Thứ Bảy, 28 tháng 11, 2020


MỜI XEM:

Link:

LẼ VÔ THƯỜNG TRONG THƠ TRANG TỬ, NGUYỄN BÍNH, XUÂN DIỆU… - La Thụy





  
                 “Học làm Trang Tử thiêu cơ nghiệp
              Khúc Cổ bồn ca gõ hát chơi”


Thứ Tư, 7 tháng 8, 2019

LẼ VÔ THƯỜNG TRONG THƠ TRANG TỬ, NGUYỄN BÍNH, XUÂN DIỆU… - La Thụy


  
                 “Học làm Trang Tử thiêu cơ nghiệp
              Khúc Cổ bồn ca gõ hát chơi”


LẼ VÔ THƯỜNG TRONG THƠ TRANG TỬ, NGUYỄN BÍNH, XUÂN DIỆU…

Tình cờ lướt web, đọc bài Đạo Chích (chương 29, Trang Tử Nam Hoa Kinh), tôi cứ tủm tỉm cười. Trang Tử khá “độc” khi đem “vạn thế sư biểu” Khổng Tử của Nho giáo ra đùa cợt. Hình ảnh uy nghi, khẳng khái “uy vũ bất năng khuất” đâu chẳng thấy mà chỉ còn là hình ảnh lão già tầm thường run như cầy sấy trước hành động hung cuồng bạo ngược của Đạo Chích – kẻ bị cho là “đào tường khoét vách, lùa ngựa bò, bắt cóc vợ và con gái người ta, tham lợi tới quên cả thân thích, không đoái hoài tới cha mẹ anh em, không cúng giỗ tổ tiên”. Đạo Chích vừa mới cất vài lời “cường ngôn” phản bác mà “Khổng Tử vái hai vái rồi vội vàng chạy ra cửa, lên xe ba lần mới nắm được dây cương vì hoảng hốt, mắt không thấy rõ, mặt tái như tro tàn, ngồi dựa vào cái đòn ở trước xe, đầu cúi xuống, thở không ra hơi”. Trang Tử khéo giễu quá đi thôi! Đạo giáo cùng Nho giáo Tàu cũng “chỏi” nhau ra trò đó chứ!
Nhắc đến Trang Tử, tôi chợt nhớ hai câu thơ của Vũ Hoàng Chương:
“Học làm Trang Tử thiêu cơ nghiệp
Khúc Cổ bồn ca gõ hát chơi”
Qua hai câu thơ ấy, hình tượng Trang Tử có vẻ tiêu sái thoát tục, tôi tò mò tìm đọc nội dung khúc Cổ Bồn Ca xem thế nào. Hoá ra Trang Tử thiêu cơ nghiệp và gõ bồn hát, cảm khái vì lẽ vô thường“vợ mình thằng khác xài, con mình thằng khác sai”... Sao bi hài thế nhỉ !
CỔ BỒN CA
Kham ta phù thế sự
Hữu như hoa khai tạ
Thê tử ngã tất mai
Ngã tử thê tất giá.
*
Ngã nhược tiên tử thời
Nhất trường đại tiếu thoại
Điền bị tha nhân canh
Mã bị tha nhân khóa
Thê bị tha nhân luyến
Tử bị tha nhân mạ.
*
Dĩ tử đổng thường tình
Tương khan lệ bất hạ
Thế nhân tiếu ngã bất bi thương
Ngã tiếu thế nhân không đoạn trường
Thế sự nhược hoàn khốc đắc chuyển
Ngã diệc thương sầu lệ vạn hàng.
                                  TRANG TỬ
*
BÀI HÁT CỔ BỒN
Ôi cuộc đời nổi trôi
Khác nào hoa nở, rụng
Vợ chết trước ta lo mai táng
Ta chết vợ sang ngang.

Ví bằng ta chết trước
Thật một trường đại hài hước
Ruộng ta người sẽ cày
Ngựa ta người sẽ cỡi
Vợ ta người sẽ thương
Con ta người mắng chửi.

Tình thế là như vậy
Nếu lệ ta chẳng rơi
Thế gian cười tớ vô tình
Tớ cười thiên hạ như bình lệ chan
Khóc mà đổi được tuần hoàn
Thì ta đã khóc muôn ngàn năm nay.
*
                VÕ TƯ NHƯỢNG dịch
Sự tích Trang Tử đốt nhà và gõ bồn hát, như sau:
Trang Tử đi chơi về, nằm lăn xuống phản kê giữa nhà, chân chữ ngũ, chàng cười, cười như nắc nẻ, cười mãi. Vợ Trang Tử thấy lạ, lấy ghế ngồi bên cạnh, hỏi chồng: “Mình có việc gì mà cười lắm thế?” Trang Tử ngồi nhỏm dậy, nói: “Thế này nhé...” rồi lại cười. Khi ngớt cơn cười, Trang Tử mới kể:
Trang Tử đi qua một cánh đồng chợt thấy một thiếu phụ xinh đẹp, đội khăn tang che mái tóc mượt mà, đang cố sức quạt lấy quạt để; trước mặt nàng là một nấm mồ mới đắp, cỏ chưa mọc, đất còn ẩm. Trang Tử lấy làm lạ; chàng dừng lại, chăm chú nhìn. Thiếu phụ xinh đẹp quạt rất nhiệt tình, mỏi tay này đổi tay khác. “Hay là nàng thương người dưới mồ nóng bức?”. Nghĩ vậy, chàng đánh liều hỏi: “Thưa quí nhân, nàng quạt mồ là nghĩa làm sao?”. Người đẹp ngước đôi mắt đen long lanh, đáp: “Ðây là mồ chồng thiếp. Trước khi chết, chồng thiếp trối trăng hai, ba lần: Phải đợi đất mồ chàng khô rồi hãy lấy chồng. Thiếp thương chồng, không quên lời căn dặn cuối cùng của chàng, nên thiếp quạt mồ chóng khô.” Trang Tử lại tỏ lòng thương xót người thiếu phụ biết làm theo lời trăng trối của chồng.
Nghe câu chuyện, vợ Trang Tử ngúng nguẩy đứng dậy, nhăn nhó:“Thế mà mình cười được. Ðàn bà đâu trơ trẻn đến thế”. Trang Tử thở dài: “Chỉ mong khi tôi chết, mình quàng tôi một trăm ngày rồi hãy chôn, sau đó hãy tái giá nhé!”. Vợ Trang Tử trách móc chồng vì đã nói gỡ, nàng đoan chắc nếu Trang Tử có mệnh hệ nào, thì nàng nhất quyết cư tang suốt đời thủ tiết thờ chồng không tái giá. Không bao lâu, Trang Tử bỗng nhiên đột tử. Thi hài Trang Tử liệm trong quan tài, quàng trong nhà. Ðược dăm hôm, một chàng trai trẻ đẹp, hào hoa đến. Chàng thư sinh nhận mình là học trò thầy Trang Tử, đến phúng viếng thầy. Chàng nói: “Nhà tôi ở mãi chân núi, xin cô cho ở lại mấy hôm”. Vợ Trang Tử vừa thấy chàng, đã đem lòng vấn vương; nàng vội nhận lời. Từ đêm ấy, hai bên quấn quít nhau, không rời nhau được. Bỗng một hôm, chàng ôm bụng lăn lộn trên giường, mồ hôi nhễ nhại. Chàng trai kêu đau, rên la thảm thiết. Chàng ú ớ nói chàng khó qua khỏi. Người thiếu phụ hoảng hốt. Chàng bảo vốn chàng bị bệnh đau bụng kinh niên, chỉ một thứ thuốc duy nhất cứu được chàng: lấy sọ người mới chết, mài ra, uống ngụm nước nóng, thế là khỏi. Vợ Trang Tử, ngay đêm ấy, lấy cái vồ đập săng đựng xác chồng, định lấy cái sọ chồng chữa bệnh cho người tình. “Thịch, thịch, thịch” vồ nện mấy nhát, nắp săng bật tung. Trang Tử nhổm dậy hỏi “nàng làm gì vậy ?” Sau cơn hoảng sợ, vợ Trang Tử trấn tỉnh lại, nàng đáp: “thiếp nghe trong quan tài có tiếng động, nên nghĩ rằng chàng tỉnh lại nên cậy quan tài ra”.
Trang Tử bước ra khỏi quan tài, cùng vợ trở về phòng. Vợ Trang Tử bước đi mà lòng lo lắng… Về đến phòng, không thấy thư sinh đâu cả. Đang bần thần thì Trang Tử bảo: “Ta gọi người tình của nàng đến nhé”. Ngọn đèn trong phòng chao chao và mờ dần, Trang Tử đột nhiên biến mất và chàng thư sinh trẻ đẹp hiện ra…Vợ Trang Tử biết chồng dùng phép thuật để thử lòng vợ. Nàng xấu hổ quá, nàng ốm, vài hôm sau nàng chết. Nàng chết, Trang Tử nực cười cho đời người. Chàng lấy cái chậu, vừa gõ vừa ca bài Cổ bồn, bài ca vừa như cười, cái cười hềnh hệch, vừa như khóc, cái khóc xót xa cho thân phận con người: “Ôi thói đời! Nghĩ mà đau lòng...! Nhìn nhau lệ chẳng rơi lã chã...! Ta cười cuộc đời lắm nỗi đau thương...”.
                   (Phỏng theo Kim Cổ Kỳ Quan của Ủng Bảo Lão Nhân)
Từ câu chuyện trên, dân gian Việt Nam có câu: Quạt mồ còn hơn bổ quan tài.
Hay là:
Thương thay cho kẻ quạt mồ
Ghét thay cho kẻ cầm vồ bửa săng.
Thiên Chí Lạc, Nam Hoa Kinh viết :
“Vợ Trang Tử mất, Huệ Thi đến điếu, thấy Trang Tử ngồi duỗi xoạc hai chân vừa gõ bồn vừa ca. Huệ Tử hỏi:
- Cùng người ở tới già, có con lớn mà người chết lại không khóc, cũng là đã quá lắm rồi ! Lại còn vỗ bồn mà ca, không quá lắm sao?
Trang Tử đáp:
- Không ! Lúc nàng mới chết, tôi sao chẳng động lòng, nhưng nghĩ lại, hồi trước nàng vốn không sinh, chẳng những không sinh mà đó lại vốn không hình, chẳng những không hình mà đó vốn là không khí. Đó chẳng qua là tạp chất trong hư không biến ra mà có khí, khí biến ra mà có hình, hình biến ra mà có sinh, rồi lại biến ra nữa mà có tử. Khí, hình, sinh, tử, có khác nào xuân, hạ, thu, đông, bốn mùa vận hành. Vả lại, người ta đã nghỉ yên nơi Cự thất (nhà Lớn), mà tôi còn cứ than khóc, chẳng là tự tôi không thông Mệnh ư, nên tôi không khóc.”
Đọc sự tích “Trang Tử gõ bồn ca”, lòng tôi bâng khuâng cảm khái lẽ vô thường của đời người. Trang Tử là người đạt đạo mới có thái độ khác thường với nỗi bi thương chính mình. Có đâu như nhà thơ Nguyễn Bính hễ tơ lòng chạm phím là ai oán ngân nga. Khi người yêu “sang ngang”, nhà thơ Nguyễn Bính đã tỏ ra rất ngỡ ngàng:
Có người đêm ấy khoe chồng mới:
“Em chửa yêu ai, mới có mình”
Có người trong gió rét chiều đông
Chăm chỉ đan cho trọn áo chồng
Còn bảo: “Đường len đan vụng quá!
Lần đầu đan áo kiểu đàn ông”
Có lẽ khi đang ngây ngất men nồng tình ái, người yêu Nguyễn Bính cũng thầm thỉ bên tai chàng “Em chửa yêu ai, mới có mình”. Nhà thơ cay đắng thốt lên:
Vâng chính là cô chửa yêu ai
Lần đầu đan áo kiểu con trai
Tôi về thu lá ba đông lại
Đốt hết cho cô khỏi thẹn lời
Câu thơ “Tôi về thu lá ba đông lại” có dị bản là Tôi về thu cả ba đông lại”. Nhưng theo như một số bạn thơ của Nguyễn Bính, “lá” là từ ngữ dùng trong sáng tác ban đầu, nhà thơ Nguyễn Bính chỉnh sửa lại là“cả” trong các lần tái bản sau. “Lá” trong câu thơ trên là lá thư, phong thư. Nguyễn Bính đã nâng niu cất giữ những những lá thư tình trong 3 năm liền, thế mà “người ta” bỗng phút chốc thản nhiên coi như không. Hận tình đời đen bạc, nhà thơ uất nghẹn muốn đem đốt hết cho người yêu cũ thanh thản bên chồng. Nhưng, “người ta” quên chứ Nguyễn Bính có quên đâu. Nguyễn Bính chưa thấu lẽ vô thường trong tình ái nên vẫn u uất:
 Tất cả mùa đông đan áo len
Cho người cho tất cả người quen
Còn tôi người lạ, tôi người lạ,
Có cũng nên mà không cũng nên.
           (“Vâng” - Nguyễn Bính)
Là nhà thơ tiền chiến đồng thời với Nguyễn Bính, nhưng Xuân Diệu tỏ ra khác hẳn và tỉnh táo hơn nhiều, ông đã thẳng thắn viết:Ai nói trước lòng anh không phản trắc
Mà lòng em sao lại chắc trơ trơ
                    (“Giục giã” - Xuân Diệu)                         
Nhà thơ Xuân Diệu với những bài thơ tình lãng mạn được giới trẻ yêu thích một thời, có câu thơ mang chút ít triết lý:Trong gặp gỡ đã có mầm ly biệt
   (“Giục giã” - Xuân Diệu)                            
Mới đọc, ta thấy hơi khó hiểu, nhưng đọc đoạn thơ sau thì nhà thơ đã trình bày rõ ràng:
Hoa nở để mà tàn;
Trăng tròn để mà khuyết;
Bèo hợp để chia tan;
Người gần để ly biệt.
(“Hoa nở để mà tàn” - Xuân Diệu)
Đúng thế “Trong gặp gỡ đã có mầm ly biệt”, chỉ vì có họp mặt mới có chia tay, “mầm ly biệt” đã nhú lên ngay từ khi mới quen nhau. Hoa nở rồi tàn, trăng tròn rồi khuyết đó là lẽ vô thường nhưng cũng là quy luật của sự vật. Nhưng, dù là quy luật thì khó có ai không bùi ngùi trong cảnh  chia tay:
Hoa thu không nắng cũng phai màu;
Trên mặt người kia in nét đau
(“Hoa nở để mà tàn” - Xuân Diệu)                        
“Ôi cảnh biệt ly sao mà buồn vậy”
            (Quốc văn giáo khoa thư)
Lẽ vô thường trong thơ Trang Tử, Nguyễn Bính, Xuân Diệu gieo nỗi man mác bâng khuâng trong lòng tôi mấy hôm nay. Sáng nay đi lễ, nghe bài giảng của cha xứ, trong đó có câu:
Vanitas vanitatum et omnia vanitas
Hư không của sự hư không - thế sự hư không!
                                          (Truyền đạo 1:2-3)
Phù vân, quả là phù vân. Tất cả chỉ là phù vân…
                                                           (Gv 1,2)
Mọi điều đó là sự hư không theo luồng gió thổi…
                                           (Truyền-đạo 2:1-26)
Ô hay, tưởng rằng chỉ có Lão Trang mới nói đến phù vân, vô thường, vô vi trong đời sống và nguồn khởi dẫn của Đạo. Phật giáo mới nói đến hư vô, sắc không; giờ lại nghe Thiên Chúa giáo nhắc đến hư không, phù vân. Cuộc đời quả vô thường !
                                                                                 La Thụy
                                                                                7/8/2019
*
Bản chữ Hán, Ngân Triều sưu tầm:
堪嘆浮世事,Kham thán phù thế sự,

有如花開謝。Hữu như hoa khai tạ.

妻死我必埋,Thê tử ngã tất mai,

我死妻必嫁。Ngã tử thê tất giá.

我若先死時,Ngã nhược tiên tử thời,

一場大笑話。Nhất trường đại tiếu thoại.

田被他人耕,Điền bị tha nhân canh,

馬被他人跨。Mã bị tha nhân khóa.

妻被他人戀,Thê bị tha nhân luyến,

子被他人罵。Tử bị tha nhân mạ.

以此動傷心,Dĩ thử động thương tâm,

相看淚不下。Tương khán lệ bất hạ.

世人笑我不悲傷,Thế nhân tiếu ngã bất bi thương,

我笑世人空斷腸。Ngã tiếu thế nhân không đoạn trường.

世事若還哭得轉,Thế sự nhược hoàn khốc đắc chuyển,

我亦千秋淚萬行。Ngã diệc thiên thu lệ vạn hàng.

Bản chữ Hán trên có thể có vài dị bản. Một người khuyết danh đã khéo léo dịch bài hát của Trang Tử sang tiếng Việt như sau:

Nên than ôi, thế sự,

Dường hoa đơm lại rã.

Vợ chết ắt ta chôn,

Ta chết vợ cải giá.

Ví bằng ta chết trước,

Một cuộc cười ha hả.

Ruộng phải người khác cày,

Ngựa phải người khác cưỡi.

Vợ phải người khác lấy,

Con phải người khác mắng.

Nghĩ lại chạnh tấm lòng,

Nhìn nhau khôn tuôn lệ.

Ðời cười ta chẳng bi thương,

Ta cười đời luống đoạn trường.

Việc đời khóc mà chuyển biến được,

Ta cũng ngàn thu khóc vạn hàng.

Từ chuyện thêu dệt trên, dân gian Việt Nam có câu:

Quạt mồ còn hơn bổ quan tài.

Hay là:

Thương thay cho kẻ quạt mồ

Ghét thay cho kẻ cầm vồ bửa săng.

Tích Trang Tử vỗ bồn ngầm chỉ người vợ không chung thủy, thiếu tiết hạnh.

HUỆ KHẢI & LÊ ANH MINH hiệp chú


(1) Cự thất 巨室: Nhà lớn. Nghỉ yên nơi cự thất: An nghỉ trong vũ trụ hư không, tức là chết.

Được đăng bởi  

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét