[Baøi 9]
Töï
thaùn [1]
Hồ Xuân Hương
[I]
Con bống đi về
chốc bấy nay, (1)
Chữ duyên nào đã
chắc trong tay.
Nghĩ cùng thế sự
lòng như đốt, (3)
Trông suốt nhân
tình dạ muốn say.
Muôn kiếp biết
là duyên trọn vẹn, (5)
Một đời riêng mấy
kiếp chua cay.
Nỗi
mình, nỗi bạn dường bao nả, (7)
Dám
hỏi han đâu những cớ nầy.
(Theo
Thư Viện Online)
*
Văn bản chữ Nôm,
Ngân Triều soạn:
自 歎 [其 一]
𡥵𩸮迻𧗱祝昞
𡦂緣㐌𠺵 𥪝拪
擬窮世事𢙱如𤋿
𥊛拙人 情 腋 㦖
閍 劫 别 縁𢀧 援
𠬛 𠁀 𥢆買 劫 咮 𠹽
𢚶 𨉟 𢚶伴 𠍵包 𥭵
㦑𠳨 𠻃兠 仍 故 尼
*
Chú giải:
Chàng mới đi
chưa bao lâu, xa chàng mới thấy rằng chữ duyên, những lời thề hẹn chưa chắc sẽ
thành như nắm chắc trong tay.
Tình hình thế sự
lòng dạ như lửa đốt: Tình hình chiến tranh đang tiếp diễn, tháng ba năm 1801
Nguyễn Ánh đánh chiếm toàn doanh Quãng Nam. Sau đó thừa thắng tiến đánh Đà Nẵng.
Đến tháng 5, Nguyễn Ánh cho thủy quân tiến đánh cửa bể Tư Dung, rồi thừa thắng
kéo vào Phú Xuân. Vua Quang Toản bỏ kinh thành chạy ra Bắc, trận chiến tiếp diễn
tại Nghệ An, Quận Công Nguyễn Văn Thận, Trấn thủ Tây Sơn tại Hà Tĩnh thua chạy
vào Thanh Hóa và bị bắt giết. Tháng 5 năm Nhâm Tuất 1802 Nguyễn Ánh lập đàn ở đồng
An Ninh, Phú Xuân tế trời đất, lên ngôi đặt niên hiệu Gia Long và tiến quân ra
Bắc. Thăng Long sẽ là nơi trận đánh cuối cùng của Triều Tây Sơn trước khi suy
tàn, hứa hẹn một cuộc giao tranh khốc liệt..Làng Nghi Tàm có thể là nơi đóng
quân, sẽ là một phen lửa khói tơi bời.
Tình hình thế sự
như thế, như lửa đốt mà tiếng đồn đại, người đời lòng dạ đổi thay,
Xuân Hương muốn say để quên đi.. ,
Tình duyên có được
trọn vẹn chăng trong muôn kiếp.
Một đời nàng chịu
đựng quá nhiều tiếng chua cay của miệng đời.
Nỗi mình như thế,
nỗi bạn Mai Sơn Phủ ra sao ?
Vì sao vắng bặt
tin, biết hỏi han cùng ai ?
Con bống, 𡥵 𩸮, loại cá nhỏ nước ngọt, quen thuộc gần gũi trong dân gian,
như chuyện cổ tích Tấm-Cám: Tấm có nuôi một con cá bống ở một cái giếng. Ở đây, hình tượng con bống được tác giả so sánh ngầm, ví với thân phận mình. Ở đây có thể hiểu, tất bật, đa đoan, lo lắng đến nỗi như người mất hồn hay có xác không có hồn.
như chuyện cổ tích Tấm-Cám: Tấm có nuôi một con cá bống ở một cái giếng. Ở đây, hình tượng con bống được tác giả so sánh ngầm, ví với thân phận mình. Ở đây có thể hiểu, tất bật, đa đoan, lo lắng đến nỗi như người mất hồn hay có xác không có hồn.
Chữ
duyên, 𡦂緣, Sự việc coi như trời định, trong mối nhân duyên vợ chồng; tình yêu đôi lứa.
kiếp, 劫,Đời người,
khi chết đi, hóa thành 1 đời sống khác,trong một thân xác khác, có quan hệ nhân
quả với nhau, theo thuyết luân hồi của đạo Phật. Ở đây có thể hiểu như những cơ
hội của con người trong đời.
nả, 𥭵,khoảng
thời giờ ngắn ngủi.
Bao nả, 包 𥭵
,thời gian ngắn ngủi biết bao.
(1-2),
Những băn khoăn về cuộc tình:
Đi về trong (hò hẹn) biết bao lần, thân
ta như là một con cá bống.
Chuyện tình nầy, chưa có gì chắc chắn.
(3-4-5-6),
Chuyện thời thế và chạnh lòng:
Nghĩ đến chuyện thế sự (bấy giờ tình
hình trong nước bất ổn), lòng ta sao có thể an tâm.
Chạnh tưởng người tình, nhân tình, ta
như mê say trong dạ.
Có
phải đây là cuộc tình hạnh phúc, tâm đắc của đời ta chăng, trài qua trong muôn
kiếp luân hồi?
(So với cuộc đời
đã qua), ta đã từng lận đận, mấy bận chua cay.
(7-8), Tâm trạng của tác giả:
Tình cảm của ta và
của chàng (thắm thiết biết bao!), thời gian (bên nhau) thật là ngắn ngủi!
Ta nào dám nhắc đến những chuyện nầy, với chàng.
*
Có
chắc gì chưa hỡi cuộc tình!
*
Ngân Triều diễn thơ, bài Tự thán 1:
Ngân Triều diễn thơ, bài Tự thán 1:
Bao lần hò hẹn, thân như bống.
Có
chắc gì chưa hỡi cuộc tình!
Thế
sự sục sôi như đạp lửa,
Trời
thương chất ngất nghĩa ba sinh.
Lần
nầy bến mộng trong muôn kiếp?
Hay dấu xe xưa, những gập ghình!
Khoảnh khắc bên nhau sao thắm thiết!
Dám đâu bộc bạch chuyện riêng mình?
*****
Töï thaùn [2]
Hồ Xuân Hương
*
[2]
Lẩn thẩn đi về mấy
độ nay, (a)
Vì đâu đeo đẳng
với nơi vầy.
Ấm trà tiêu khát
còn nghe giọng, (c)
Chén rượu mừng
Xuân dạ thấy say.
Điểm lữ trông chừng
mây đậm nhạt (e)
Dòng thu xem cỡ
nước vơi đầy.
Thương ai hẵn lại
thương lòng lắc, (g)
Này nợ này
duyên, những thế này.
Thơ
chữ Nôm Hồ Xuân Hương trong Lưu Hương ký.
Theo
Thư Viện Online
*
Nhất Uyên dịch nghĩa:
Bài Tự Thán[ 2] cho thấy tâm trạng buồn
thảm của nàng:
Mấy độ nay, Hồ Xuân Hương như cái xác không
hồn, đi về lẩn thẩn.
Vì đâu ta phải đeo đẳng ở cái làng Nghi Tàm
này.
Uống chén
trà, nàng cứ nghe khát hoài, nàng cứ uống để còn nghe giọng mình có còn không,
vì chẳng nói chuyện được với ai…
Uống chén
rượu mừng xuân năm Nhâm Tuất, lòng dạ muốn say…
Nơi quán
trà quán sách của nàng, khách xưa đến nồng ấm nay lạnh nhạt !
Tình người như nước mùa thu, đã đầy rồi vơi
đi…
Càng thương chàng, càng thương thân phận mình.
Vì đâu mà duyên nợ phải ra thế này. ?
*
Văn bản chữ Nôm, Ngân Triều soạn:
自 歎 [其 二]
吝迻𧗱買度𠉞
位兠㧅戥唄坭丕
𤋾茶焇渴群𦖑哢
𥗜𢜠春腋𧡊
點旅𥊛蒸𩄎淡𤁕
𣳔秋䀡𢤫渃 潙 𣹓
愴埃𠳾 吏愴𢙱𢳝
尼 𡢻尼 縁仍世尼
*
Chú giải:
Lẩn thẩn, 吝 ,
dở hơi, như mất
trí.
Điểm lữ, 點旅, ở một nơi quán khách trọ nào đó. Lữ,
旅, quán khách trọ.
đạm, 淡, lạt, nhạt, trái với chữ nùng,醲 , là đậm.
nhạt, 𤁕,nói về cái vị, cái màu không còn đúng với
bản gốc. Cái vị đã thiếu đậm đà, cái màu đã phai.
Dòng thu, 𣳔
秋, dòng nước mắt của người con gái, Con mắt được ví như sóng mùa thu:
Dòng thu như xối cơn sầu,
Dòng thu như xối cơn sầu,
Dứt lời nàng cũng gieo đầu một bên.
ĐTTT, Nguyễn Du, câu 2533-2534
ĐTTT, Nguyễn Du, câu 2533-2534
lòng lắc, 𢙱 𢳝, lòng như quả lắc, đưa qua đưa lại. Lòng dạ không chung thủy.
Nợ, 𡢻, sự việc mà bản thân phải
đền, phải trả, phải bận lòng không dứt khi đã dính vào, khi đã nhận củatha nhân
một món gì.
Chồng con là cái nợ nần,
Chồng con là cái nợ nần,
Thà rằng ở vậy, nuôi thân béo mầm.
Ca
dao
Nợ tình chưa trả cho ai,
Hồn nầy thác xuống tuyền đài chưa tan.
ĐTTT, Nguyễn Du, câu 709-710
Hồn nầy thác xuống tuyền đài chưa tan.
ĐTTT, Nguyễn Du, câu 709-710
*
Diễn ý bài thơ trên:
Diễn ý bài thơ trên:
(a-b),Nỗi niềm trong cuộc tình:
Tại
sao ta cứ đi về, lao vào cuộc tình say đắm như điên!
Vì sao
thân ta bỗng dính dáng đến nơi nầy?
(c-d-e-f), Cụ thể nỗi niềm khao khát, ước
ao, lo lắng, buồn khổ:
Hết cả
ấm trà, không còn khát nữa, nhưng vẫn nhớ tiếng nói của chàng.
Cạn
chén rượu mừng Xuân, nghe lòng say đắm, ước ao.
Ở quán
khách ấy, phải chăng mây trời đã nhạt? (Hay tấm lòng chàng đã phôi pha, cách mặt
xa lòng).
Nhìn
nước dòng sông vơi đầy ( do ảnh hưởng thủy triều), mà nước mắt tuôn rơi.
(g-h), Tự trách mình đã quá tin cậy
trong tình yêu:
Khi
thương ai, sao thương được con người có lòng dạ thay đổi, như nắng sớm mưa chiều.
Phải
chăng ta tin vào duyên nợ (tiền định), cho nên ta mới thế này đây!
*
Lẩn
thẩn đi về xơ xác thay! Vì đâu đeo đẳng mãi nơi nầy?
*
Ngân Triều diễn thơ Bài Tự thán 2:
Lẩn thẩn đi về xơ xác thay!
Vì đâu đeo đẳng mãi nơi nầy?
Chén trà, tiêu khát còn đâu giọng?
Chén rượu xuân nồng mơ ước say.
Cho dẫu thói đời nay nhạt thếch,
Dòng sông cay đắng mãi vơi đầy.
Đã thương nào biết ai chung thủy?
Duyên kiếp ai xui phải thế này?
Ngân Triều
*
Thế là:
Mối tình Hồ Xuân Hương và Mai Sơn
Phủ kết thúc nơi đây!
Ta không biết Mai Sơn Phủ
ra sao ? Có ai lục trong gia phả họ Mai làng Liên Cừ ở Vinh, để biết cuộc đời
chàng Mai chấm dứt ra sao?
Hoặc phản bội lời thề với Xuân Hương Hồ Phi
Mai nên bị chết vì dao búa trong chiến tranh.
Hoặc bị cha mẹ hay vợ cả
thấy suốt ngày chỉ ngồi uống trà xanh không và nhớ nàng nên cấm cửa, bắt ra
đồng cày ruộng nên không thể nào trở lại Thăng Long học tiếp?
Hoặc chết vì một cơn bạo
bệnh, một trận dịch ?
Có lẽ có một duyên cớ gì
đã làm Hồ Xuân Hương đau điếng, không thể viết tiếp trang tình sử của bản thân với
Mai Sơn Phủ.
Lúc này, bỗng đâu có người
học trò cũ của cha đến thăm: Tổng Cóc Nguyễn Công Hoà ở Vĩnh Phú, còn có tên là
Nguyễn Bình Kình, có thể rước nàng về dạy học cho con. Trong cơn túng quẩn:
quán trà ế khách, lớp học Cổ Nguyệt đường thiếu học trò, chiến tranh sắp xảy ra
tại Thăng Long. Gặp anh học trò cũ của cha cũng từng vác lều chỏng đi thi,có xuớng họa với nàng vài câu đáp cũng không đến
nổi nào nên Hồ Xuân Hương:
Cũng liều nhắm mắt đưa chân,
Mà
xem con tạo xoay vần đến đâu.
ĐTTT, Nguyễn
Du, câu 1115-1116
*
Năm ấy năm 1802, nàng mới 30 xuân xanh.
Tham khảo: Mối tình Hồ Xuân Hương và Mai Sơn Phủ, TS Phạm Trọng Chánh.
*****
Tham khảo bài thơ Tự Thán của Nguyễn Du:
自嘆 (其一)
生未成名身已衰 蕭蕭白髮暮風吹 性成鶴脛何容斷 命等鴻毛不自知 天地與人屯骨相 春秋還汝老鬚眉 斷蓬一片西風急 畢竟飄零何處歸
*
Phiên
âm:
Tự thán (kỳ nhất)
Sinh vị thành danh thân dĩ suy Tiêu tiêu bạch phát mộ phong xuy Tính thành hạc hĩnh hà dung đoạn (1) Mệnh đẳng hồng mao bất tự tri Thiên địa dữ nhân truân cốt tướng Xuân thu hoàn nhữ lão tu mi Đoạn bồng nhất phiến tây phong cấp Tất cánh phiêu linh hà xứ quy |
|
*
Ngân
Triều dịch nghĩa bài Tự thán, Nguyễn Du:
Sinh ra chưa làm nên danh phận gì, thân đã suy yếu. Tóc bạc phơ phơ, gió chiều thổi lên. Chân hạc vốn dài, làm sao cắt ngắn được! Mệnh trời nhẹ như lông hồng mà không tự biết Trời đất phú cho người cái cốt tướng gian truân Xuân thu đưa về cho mày bộ râu già cỗi Một ngọn cỏ bồng lìa gốc trước trận gió tây thổi gấp Cuối cùng, không biết trôi nổi về xứ nào?
*
Trần Văn
Nhĩ diễn thơ, bài Tự Thán:
Chưa nên danh phận đã suy gầy,
Tóc bạc phơ phơ chiều gió bay.
Chân hạc tính trời sao bớt được?
Lông hồng mệnh nhẹ tự không hay.
Nét truân cốt tướng ông trời phú,
Cảnh lão bày râu năm tháng bày.
Ào ạt gió Tây bồng đứt gốc,(a)
Cuối cùng không biết giạt đâu đây!
Nguồn:Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Trần Văn Nhĩ, trang 18-19, NXB Văn Nghệ 2007.
*
(a), Gió Tây, Tây phong, 西風, Nguyễn Du có nhiều bài thơ nhắc đến Tây
phong, ý ông muốn ám chỉ Triều đại nhà Tây Sơn, theo Lê Thước và Trương
Chính.
*
Gió Tây
chợt nổi đời phiêu bạt,
Biết giạt về đâu hỡi cỏ bồng!Ngân Triều.Ảnh hoa cỏ bồng, hoa lông chông
hay hoa
cầu gai trên bãi biển, ảnh Google
*
Ngân Triều diễn thơ bài Tự thán, Nguyễn Du:
Sống chửa nên danh thân đã yếu, Phất phơ tóc bạc gió bềnh bồng. Dài như chân hạc sao đành ngắn?(a) Mệnh tựa lông hồng tự biết không? Tất định, mệnh trời thân khốn khổ,
Xuân Thu
sớm tối bỗng già tong, (b)
Gió Tây chợt nổi đời phiêu bạt,(c) Biết giạt về đâu hỡi cỏ bồng!(d)
Ngân Triều
*
|
(a): chân hạc: hạc hĩnh, 鶴脛
Trang Tử nói: "Chân le dù ngắn, nối thêm thì nó lo, chân hạc
dù dài, chặt bớt thì nó xót"
Phù hĩnh tuy đoản,
tục chi tắc ưu,
hạc hĩnh tuy trường,
đoạn chi tắc bi
鳧脛雖短,
續之則憂,
鶴脛雖長,
斷之則悲,
Trang Tử 莊子, Biền mẫu 駢拇).
Ý nói không thể làm trái tánh tự nhiên.
(c) Gió Tây, Tây phong, 西風 Trong văn thơ, Nguyễn Du thường nhắc đến gió
Tây, để ám chỉ nhà Tây Sơn.
(d) cỏ
bồng, tức là hoa cỏ bồng, hoa lông chông, hay hoa cầu gai trên bãi biển. Xin
xem ảnh minh họa.
*
Trích Nguyễn Du, Thơ chữ
Hán
Link: nguyendu.com.free.fr/langues/thohan/thtt-003.htm
Link: nguyendu.com.free.fr/langues/thohan/thtt-003.htm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét