc một cách kín đáo về diện mạo tinh thần,
được sáng tác sau khi Miền Nam đã rơi vào tay giặc Pháp 10 năm, khoảng năm
1877. Chủ đề bài thơ chan chứa một
tâm trạng khắc khoải, đau xót, thiết tha của sĩ phu yêu nước và nhân dân Nam
Bộ, khi quê hương đã rơi vào tay giặc. Đó là một thực trạng bi thảm chờ mong,
là lời oán trách xa xôi về sự yếu hèn của Triều đình Huế bấy giờ,
khẳng định một thái độ, một lập trường dứt khoát với giặc và niềm tin tưởng lạc
quan về một ngày mai tươi sáng của đất nước, của dân tộc, khi quét sạch quân
thù. 1-Hai câu đề: Nỗi mong
ngóng cháy bỏng, thiết tha. Hoa cỏ bùi
ngùi ngóng gió Đông, Chúa Xuân
đâu hỡi, có hay không? 花 𦹵 裴 𠿯 顒 𩙋 東 主 春 兠 唉 固 咍 空 [Câu 1] Giọng thơ buồn lặng, ý thơ ngậm
ngùi qua hai câu miêu tả và tu từ nhấn mạnh. Hoa cỏ 花 𦹵 vừa chân thực vừa tượng
trưng. Chân thực là “hoa cỏ”. Tượng trưng là chi tiết đó ẩn dụ, chỉ tấng lớp
sĩ phu yêu nước và nhân dân lục tỉnh Nam Kỳ bấy giờ. Bùi
ngùi 花 𦹵 thể hiện một cảm
giác buồn tủi, lệ trào do thương cảm, nhớ tiếc. Ngóng 顒 là trông chờ, mong đợi một
cách bồn chồn không yên thường biểu lộ tập trung qua mọi giác quan, thái độ,
cử chỉ, luôn dõi theo, mong chờ hướng về một phương trời xa xôi. Gió Đông 𩙋 東 tức là gió Xuân, về mùa Xuân thường có gió Đông
như hai câu thơ : Nhân diện bất
tri hà xứ khứ, Đào hoa y cựu
tiếu Đông phong.
Đề tích sở kiến xứ - Thôi Hộ 人 面 不 知 何 處 去 桃 花 衣 舅 笑 東 風 (題 昔 所 見 處 - 崔 護) Hoa cỏ đang khắc khoải, ngậm
ngùi chờ mong ngọn gió Xuân. Điều đó còn chính là nỗi lòng của sĩ phu yêu nước
và nhân dân Lục Tỉnh Nam Kỳ xót xa cho thân phận hẩm hiu, bàng hoàng cho việc
ngỡ ngàng cho thân phận bỗng chốc bị bán đứng cho giặc, đau xót, hận lòng. [Câu 2] Nhóm từ đâu hỡi, 兠 唉; có hay không 固 咍 空 là nhóm từ nghi vấn. Hai lần hỏi liên tiếp như
chất vấn dồn dập không những chan chứa nỗi ngóng trông đứt ruột, mà còn tỏ ý oán trách; kết hợp với câu hỏi tu
từ nâng cao cảm xúc. 2- Hai câu thực: Cụ thể
hóa, khắc sâu nỗi mong ngóng như vô vọng và bối cảnh nhân - quả bi thảm của phong trào
chống Pháp ở Lục Tỉnh Nam Kỳ. Mây giăng ải
Bắc trông tin nhạn, Ngày xế non
Nam bặt tiếng hồng. 𩄲 𢬥 隘 北 𥉩 信 雁 𣈗 㫼 𡽫 南 弼 㗂 鴻 [Câu 3] Mong ngóng tin tức, tin
nhạn 信 雁 từ Ải Bắc 隘 北, (Ải phía Bắc theo sự định hướng của tác giả, của
Miền Nam, ám chỉ Triều Đình Huế bấy giờ) chỉ thấy khoảng không gian mây
giăng 𩄲 𢬥 đầy trời, mờ mịt, đen tối.
Triều đình Huế ngó lơ, làm ngơ, hay bó tay (!) trước hiện tình đất nước lâm nguy bấy giờ... Phải
chăng đó là những lời chỉ trích? “Cứu binh như cứu hỏa”, thế mà việc
binh thì chần chờ, trễ nãi, không bao quát, không cấp tốc, không kịp thời!
Mưu kế thì mờ mịt, bặt vô âm tín! Tin nhạn 信 雁 là “tin tức”, một cách thông tin ngày xưa, thư
được buộc vào chân chim nhạn, loài chim di trú theo mùa, lấy điển tích Tô Võ mục dương 蘇 武 牧 羊, Tô Võ chăn dê[39]. [Câu 4] Ngày xế 𣈗 㫼 thời điểm mặt trời, mặt trăng ở vị trí chếch
về phía Tây, “ngày sắp tàn” (Cho nên) Ở đất phương Nam, Lục Tỉnh Nam Kỳ, non
Nam 𡽫 南, sẽ không bao giờ còn nghe, bặt 弼 , tiếng
con chim hồng nữa, tiếng hồng 㗂 鴻 . Bặt tiếng hồng chỉ người anh hùng kháng chiến chống
Pháp không còn nữa; đã vị quốc vong thân. Có thể hiểu,
nỗi mong chờ
mòn mỏi, ngày lụn tháng qua, cơ hội sắp hết mà cứu quân của ta cứ lần lữa, (cho nên) những
ánh lửa
kháng chiến của những người anh hùng đều bị giặc dập tắt. Cả một sự
ngóng trông đến thất vọng, dàn trải qua lớp từ “ngóng” ( Hoa
cỏ bùi ngùi ngóng gió Đông ,câu 1), “trông” (trông tin nhạn, câu
3) và “bặt” (bặt tiếng hồng, câu 5). Sự trông ngóng
được nhân lên nhiều lần, cuối cùng là sự thất vọng. Hai câu luận: Nỗi xót xa
quặn thắt và lời thề tâm huyết: Bờ cõi xưa đà chia đất khác, Nắng sương nay há đội trời chung. 坡 𡎝 𠸗 拖 𢺹 坦 恪 𣌝 霜 𠉞 𧯶 隊 𡗶 終 [Câu 5] Bờ cõi xưa, 坡 𡎝 𠸗 , ranh
giới đất nước bao đời, bây giờ đã chia 拖 𢺹 thành đất khác 坦 恪 mất rồi! Đất nước của ta mà bây giờ kẻ làm chủ đất nước nầy chính là một kẻ ngoại bang xa lạ. [Câu 6] Nắng sương
nay 𣌝 霜 𠉞 , là
ngày và đêm, là thời tiết của đất nước nầy. Cuộc sống của
nhân dân, bao đời vẫn thế, lẽ nào ngày nay, ta phải sống chung với giặc? Há
đội trời chung 𧯶 隊 𡗶 終 . Qua chi tiết nầy, tác giả không những cất cao
lòng căm thù giặc sâu sắc mà còn khắc sâu một lời thề yêu quê hương đất nước,
một mất, một còn với giặc. Hai câu kết: Tuy nhiên, vẫn lạc quan về một
ngày mai tươi sáng của dân tộc: Chừng nào Thánh Đế ân soi thấu, Một trận mưa nhuần rửa núi sông 澄 閙 聖 帝 恩 𤐝 透 沒 陣 𩄎 潤 𤀗 𡶀 滝 [Câu 7] Chúng ta thấy
sự thất vọng, chán nãn không kết thúc não nề ở chỗ của nó. Tác giả vẫn tin tưởng
vào ơn vua, thánh đế ân 聖 帝 恩 . Có thể là một ngày không
xa, chừng nào 澄 閙 là một ngày mai rạng rỡ
của dân tộc. Khi ấy, Đức Vua anh minh sẽ thấu hiểu được lòng dân, sẽ như Hội nghị Diên Hồng xưa, toàn dân và thánh đế một
lòng; nhà vua sẽ soi thấu, 𤐝 透 nỗi niềm nầy. [Câu 8] Như thế thì
chỉ cần có một trận mưa cực lớn, mưa như trút nước, thấm sâu, toàn diện, mưa
nhuần 𩄎 潤 , khắp mọi nơi trên đất nước sẽ được rửa sạch
trơn bao bùn
nhơ trên đường đi; bấy giờ con đường nhơ nhớp trong bóng giặc sẽ huy hoàng,
xán lạn, rửa
núi sông 𤀗 𡶀 滝 . Phải chăng
đó chính là tấm lòng tha thiết của tác giả, là tin tưởng vào sức mạnh và bản
lĩnh truyền thống dân tộc. Một sức mạnh lấy dân làm gốc, để sẽ có một trận
huyết chiến thư hùng với giặc, quét sạch quân thù ra khỏi bờ cõi, sạch làu làu cái nhục quê
hương đã từng chói ngời qua những cuộc thư hùng với giặc, quật khởi, hào hùng. Cũng với
mỹ cảm đó, Cụ Phan Sào Nam, 50 năm sau, cũng đã tỏ rõ một quan điểm hừng hực
máu lửa sục sôi : Đúc gan sắt để dời non lấp bể, Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ... Bài ca chúc Tết Thanh Niên, Bến Ngự, Ngày 27/01/1927 , Phan Sào Nam. Bản chữ
Nôm: 鐲 肝 鉄 抵 移 𧀒 垃 波 𣻇 昴 燶 𤀗 𧿭 洳 奴 隷, 潘 巢 南 Về nghệ thuật,
đây là một bài thơ mẫu mực, tiêu biểu cho lối Thơ Đường. Hình ảnh ước lệ, thi
vị mở ra cho hai câu đề [câu 1-2], chuyển sang tượng trưng trong hai câu thực
[câu 3-4], khái quát vút cao oán hận, căm thù giặc sâu sắc [câu
5-6] và kết thúc như ký thác tâm sự, thỏa lòng [câu 7-8]. Từ ngữ, hình ảnh dàn dựng
trong các cặp thực - luận tinh chọn, đối lập nhau một cách điệu nghệ,
chuẩn mực, đầy sức thuyết phục, gợi tả, trữ tình. Sử dụng 3
câu hỏi tu từ, lửng lơ, như biểu đạt một nỗi lòng ray rứt như oán hận, như
than vãn đau lòng, như khắc khoải thầm lặng của một trí thức yêu
nước, thương dân, bị Triều đình phản bội, “đem con bỏ chợ”, bỏ mặc
dân đen lếch
théch, bí lối trên bước đường cùng. Phải chăng
những ước vọng đau đáu đó của tác giả và của cả dân tộc Tiên-Rồng về một trận mưa nhuần mà mãi đến gần
100 năm sau, [ước vọng “Một trận mưa nhuần rửa núi
sông” đó], đã
chói ngời lịch sử dân tộc và thế giới bằng một trận đại thắng oai hùng Thực Dân Pháp, bằng ý chí, tinh thần, tấm lòng và trí
tuệ Việt Nam. Đó là ngày 07 tháng 05 năm 1954, mãi mãi là một ngày
đầy tự hào của dân tộc ta: ngày chiến thắng Thực Dân Pháp tại Điện Biên Phủ,
“chấn động địa cầu” ...֎ Ngân Triều |
[3] Theo Văn học thế kỷ XIX, tr. 405.
[4]
Theo Nguyễn chí thế phả do
Đồ Chiểu biên soạn, và cha ông là Nguyễn Đình Huy hiệu chính. Trương Vĩnh
Ký trong truyện Lục
Vân Tiên (Sài
Gòn, 1889) chép là
làng Tân Khánh. Rất có thể Tân Thới về sau được đổi thành Tân Khánh, hoặc là cả
hai nơi này về sau nhập làm một. Làng Tân Thới ở đâu, hiện nay chưa xác định được,
chỉ biết ở tại Tân Triêm, thuộc vùng Cầu Kho xưa có phần mộ của bà Trương Thị Thiệt
(mẹ Đồ Chiểu). Vậy rất có thể làng Tân Thới ở vùng Cầu Kho, thuộc quận 1, Thành
phố Hồ Chí Minh ngày
nay (theo Nguyễn Đình Chiểu toàn tập, tập 1, tr. 21).
[5] Theo Nguyễn Đình Chiểu toàn tập, tập 1, tr. 26.
[6] Theo Nguyễn Đình Chiểu toàn tập, tập 2, tr. 439
[7] Theo Nguyễn Đình Chiểu toàn tập, tập 2, tr. 439.
[8]Theo Văn học lớp 11 (nâng cao), tập 1, tr. 23.
[9]Ghi theo Văn học lớp 11 (nâng cao, tập 1, tr. 31) và Nguyễn
Đình Chiểu toàn tập(tập 2, tr. 439). Văn học thế kỷ XIX (do PGS.
Hoàng Hữu Yên làm Chủ biên, NXb Khoa học xã hội, 2004, tr. 407) ghi là
"ngày 14 tháng 12 năm 1861".
[10]
Ghi theo Từ điển Văn học (bộ
mới, Nhà xuất bản Thế giới, 2004, tr. 1971). Văn học lớp 11 (nâng
cao) ghi khoảng 20 người (Nhà xuất bản Giáo dục, 20037, tr 30). Theo công văn của
Tuần phủ Gia Định Đỗ Quang là 27 người, theo Huỳnh Tịnh Của là 15 người (dẫn lại theo Văn học
thế kỷ XIX, tr. 407). Theo Nguyễn Đình Chiểu toàn tập (tập 2, tr.
441), thì người chỉ huy cuộc tập kích là Đỗ Trình Thoại.
[11] Tỵ địa: khi quân Pháp chiếm dần Nam Kỳ, người dân ở vùng tạm chiếm chạy sang vùng tự
do để lánh quân xâm lược. Vùng đất người dân chạy đến gọi là "tỵ địa"
(giải thích theo Ngữ văn 11 (nâng cao), tập 1, tr. 36).
[12] Khi 3 tỉnh miền Đông rơi vào tay quân Pháp,
không chịu sống trong vùng bị chiếm đóng, Nguyễn Đình Chiểu cùng gia đình xuôi
thuyền về làng An Đức, tổng Bảo An, tỉnh Vĩnh Long (nay là huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre). Tại đây, ông tiếp tục dạy học, bốc thuốc,
đồng thời vẫn giữ mối liên hệ với những sĩ phu yêu nước như Phan Văn Trị, Nguyễn Thông và các lực lượng kháng chiến; từ chối
trước mọi cám dỗ của giặc.
[13]Ghi theo Văn học thế kỷ XIX (tr. 405). Văn học lớp 11 (nâng cao, tập 1, tr. 36) viết: "khi về Ba Tri, Nguyễn Đình Chiểu tham gia kháng chiến dưới cờ của Trương Định và Đốc binh Là". Tuy nhiên, theo GS. Dương Quảng Hàm, thì "Trương Định có mời ông ra làm quân sư cho mạnh thanh thế, nhưng ông từ chối" (Văn học Việt Nam, Trung tâm học liệu Sài Gòn xuất bản, 1968, tr. 144).
[14]Khi về Ba Tri, Nguyễn Đình Chiểu làm nhà ở đâu chưa tra được.
Theo Nguyễn Đình Chiểu toàn tập (tập 2, tr. 447) thì đến năm 1877 ông mới
đến ở làng An Bình Đông, và rồi mất ở đây.
[15]
Ghi theo Nguyễn Đình Chiểu toàn
tập (tập 1, tr. 33). Văn học lớp 11 (nâng cao, tập 1, tr. 36)
ghi là "Ponchon tìm cách mua chuộc ông, cấp đất cho, nhưng ông từ chối".
[16] Lược kể theo Nguyễn Đình Chiểu toàn tập (tập
1, tr. 33).
[17] Theo Lê Chí Dũng, Từ điển văn học (bộ
mới), tr. 1129.
[18]
Có người cho rằng Đồ Chiểu thuộc
dòng họ Nguyễn Đình ở Phước Yên, thuộc huyện Phong Điền (Thừa Thiên Huế). Vì vậy, nhóm biên soạn Nguyễn Đình Chiểu
toàn tập đã đi đến đó. Sau khi xem xét gia phả dòng họ vừa kể, nhóm biên
soạn đã kết luận rằng "quê quán Đồ Chiểu đúng là ở xã Bồ Điền, vì gia phả
dòng họ Nguyễn Đình ở Phong Điền không có chép Đồ Chiểu cùng các cụ tổ khác của
ông" (Nguyễn Đình Chiểu toàn tập, tập 1, tr. 23).
[19] Năm 1959, di cốt của
con gái Nguyễn Đình Chiểu là nữ sĩ Sương Nguyệt
Anh cũng đã được
cải táng bên cạnh mộ vợ chồng ông.
[20]
Câu trong ngoặc kép là của Phạm Văn Đồng (dẫn lại theo Từ điển văn học bộ mới,
tr. 886).
[21] Theo Văn học lớp 11 (nâng cao), tập
1, tr. 36.
[22] Theo Nguyễn Đình Chiểu toàn tập (tập
1), tr. 67.
[23] Ở các bản khác, số câu có khác hơn.
[24] Theo Văn học thế kỷ XIX, tr. 421.
[25] Căn cứ bản in trong Nguyễn Đình Chiểu
toàn tập, tập 2.
[26] Theo Văn học thế kỷ XIX, tr. 423.
[27]
Theo Lê Chí Dũng (Từ điển văn học, bộ
mới, tr. 1129), Đồ Chiểu viết bài "Lục tỉnh sĩ dân trận vong văn"
năm 1874. Theo Nguyễn Đình Chiểu toàn tập (tập 2, tr. 448), bài này được
làm năm 1884 để đọc trong buổi lễ tế nghĩa sĩ Lục tỉnh
tại chợ Ba Tri, sau khi được chủ tỉnh Bến Tre chấp thuận.
[28] Lược kể theo Nguyễn Đình Chiểu toàn tập (tập
1, tr. 33).
[29] Theo Nguyễn Đình Chiểu toàn tập
[30] Lược
kể theo Huỳnh Ngọc Trảng, Ngàn năm bia miệng, Sở Văn hóa Thông tin Long An
xuất bản, 1984, tr. 101-102.
[31]Nhận xét của GS. Phạm Thế Ngũ, Việt Nam văn học sử giản ước tân
biên (tập 3, Quốc học tùng thư, Sài Gòn, 1965), tr. 29.
[32] Lược kể theo Huỳnh Ngọc Trảng, Ngàn
năm bia miệng, Sở Văn hóa Thông tin Long An xuất bản, 1984, tr.
101-102.
[33] Theo tục lệ ở Nam Bộ, con đầu lòng kể thứ hai, nên mặc dù Sương Nguyệt Anh là con gái thứ tư trong gia đình, nhưng được gọi là Năm. Tương tự, Nguyễn Đình Chiêm cũng vậy.
[34] Theo Nguyễn Đình Chiểu toàn tập, tập 1, tr. 26.
[35] Theo Nguyễn Đình Chiểu toàn tập, tập 2, tr. 439.
[36] Theo Văn học lớp 11 (nâng cao), tập
1, tr. 23.
[37] Truyện
Lục Vân Tiên dài 2082 câu thơ lục
bát (có dị bản dài 2246 câu thơ lục bát).
[38] Sau này, tác phẩm trên được gọi là “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”, được đưa vào giảng dạy trong chương trình Văn học lớp 10 THPT.
[39]Tô Võ 蘇 武 tự Tử Khanh, quê ở Mậu Lăng, huyện Hưng Bình, tỉnh Thiểm Tây, người đời Tây Hán (206 trước-196 sau D.L.) làm quan triều vua Nguyên Đế (48-33 trước D.L.). Lúc bấy giờ, giặc Hung Nô xâm lấn Trung Nguyên. Nhà Hán thất bại, vua Hán phải sai Tô Võ làm sứ sang Hung Nô xin giảng hòa. Chúa Hung Nô thấy Tô Võ ứng đối cứng cỏi, lưu loát tỏ ra người có ý chí tài ba lỗi lạc nên ý muốn thu dùng, tìm lời dụ hàng. Không kết quả, nhưng chúa Hung Nô không chán nản, truyền cho Vệ Luật, nguyên là người Hán đầu hàng, lấy tình đồng bang mà dùng lời ngon ngọt khuyên nhủ Tô Võ. Vệ đến nói với Tô Võ:
- Tô quân nếu
không nghe lời tất bị giết. Chịu chết như thế phỏng có ích gì. Chi bằng đầu
hàng đi, tài hèn như tôi còn được trọng dụng, nếu là bực đại tài như Tô quân tất
được phong vương bái tướng, sự đại phú quý hẳn cầm chắc trong tay.
Tô Võ đứng phắt dậy, chỉ
mặt Vệ Luật mắng nhiếc:
- Ta không ngờ mày lại vô
lương tâm đến thế. Đã muối mặt thờ kẻ thù để cầu vinh, tưởng không còn dám
trông ta, ai ngờ mày lại mặt dày mày dạn quá, đến đây khuyên ta đầu hàng. Mày
bước ngay đi, chớ nhận ta là người cùng nòi cùng nước nữa. Vì nòi giống,tổ quốc, không bao giờ lại có hạng vô sỉ như
mày.
Bị sỉ nhục thậm tệ, Vệ Luật đỏ mặt trở về, phục mạng chúa Hung Nô rằng Tô quyết
một chết, không chịu đầu hàng và xin đem giết đi. Chúa Hung Nô thâm độc, mỉm cười
nói:
- Nó muốn chết thì
có khó gì, nhưng khi nào ta cho nó chết ngay đâu. Ta còn phải làm cho nó chịu đủ
điều khổ nhục để xem cái gan nó to bằng nào.
Rồi chúa Hung Nô sai giam Tô vào một cái hầm đất tối tăm, hằng ngày chẳng cho ăn uống gì cả.
Thương hại cho Tô Võ, bị giam trong hầm chăn chiếu không có, ngày đêm lại có mưa tuyết, đã đói lại rét, chẳng biết kiếm gì ăn cho no lòng, đành phải lượm những cục tuyết và nhặt những lông áo chiên tạm nhai cho đỡ đói. Đến năm hôm, chúa Hung Nô lại sai người đến dò xem thì thấy Tô vẫn ngồi chẩm hẩm, vẻ mặt như thường.
Lấy làm lạ, chúa Hung Nô hạ lịnh đem Tô Võ
lên Bắc Hải là một miền hoang vu, quanh năm giá rét, giao cho một đàn dê đựa, bắt
phải chăn nuôi; và ra lịnh nếu bao giờ đàn dê ấy đẻ con thì mới cho về nước. Biết rõ sự tàn bạo đê hèn của chúa Hung Nô,
Tô Võ chỉ mỉm cười.
Nhờ sự luyện tập chịu đựng
khổ cực, có lúc đun mình bên lửa nóng, có lúc lại mình trần tắm tuyết, gội mưa
ngày còn nhỏ nên Tô Võ xem thường cảnh đọa đày, vất vả. Ở Bắc Hải, ban ngày Tô
đuổi đàn dê ra một bãi cỏ cho tự do đi lại kiếm ăn; còn mình thì tìm bắt những
chuột đồng và bứt cỏ ăn tạm qua ngày. Tối đến lại dồn đàn dê về trong hầm nằm
nghỉ. Ở đây, ngoài đàn dề làm bầu bạn, Tô Võ còn một lá cờ tiết mao của vua
giao cho khi đi sứ là biểu hiện của một sứ mạng trọng đại, Tô cầm luôn trong
tay, không lúc nào rời. Tháng lụn ngày qua, trải năm này sang năm khác, những
lông trên thân lá cờ dần dần trút rụng hết, chỉ còn trơ lại cán không.
Ở sa mạc Bắc Hải lâu
năm, một hôm Tô Võ nghĩ được một kế viết thư về Hán báo tin. Tô viết nhiều bức
thư vào mảnh lụa áo, rồi buộc vào chân chim nhạn mà Tô bắt được, thả cho chim
nhạn bay đi.
Về mùa đông, chim nhạn ở
Bắc Hải đổ về Trung Nguyên, bay vào vườn Thượng Lâm của nhà vua làm ổ. Vua Hán
bắt được, mở thư ra xem mới biết Tô Võ còn sống ở một chỗ cực kỳ khổ cực, lấy
làm mủi lòng, thương xót vô cùng.
Mãi đến 19 năm, bấy giờ
Hung Nô yếu thế, thất bại, xin hòa. Chúa Hung Nô nói dối là Tô Võ đã bị bịnh chết
từ lâu, nhưng vua Hán đưa thủ thư của Tô Võ, bấy giờ chúa Hung Nô không dám
giam cầm nữa, đành sai một đạo quân hộ tống đến biên cảnh, cho về nước.
Trong truyện "Song
phụng kỳ duyên" lúc Chiêu Quân cống Hồ đến Nhạn Môn Quan, nàng cũng
xé vạt áo lụa, cắn móng tay viết thư buộc vào chân chim nhạn để gởi về vua Hán.
Bởi điển này, sau
dùng "tin nhạn", "tin hồng", đều chỉ tin tức.
Dùng chữ "tái bạch" là lụa ngoài ải, tức áo lụa của Tô Võ
xé để viết thư. Trong "Chinh phụ ngâm khúc",của Đặng Trần Côn, bản diễn Nôm của bà Đoàn Thị Điểm, đoạn diễn tả tình
cảm của người chinh phụ mong ngóng tin chồng, có câu:
Trải mấy xuân, tin đi, tin lại,
Tới xuân này, tin hãy vắng không.
Thấy nhàn, luống tưởng thư phong,
Nghe hơi sương, sắm áo bông sẵn sàng.
(Câu
177-180)
Bản Chữ Nôm
𣦆 貝 春 信 𪠞 信 吏
细 春 尼 信 唉 永 空
𧡊 鴈 𨻫 想 書 封
𦖑 唏 霜 攕 𥜌 葻 産 牀
(Pendant
plusieurs années nous nous sommes écrit;
Pourquoi
cette année- ci, n’ai-je plus de nouvelles?
L’arrivée
des oies me fait espérer un mot...
Sentant
le gel, je taille un habit ouaté).
Traduit par Tuần Lý Huỳnh Khắc Dụng
"Thấy
nhàn" là thấy chim nhạn. Theo nguyên tác bằng Hán văn của Đặng Trần
Côn là: "Kiến nhạn uổng nhiên tư tái bạch".
見 雁 枉 然 思 塞 帛 .
"Thấy nhàn" có
nghĩa mong nhận được thư của người đi xa gửi về, theo điển tích TôVõ chăn dê.
Để nhắc lại gương oanh
liệt, khẳng khái và khí tiết của Tô Võ, đồ sứ của Tàu thường vẽ hình một người
tay cầm cờ tiết mao, chăn bầy dê giữa một chốn hoang vu cực kỳ buồn thảm, có đề
4 chữ "Tô Võ mục dương" 蘇 武 牧 羊 (Tô Võ chăn dê).
Truyện Tàu còn chép: khi Tô Võ sống ở Bắc Hải có kết thân với một con vượn cái. Con vượn này rất yêu quý Tô Võ, hằng
ngày nó không quản thời tiết băng giá khắc nghiệt vùng Bắc cực, lặn lội đi tìm hoa quả, thức ăn về nuôi Tô Võ. Khi được cho về nước, Tô
Võ phải trở về với quê hương nhưng
lòng vẫn còn tha thiết, ngậm
ngùi,vương vấn mãi một tình cảm trung hậu, thâm sâu.
(Eblog truyện, chương 56)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét