Thứ Sáu, 28 tháng 5, 2021

Bút chiến của hai nhà Nho qua bài Tôn Phu Nhân quy Thục, Bình thơ, Ngân Triều

Toân Phu Nhaân quy Thuïc.

Bài xướng họa thơ của Tôn Thọ Tường và Phan Vãn Trị hay là trận bút chiến lịch sử của sĩ phu miền Nam trong thời kỳ Thực dân Pháp từng bước thôn tính nước ta.

Lời dẫn:

Tương kế tựu kế của Khổng Minh, Lưu Bị sang Đông Ngô cưới em gái của Tôn Quyền là Tôn Phu Nhân[1]. Được sự tán thành của mẫu thân, Tôn Quyền đồng ý tác hợp và ngầm lưu giữ Lưu Bị lại Giang Đông trong cảnh phú quý nhằm triệt tiêu mộng lớn của Lưu Bị. Cũng theo kế của Khổng Minh, Triệu Tử Long phò giá Lưu Bị trốn về nước an toàn nhờ có Tôn Phu Nhân đúng ra đối phó với các thuộc tướng Đông Ngô truy đuổi.

Việc Tôn Phu Nhân quy Thục, được Tôn Thọ Tường gởi gấm tâm sự mình vì sao phải ra cộng tác với Thực dân Pháp, theo  Tây. Với sự việc theo giặc đó, Phan Văn Trị, thay mặt cho giới sĩ phu yêu nước miền Nam lên án và đả kích quyết liệt.

Hai bài thơ xướng-họa, hai áng văn chương là tấm gương soi cho hậu thế, sắc sảo như văn bia:[2]

Toân Phu Nhaân quy Thuïc

Tôn Thọ Tường

            Cật ngựa, thanh gươm, vẹn chữ tòng,

Nghìn Thu rạng tiết gái Giang Đông.[3]

Lìa Ngô[4] bịn rịn[5] chòm mây bạc,

Về Hán[6] thờ ơ[7] mảnh má hồng.

Son phấn[8] thà cam dày gió bụi,

Đá vàng[9] chi để thẹn non sông.

Ai về nhắn với Chu Công Cẩn,[10]

Thà mất lòng anh, đặng bụng chồng.

Nguồn:  Dương Quảng Hàm, Việt Nam thi văn hợp tuyển, Trung tâm học liệu Sài Gòn xuất bản (bản in lại lần thứ 9), 1968, tr. 163-164.

*

Bản Hán Nôm, Ngân Triều soạn:

[倡]孫夫人歸蜀

𦛋馭青鎌院𡦂(1)

𠦳秋煬節𡛔江東

𥾽緬笘𨗠(3)

衛漢𥚤𤗖𦟐

𣘈粉時甘𠼪𩙍𡏧 (5)

𥒥鐄之氐𢢆𡽫

唉衛𠴍𠇍   (7)

𠅍𢚸偀鄧夫重

    ***

Bài họa Toân Phu Nhaân quy Thuïc

Phan Văn Trị

Cài trâm sửa áo vẹn câu tòng,
Mặt ngả trời chiều biệt cõi Đông.
Khói toả đồi Ngô un sắc trắng,
Duyên về đất Thục đượm màu hồng.
Hai vai tơ tóc[11] bền trời đất,
Một gánh cương thường[12] nặng núi sông.
Anh hỡi Tôn Quyền[13] anh có biết?
Trai ngay thờ chúa gái thờ chồng.

                                                Nguồn: Theo Thi Viện

  Bản Hán Nôm, Ngân Triều soạn.

[和] 孫夫人歸蜀

  

掑橬𢯢院句從    (1’)

𩈘𨁟𡗶𣊿𡎝

𤌋鎖隤吳熅𤽸 (3’)

縁衛坦蜀淡牟紅

𠄩𦠘𩯀𥑃𡗶 (5’)

沒挭綱常𥘀𡶀

英唉孮權英𣎏 (7’)

𤳆𣦍𠄜𡛔𠄜夫重.

*

Ảnh ông Tôn Thọ Tường (1825 - 1877), Google

Tiểu sử Tôn Thọ Tường

Nguồn: Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Tôn Thọ Tường (chữ Hán  1825 - 1877) là một danh sĩ người Công Giáo sống vào thời nhà Nguyễn. Do ông cộng tác với thực dân Pháp nên bị nhiều trí thức người Việt chỉ trích mạnh mẽ.  

Cuộc đời

Tôn Thọ Tường là người huyện Bình Dương, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định (nay thuộc Thành phố Hồ Chí Minh).

Ông vốn xuất thân trong một gia đình khoa hoạn, thân phụ là Tôn Thọ Đức đỗ cử nhân, làm quan dưới triều Thiệu TrịTự Đức. Ngay từ thời trẻ, Tôn Thọ Tường học ở Huế, nổi tiếng văn hay chữ tốt. Năm 1840, thân phụ qua đời, nên việc học ông bị dở dang, đến năm 30 tuổi vẫn chưa đỗ đạt gì.

Năm 1855, Tôn Thọ Tường được tập ấm làm quan, nhưng chỉ được giao một chức quan võ, không hợp với khả năng nên ông từ chối. Vì túng thiếu, ông phải đi làm bài thi mướn để lấy tiền. Việc bại lộ, ông bị bắt giải về Kinh đô Huế. Vua Tự Đức xét đến công lao của cha ông và nhận thấy ông cũng là người có tài nên gia ơn tha tội[14] 

Ông trở về Nam, khi đi qua tỉnh Bình Thuận, các viên quan ở đây vì mến tài, muốn bổ ông chức thông phán, nhưng bộ Lại không chấp nhận. Việc này càng làm cho Tôn Thọ Tường bất mãn triều đình Huế[15].

Đến Gia Định, ông lập lại Bạch Mai thi xã. Sau đó, TD Pháp mới mời ông ra nhận chức tri phủ Tân Bình, nên được người đời gọi là Phủ Ba Tường. Đô đốc Bonard muốn dùng ông dùng uy tín của mình để dụ hàng Trương Định, nhưng không thành công. Năm 1863, ông ể cùng các bạn xướng vịnh. Năm 1862, Pháp chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ, ông được chính quyề được cử làm ký lục trong phái bộ của Phan Thanh Giản sang Pháp và Tây Ban Nha.

Năm 1867, ông được nhà cầm  quyền Pháp phái về Ba Tri (Bến Tre) để dụ hàng nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu cùng hai người con Phan Thanh Giản là Phan Tôn và Phan Liêm, nhưng thất bại.

Năm 1871, ông được thăng Đốc Phủ S[16].

Tháng 2 năm 1872, viên chủ quận Vũng Liêm tên Thực bị nghĩa quân ở nơi đó giết chết, ông được cử đến thay. Sau, vì không ổn định được tình hình nơi ông cai quản[17], nhà cầm quyền Pháp rút ông về dạy Hán văn ở trường Hậu Bổ (Collège des StagiairesNam Kỳ.

Năm 1873, ông được tham dự phái đoàn của Pháp sang Trung Quốc hai tháng. Năm 1875, Tôn Thọ Tường làm việc dưới quyền của Tổng Lãnh sự Pháp De Kergaradec ở Bắc Kỳ.

Năm 1877, trong một lần theo viên lãnh sự này đi quan sát miền thượng du Bắc Kỳ, ông mắc bệnh sốt rét ác tính rồi mất.

Nhận xét

Tôn Thọ Tường được đánh giá là một nhà thơ có thi tài được thể hiện qua một số bài thơ có hình tượng nghệ thuật như Đĩ già đi tu,Từ thứ qui TàoCây maiMười bài tự thuật...Đương thời, Tường bị các trí thức người Việt, đặc biệt hơn cả là Phan Văn Trị lên án, chỉ trích do làm việc cho người Pháp là kẻ xâm lược.

Năm 1966, GS. Trịnh Vân Thanh có nêu lên một nhận xét khá công tâm hơn:

Với một tâm trạng đau khổ, luôn bị dằn dặt của Tôn Thọ Tường, chúng ta thấy ông không phải là người đánh mất cả lương tri. Việc vận động với người Pháp để xin ân xá cho Bùi Hữu Nghĩa, nhẫn nhục nhận lấy những lời thóa mạ, nguyền rủa của Phan Văn Trị, Huỳnh Mẫn ĐạtLê Quang Chiểu...mà không tìm cách trả thù hay ám hại, chứng tỏ Tường vẫn còn biết trọng nho phong, sĩ khí...

Tham khảo    

·        Dương Quảng Hàm, VN Văn học sử yếu, tái bản lần thứ 9), Sài Gòn, 1968.

·       - GS Trịnh Vân Thanh, Thành ngữ điển tích danh nhân từ điển (quyển 2). Nhà xuất bản Hồn Thiêng, Sài Gòn, 1966.

·       - Huỳnh Minh, Vĩnh Long xưa. Nhà xuất bản Thanh Niên, 2002.

·        -Nguyễn Q. Thắng-Nguyễn Bá Thế, Từ điển Nhân Vật lịch sử Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa ng HàmViệt Nam  văn học sử yếu. Trung tâm học liệu xuất bản .

·         -Diên Hương, Thành ngữ điển tích từ điển. Nhà xuất bản Tổng hợp Đồng Tháp, 1992.

Tiểu sử Phan Văn Trị       (1830 – 1910);


                                             Ảnh Cụ Phan Văn Trị, (1830 – 1910), Google.

 Tiểu sử Phan Văn Trị

(1830 – 1910)

Nguồn: Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Phan Văn Trị (   1830 – 1910); là một nhà thơ Việt Nam trong thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp của dân tộc Việt Nam.

Phan Văn Trị sinh năm Canh Dần (1830) tại thôn Hưng Thạnh, huyện Bảo An, phủ Hoằng An, trấn Vĩnh Thanh (nay là xã Thạnh Phú Đông, huyện Giồng Trôm tỉnh Bến Tre).

Khoảng năm 1847 – 1848, ông đến làng Hạnh Thông, Gia Định (nay là Gò VấpThành phố Hồ Chí Minh) trú ngụ tại nhà người thân để trau dồi nghiên bút.

Khoa thi Hương năm Tự Đức thứ 3 (Kỷ Dậu1849), ông đỗ thứ 10 trên 17 Cử nhân[18]. Năm ấy, ông vừa tròn 19 tuổi.

Với tài học đó, Cử Trị có thể ra làm quan, nhưng buồn vì thời cuộc cứ rối ren... ông không ra làm quan, mà về sống đạm bạc bằng việc dạy học ở làng Bình Cách (nay thuộc thị xã Tân An, tỉnh Long An). Sau, ông tị địa[19] về Vĩnh Long, rồi về Phong Điền (Cần Thơ).  Ở đó, ông dạy học, bốc thuốc và làm thơ...

Phan Văn Trị mất ngày 16 tháng 5 năm Canh Tuất (22 tháng 6 năm 1910) tại xã Nhơn Ái (nay thuộc huyện Phong Điềnthành phố Cần Thơ), thọ 80 tuổi.

Sự nghiệp văn chương

Phan Văn Trị sáng tác nhiều nhưng hiện chỉ mới tìm được khoảng trăm bài bao gồm thơ vịnh vật như: "Con mèo", "Cái cối xay", "Hột lúa", "Con rận", "Cào cào", "Con cóc",...chùm thơ họa lại 10 bài thơ của Tôn Thọ Tường.

Trước khi thực dân Pháp xâm lược, Phan Văn Trị thường vịnh cảnh, vịnh vật để bày tỏ chí hướng, ước muốn giúp đời, cứu dân hoặc để phê phán những người bất tài, hám danh. Đến khi quân Pháp chiếm đóng Nam Kỳ, ông làm thơ yêu nước.

Lòng yêu nước ấy chan chứa trong bài thơ tiêu biểu sau:

Thất tỉnh Vĩnh Long

Tò te kèn thổi tiếng năm ba,

Nghe lọt vào tai, dạ xót xa.

Uốn khúc sông Rồng mù mịt khói,

Vắng hoe thành Phụng ủ sầu hoa

Tan nhà cám nỗi câu ly hận,

Cắt đất thương thay cuộc giảng hòa

Gió bụi đòi cơn xiêu ng cỏ,

Ngậm cười hết nói nỗi quan ta.

Và khi quân Pháp đàn áp cuộc khởi nghĩa của Đinh Sâm nổ ra tại Láng Hầm, cạnh Phong Điền.  Để tỏ lòng tiếc thương những nghĩa sĩ đã bỏ mình, Phan Văn Trị đã làm hai câu đối thật xúc động:

Võ kiếm xung thiên, Ba Láng giang đầu lưu hận huyết.

Văn tinh lạc địa, Trà Niềng thôn lý đãi sầu nhan.

                              血,

          ,    𦀅               顔.

Tạm dịch:

Kiếm võ ngút trời, Ba láng sông sâu tràn hận huyết.

Sao văn sa đất, Trà Niềng thôn xóm thảy sầu mang[20]

Mặt khác, nói về mảng thơ mang tính chiến đấu của ông, nhà thơ Bảo Định Giang nêu nhận xét:

Sau Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị xông xáo tiến lên đánh địch như một dũng sĩ. Ngòi bút trong tay ông trở thành ngọn giáo, nhằm thẳng vào bọn bán nước, đánh rất đau, khiến đối phương không cựa quậy được...

Và một điều ai cũng rõ: Phan Văn Trị dùng bút đánh Tôn Thọ Tường, không đơn giản như đánh một tên tay sai võ biền dung tục …mà đối thủ của ông là bạn cũ, từng xướng họa với ông ở Thi xã Bạch Mai[21] ngày nào... Để rồi bằng sức mạnh chính nghĩa, Phan Văn Trị đã giáng cho đối thủ của mình những đòn bất ngờ, giành thế chủ động từ đầu đến cuối..."[22]

Trong Bản lược đồ văn học VN, GS. Thanh Lãng cũng đã viết:

Phan Văn Trị là phát ngôn viên cho phe chủ chiến. Chính ông đã đập vỡ cái thành trì yên lặng của nhà Nho, xung phong đứng ra tố cáo và kết án phái chủ hòa. Mỗi khi phe địch lên tiếng biện hộ, thanh minh... là ông lại viết bài vạch trần mưu mô, tâm địa thấp hèn của họ. Cái mới mà Phan Văn Trị đưa vào văn học thế hệ này chính là ở chỗ đó...[23]

Đề cập vai trò của ông trong cuộc bút chiến với Tôn Thọ TườngTừ điển văn học (bộ mới) có đoạn:

Bị dư luận lên án gay gắt, Tôn Thọ Tường làm bài thơ "Từ Thứ quy Tào" để ngụy biện, chống đỡ cho hành động phản dân hại nước của y. Phan Văn Trị công kích luận điệu của Tường bằng bài thơ "Hát bội".

Cuộc bút chiến dưới hình thức họa thơ nổ ra từ đó. Tôn Thọ Tường làm 10 bài thơ liên hoàn tự thuật, tán dương sức mạnh vật chất của thực dân, cho rằng lực lượng kháng chiến non kém khó mà địch nổi, và trong thực tế cuộc kháng chiến đang lâm vào cảnh bi thảm. Cho nên người trí thức khôn ngoan là phải biết tùy thời.[24]

Họa lại những bài thơ ấy, Phan Văn Trị đã đả kích Tôn Thọ Tường bằng những lập luận sắc sảo, bằng những hình tượng độc đáo, bằng những ngôn từ rất đắt...Trong cuộc họa thơ này, Phan Văn Trị đã lôi cuốn được đông đảo sĩ phu Nam Kỳ vào cuộc như Bùi Hữu NghĩaHuỳnh Mẫn ĐạtLê Quang Chiểu..[25].

Trích một bài thơ họa:

Hơn thua chưa quyết đó cùng đây,

Chẳng đã nên ta phải thế này.

Bến Nghé quản bao cơn lửa cháy,

Cồn Rồng dầu mặc muội tro bay.

Nuôi muông giết thỏ còn chờ thủa,

Bủa lưới săn nai cũng có ngày.

Đừng mượn hơi hùm rung nhát khỉ,

Lòng ta sắt đá, há lung lay.

Tưởng nhớ Phan Văn Trị

Đức độ và tài năng của Phan Văn Trị đã làm cho nhiều người cảm phục. Trong số đó có cai tổng Định Bảo tên là Lê Quang Chiểu[26] xem ông như một bậc thầy, nên đã giới thiệu người em gái con cô con cậu là Đinh Thị Thanh[27] (1835 – 26 tháng 6 năm 1911) kết duyên cùng ông Trị.

Ông Chiểu cũng cho người dựng một mái nhà tranh lá cho Phan Văn Trị nương náu và khi ông Trị mất đã được chôn trên phần đất của vị cai tổng này.

Trước 1975, vì là vùng chịu nhiều bom đạn, nên cơ ngơi bằng gạch bề thế của ông Chiểu cũng đã đổ nát hết, và căn nhà tre lá của cử nhân Trị cũng không còn sót lại bất cứ vật dụng gì. Tại xã Thạnh Phú Đông, quê hương Phan Văn Trị, đầu năm 1998, chính quyền huyện Giồng Trôm (tỉnh Bến Tre) cũng đã cho xây dựng nhà tưởng niệm Phan Văn Trị. Công trình đã hoàn thành vào dịp kỷ niệm 89 năm ngày mất của ông (22 tháng 6 năm 1999).

 Năm 2005, chính quyền cùng nhân dân đã cho xây dựng đền thờ, trùng tu phần mộ Phan Văn Trị và cải táng mộ vợ ông ở gần đó về nằm cận kề, trong khu đất rộng, phía trước là con lộ trải nhựa rộng khoảng 5 m và con rạch Cái Tắc, thuộc ấp Nhơn Lộc I, thị trấn Phong Điền, huyện Phong Điền, thành phố Cần Thơ thành một nơi khang trang, rộng rãi và đẹp đẽ.  và hàng năm, đều có tổ chức lễ giỗ trọng thể.

Hiện nay, nhiều trường học, đường phố ở nhiều nơi mang tên Phan Văn Trị.

Lời bình Ngân Triều

Hai bài thơ xướng họa độc đáo lấy tích từ truyện Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa.

Tôn Phu Nhân là em ruột Tôn Quyền, vua nước Đông Ngô đời Tam Quốc. Tôn Quyền căm thù Lưu Bị về việc Lưu Bị đã phổng tay trên, chiếm Kinh Châu không tốn một mũi tên hòn đạn, trong khi Đông Ngô phải hao tốn tiền của, hao tướng tốn quân khi đánh nhau chí chết với đại quân của Tào.  Để rửa hận, Tôn Quyền theo kế của quân sư Châu Du tự là Công Cẩn giả bộ cầu thân với Lưu Bị vua nước Hán (nước Thục). Tôn Quyền mời Lưu Bị qua Giang Đông nói là gả em gái để kết tình lân bang giao hảo, định dùng phục binh giết chết trong tiệc rượu. Âm mưu sắp đặt bí mật không tiết lộ bên ngoài.

 Khổng Minh là quân sư của Lưu Bị biết rõ âm mưu thâm độc của Tôn Quyền liền bày kế cho Lưu Bị, khi sang đất Ngô.  Khi Lưu bị đến kinh thành Đông Ngô, cho ba quân cận vệ ăn mặc sang trọng, chi tiền hào phóng, vào chợ tuyên bố ầm lên là vua nước Thục  được vua nước Ngô mời sang để gả em gái. Việc nầy thấu tai đến bà Ngô Quốc Thái, mẹ của Tôn Quyền.  Biết mưu mô xảo quyệt của Tôn Quyền, Bà cho gọi Tôn Quyền, mắng cho một trận, rằng tại sao lại dụng kế tiểu nhân để tiếng nhơ muôn đời, và con gái của Bà mang tiếng dang dở một đời chồng.  Cuối cùng, nhận thấy Lưu Bị là người đạo đức, có chân mạng đế vương, bà buộc Tôn Quyền phải tôn trọng lời hứa và nhất quyết gả con gái cho Lưu Bị. Tôn Phu Nhân không rõ mưu kế của anh, vâng lời mẹ kết duyên với Lưu Bị. 
Thất bại mưu kế hại Lưu Bị, Tôn Quyền định dùng quyền tước và phú quý mua chuộc Lưu Bị để 
giam lng ông ở Đông Ngô. Cuối cùng, cũng theo mưu kế sắp sẵn của Khổng Minh và lòng cương quyết theo chồng cho trọn đạo tòng phu của Tôn Phu Nhân, nên cả hai vợ chồng Lưu Bị trở về đất Hán được bình yên.

Nhìn lại cuộc bút chiến giữa Phan Văn Trị và Tôn Thọ Tường qua bài thơ Tôn Phu Nhân Qui Thục . Có thể đây là một hiện tượng hiếm hoi trong lịch sử văn học Việt Nam, một cuộc bút chiến, xướng họa thơ giữa hai nhà Nho   Tôn Thọ Tường và Phan Văn Trị. Trong thời điểm đất nước đang bị thực dân Pháp xâm lược. Cuộc bút chiến nầy đã góp phần làm phong phú nền văn học nước nhà, có thể gọi một hiện tượng "vô tiền khoáng hậu". Việc họa thơ văn từ trước tới nay vẫn thường xảy ra trên văn đàn, nhưng họa xướng theo đúng nghĩa của nó, xem ra chỉ có Phan Văn Trị và Tôn Thọ Tường, và đó chính là một đề tài, để chúng ta cùng tham khảo. 
     Bài thơ nầy Tôn Thọ Tường đã mượn tâm sự của một Quận Chúa đất Giang Đông, Tôn Phu Nhân đi theo chồng về đất Thục, thanh minh việc ông ra hợp tác với Pháp:

Hai câu đề [xướng]: (TTT)

Cật ngựa thanh gươm vẹn chữ tòng  (1)

Ngn Thu rạng tiết gái Giang Đông 

𦛋                    𡦂      (1)

𠦳              𡛔         

Việc xuất giá tòng phu của TPN là đúng và rỡ ràng.

“Đúng” là việc lấy chồng và theo chồng về Hán là Lưu Bị của nàng đã được mẹ, Bà Quốc Thái và anh ruột là Tôn Quyền đồng ý tác hợp và cũng đúng với truyền thống Nho gia là người con gái phải ứng xử phù hợp với phẩm hạnh tứ đức, tam tòng.

Rỡ ràng là theo chồng, không phải bỏ nhà theo trai và phong cách ra đi rất lẫm liệt,[28] hiên ngang, “cật ngựa, thanh gươm”, như thói quen khác lạ, ưa thích phong cách anh hùng mã thượng của nàng.

-Việc theo chồng của TPN là đúng và rỡ ràng cũng như việc theo Tây của tôi (TTT).

Hai câu đề [họa]: (PVT)

Cài trâm sửa áo vẹn câu tòng,

Mặt ngả trời chiều biệt cõi Đông.

掑橬𢯢襖院句從 (1’)

𩈘𨁟𡗶𣊿𡎝

Phong cách và thời gian theo chồng của TPN.

Cài trâm sửa áo là có chuẩn bị trước cho sự ra đi.

Mặt ngả: cúi mặt, tâm lý và thái độ của kẻ đã làm điều không đúng; trời chiều: trời sắp tối; ra đi một cách không quang minh chính đại mà có vẻ lén lút, e dè.

Biệt cõi Đông: xa cõi Đông nghìn trùng (tức là đến với cõi Tây, nơi Thực dân Pháp)

*TTT theo Tây, có sự sắp đặt trước, lén lút. Thật là xấu hổ thay!

 Hai câu thực [xướng]: (TTT)

Lìa Ngô bịn rịn chòm mây bạc,

Về Hán thờ ơ mảnh má hồng.

𥾽緬笘𩄲 (3)

衛漢徐於𤗖𦟐

Nỗi niềm riêng khi TPN đi theo chồng.

Tuy về Ngô, lòng tôi (TPN) vẫn thương nhớ cha mẹ, bịn rịn chòm mây bạc. Tuy về Hán, theo chồng nhưng bản thân, mảnh má hồng, còn đâu niềm vui lúc trước, thân phận sẽ rất thờ ơ.[29]

 Bịn rịn” thương nhớ tha thiết, không khuây, lưu luyến như không muốn rời xa; “chòm mây bạc”  tức là  mây trắng trong điển tích “bạch vân tư thân”[30]      thường dùng để chỉ tấm lòng thương nhớ cha mẹ, quê hương

Khi theo chồng về Hán, tôi (TPN) chắc rằng đời tôi sẽ vô vị, buồn tênh.

-Dẫu phải rời xa quê, lòng tôi (TTT) vẫn đoái tưởng đến cha mẹ già, quê hương. Dẫu phải sống với giặc Tây, lòng tôi vẫn cứ lạnh lùng, nhạt nhẽo.

Hai câu thực [họa]: (PVT)

Khói tỏa đồi Ngô un sắc trắng,     (3’)

Duyên về đất Thục đượm màu hồng

𤌋鎖隤吳印𤽸, (3’)

縁衛坦蜀淡牟紅.

Cảnh và tình khi TPN theo chồng.

Khói tỏa là khói lửa lan rộng ra, chỉ cuộc chiến giữa các phong trào đấu tranh chống Pháp ngày càng sôi động khắp nơi; đồi Ngô, là Đông Ngô là quê hương của TPN, chỉ quê hương; un là còn cháy, trong tro còn lửa, chưa tắt; đượm  là đậm, màu hồng nghĩa bóng là sung sướng, hạnh phúc; đượm màu hồng là sung sướng, hạnh phúc  dạt dào, bội phần.

·               Khi theo giặc ra đi, mắt ông (TTT) có thấy quê hương ta đang chìm trong khói lửa chiến tranh tang tóc, và các cuộc kháng chiến chống giặc lan rộng, khắp nơi, đến bây giờ vẫn còn nóng ngầm, chưa tắt. Vậy mà ông vẫn ngó lơ, theo giặc để một mình giàu sang phú quý, vinh thân phì gia.

Hai câu luận [xướng], (TTT):

Son phấn đành cam dày gió bụi    (5)

Đá vàng chi để thẹn non sông

𣘈                 𠼪    𩙍    𡏧    (5)

𥒥                𢢆    𡽫     

Son phấn, tu từ hoán dụ, chỉ (TPN) sẽ dập vùi cùng gió bụi vì thân gái 12 bến nước, trong nhờ đục chịu; dù tấm thân bị dập vùi trong gió bụi, nàng cũng đành chấp nhận duyên phận của mình, không bao giờ lỗi đạo; đá vàng là chuyện son sắt thủy chung, nhắc làm chi cho thẹn với non sông, tức là không chung tình với Triều đình Huế. (Có lẽ, triều đình Huế chưa từng hậu đãi TTT và ông đã từng theo sứ bộ của Phan Thanh Giản sang Pháp thấy nền văn minh và sức mạnh của Pháp cho nên làm sao ông có thể trân trọng, thủy chung[31] với nước, với dân?

-Theo giặc, thân tôi, (TTT), đành cam dập vùi trong gió bụi,

Chuyện thủy chung nói làm gì cho thẹn với non sông, (với nước, với dân).

Hai câu luận [họa] (PVT)

Hai vai tơ tóc bền trời đất,

Một gánh cương thường nng núi sông

𠄩    𦠘        𩯀    𥾽    𡗶        (5’)

                𥘀    𡶀    

Luận về tơ tóc và cương thường.

Tơ tóc là kết tóc xe tơ; kết tóc do chữ Hán là kết phát[32] . Ở đây, hai vai tơ tóc là ca ngợi TPN giữ đúng đạo nghĩa tứ đức tam tùng, bỏ xứ theo chồng thì tiếng khen mãi mãi bền cùng trời đất.

Cương thường[33] là tam cương và ngũ thường, quy định của Nho giáo về cách ứng xử của người con trai trong xã hội phong kiến.

TPN là vậy, còn nam nhi, một gánh cương thường như ông, (TTT) thì ông phải làm gì để trả ơn sâu nghĩa nặng cho đất nước quê hương?

Phải chăng PVT đã nói thẳng với TTT rằng: “Tôn Phu Nhân đã vẹn hai vai tơ tóc” là trọn đạo thờ chồng. Gánh cương thường của TPN là đem lại hòa khí và an bình cho hai nước. Còn ông, ông theo về với Pháp có đúng theo “gánh cương thường” không? Nếu không, ông đã bất trung với Vua, bất nghĩa đối với nước mãi quốc cầu vinh, vậy còn khoe khoang đạo nghĩa làm gì nữa?

Hai câu kết [xướng], (TTT)

Ai về nhắn với Chu Công Cẩn

Thà mất lòng anh đặng bụng chồng

唉衛𠴍𠇍周公謹  (7)

𠅍𢚸偀鄧 夫重

          Lời nhắn gởi của tác giả.

Chu Công Cẩn là quân sư và vị tướng tài giỏi nhất của Tôn Quyền. Ở đây, TTT muốn nói đến nhóm nhà Nho đối lập với mình; mất lòng anh là mất lòng Chu Công Cẩn hay là mất lòng quý anh, những người đối lập; đặng bụng chồng  là được lòng thực dân Pháp.

-Xin cho tôi (TTT) nhắn gởi với quý anh điều nầy. Thà mất lòng quý anh, mà được lòng người Pháp thì cũng thỏa lòng rồi!

Hai câu kết [họa], (PVT)

Anh hi! Tôn Quyền, anh có biết?

Trai ngay thờ chúa gái thờ chồng.

                    𣎏        (7’)𤳆    𣦍    𥚤        𡛔    𥚤  夫重

Thác lời của TPN nói với anh ruột là Tôn Quyền.

Anh Tôn Quyền[34] ơi! Anh có biết? Tác giả PVT vừa thác lời TPN nói vói anh mình vừa nói thẳng thừng với TTT vì Tôn Quyền và TTT cùng một họ Tôn. Đây là một câu hỏi tu từ để người trong cuộc tự trả lời.

- Này anh TTT, anh có biết không? Trai ngay thì thờ chúa, cũng như người con gái ngay thì thờ chồng.

          Anh đi theo giặc, mãi quốc cầu vinh, không thờ chúa, vậy anh có phải người ngay không?

(Khen Tôn Phu Nhân là người đàn bà, biết giữ tròn đạo nghĩa bao nhiêu thì PVT lại chê trách TTT bấy nhiêu. TTT là trang nam nhi thì làm thế nào giống như hoàn cảnh của Tôn Phu Nhân được. Xưa nay, người con gái ngay, tiết hạnh là phải làm tròn bổn phận người vợ hiền; người con trai ngay phải trọn đạo cương thường, làm tôi đối với chúa. Trong lúc non sông nghiêng ngửa như thế nầy, mà ông, (TTT), quay lưng ra hợp tác với kẻ thù cướp nước thì sao lại gọi là “ trai ngay” được?!

Khái quát lên, có phải chăng chính Ông (TTT) là kẻ phản bội tổ quốc, gian trá điêu ngoa) (?).

 Ý thơ đúng theo cốt truyện, đúng theo phong cách ngôn ngữ nói. Bút pháp ứng đối đốp chát, không khoan nhượng của một nhà thơ soi sáng cho người bạn thơ, đứng trên quan điểm, lập trường của lẽ phải, yêu nước, thương dân. 

Tóm lại, những vần thơ thời thế của Tôn Thọ Tường và Phan văn Trị  đã phản ánh những biến cố lịch sử trong buổi giao thời của hai nền văn minh Đông - Tây bắt đầu đối kháng và ưu thế thuộc về nền văn minh Tây phương. 

Chúng ta thấy, cả hai ông đều dùng văn thơ để bày tỏ tâm sự và chí hướng, vì thế thơ văn của hai ông rất chân thành, dễ rung cảm lòng người, nhất là một cuộc bút chiến, xướng – họa thực sự đúng theo ý nghĩa của nó.

Đây là một hiện tượng hiếm thấy trong nền văn học Việt Nam[35].

Cái độc đáo trong ý thơ và ngôn từ, trong tư tưởng chính diện và phản diện, trong phong cách xướng họa là ở chỗ sâu lắng và thú vị đó vậy. ֎

Ngân Triều



[1] Tôn Phu Nhân:  Tôn phu nhân (chữ Hán: 孫夫人), không rõ năm sinh năm mất, là một người vợ của Thục chúa Lưu Bị, người đã lập ra Thục Hán vào thời kì thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc.

Theo những gì ít ỏi được viết về bà, Tôn thị là con gái duy nhất và là con nhỏ nhất của Trường Sa thái thú Tôn Kiên, và là em gái của Tôn Sách và Tôn Quyền, những người tạo dựng cơ nghiệp nước Đông Ngô, một thế lực từng lập liên minh với Thục Hán trong một thời gian dài trước khi trở mặt. Bà không được ghi lại tên thật, nhưng thường được biết đến với tên Tôn Nhân (孫仁) trong Tam Quốc diễn nghĩaTôn Thượng Hương (孫尚香) trong Kinh kịch. Ngoài ra, bà còn có tên khác nữa là Cung Yêu Cơ (弓腰). 

[2] Trăm năm bia đá thì mòn,
Nghìn năm bia miệng hãy còn trơ trơ.

     Ca dao

[3] Giang Đông là ở phía Đông sông Trường Giang, lãnh thổ của Đông Ngô.

[4] Ngô: Nhà Đông Ngô dưới sự cai trị của Tôn Quyền thời Tam Quốc.

[5] Bịn rịn: thương nhớ không khuây, bứt đi không đặng, ấy là đi không đứt, bứt không rời.

[6] Hán, nhà Thục Hán, dưới sự cai trị của Lưu Bị, thời Tam Quốc.

[7] Thờ ơ: 𥚤 là chểnh mảng, nhạt nhẽo, không thiết tha.

[8] Son phấn: phẩm vật trang điểm, làm đẹp, tu từ hoán dụ, chỉ người con gái. Ở đây cả câu ý muốn nói, tài năng sẽ chôn vùi trong gió bụi, không bao giờ dùng đến nữa.

[9] Đá vàng: chữ Hán là kim thạch, chỉ chuông vạc bằng đồng và bi kệ bắng đá, đời xưa người ta dùng để khắc ghi công trạng cho được bền lâu. Nghĩa bóng chỉ lòng trung thành hay tình yêu bền vững hay tiết tháo kiên trinh.

Sớm đào tối mận lân la,

Trước còn trăng gió, sau ra đá vàng.
Kiều, Nguyễn Du, câu 1289-1290.

[10] Chu Công Cẩn: Tức Chu Du, một quân sư và tướng tài giỏi của Tôn Quyền.

[11] Tơ tóc là kết tóc xe tơ. Kết tóc do chữ Hán là kết phát, con trai đến tuổi kết tóc để đội mũ, con gái đến tuổi kết tóc để cài trâm gọi là tuổi kết hôn. Xe tơ: tức là cho kết hôn. Theo điển Nguyệt Lão xe chỉ hồng buộc chân vợ chồng với nhau, thành vợ thành chồng. Ở đây ý nói trân trọng tình nghĩa vợ chồng với nhau.

[12] Tam cươngtam là ba, cương ( cang) là giềng mối. Tam cương là ba mối quan hệ: quân thần (vua tôi), phụ tử (cha con), phu thê (chồng vợ). Trong xã hội phong kiến, những mối quan hệ này được các vua chúa lập ra trên những nguyên tắc “chết người”.

1. Quân thần: ("Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung" nghĩa là: dù vua có bảo cấp dưới chết đi nữa thì cấp dưới cũng phải tuân lệnh, nếu cấp dưới không tuân lệnh thì cấp dưới không trung với vua)Trong quan hệ vua tôi, vua thưởng phạt luôn luôn công minh, tôi trung thành một dạ.

2. Phụ tử: ("phụ sử tử vong, tử bất vong bất hiếu nghĩa là: cha khiến con chết, con không chết thì con không có hiếu)").

3. Phu thê: ("phu xướng phụ tùy" nghĩa là: chồng nói, vợ phải nghe theo).

Ngũ thườngngũ là năm, thường là hằng có. Ngũ thường là năm điều phải hằng có trong khi ở đời, gồm: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.

1. Nhân: (tính người) Lòng yêu thương đối với muôn loài vạn vật.

2. Nghĩa: Cư xử với mọi người công bình theo lẽ phải.

3. Lễ: Sự tôn trọng, hòa nhã trong khi cư xử với mọi người.

4. Trí: Sự thông biết lý lẽ, phân biệt thiện ác, đúng sai.

5. Tín: Giữ đúng lời, đáng tin cậy.

[13] Bấy lâu các sách Việt ngữ đều in câu bảy là “Anh hỡi Tôn Quyền, anh có biết” đọc làm vậy, tin làm vậy cho đến hôm nay nhìn trong bổn chữ nôm nầy, thấy viết: “Anh hỡi Tôn công, anh có biết”, nghiệm ra chữ đó có phần “ổn” hơn, “êm” hơn, vì phép xưa có lẽ nào Tôn quận chúa là người văn hay võ giỏi lại “hỗn” như thế. Đối với anh, một vị vương, kêu xếch mé làm sao nên? Vậy xin đính chính, và dám nhờ các bậc cao minh phủ chính cho.

 “Anh hỡi Tôn công...” chữ “công” đáng giá ngàn vàng! (tôi thiệt có phần với sách mới gặp bổn chữ nôm nầy.

[Thiết nghĩ trong đối thoại thì dùng Tôn Công rất đúng lễ. Ở đây tác giả sử dụng Tôn Quyền, chỉ Tôn Thọ Tường có lẽ hay hơn].NT.

           Học giả Vương Hồng Sển trong Thú chơi sách có đính chính như trên.

[14] Theo GS. Trịnh Vân Thanh, Thành ngữ điển tích danh nhân từ điển (quyển 2) NXB. Hồn Thiêng, Sài Gòn1966. Nhưng Nguyễn Q. Thắng-Nguyễn Bá Thế thì cho là một chức quan "nhỏ" (không phải quan võ).

[15] GS. Trịnh Vân ThanhThành ngữ điển tích danh nhân từ điển (quyển 2), tr. 1246.

[16] Ghi theo Từ điển văn học (bộ mới, tr. 1403). Theo GS. Trịnh Vân Thanh (trang 1246) thì sau khi ông về dạy ở trường Hậu Bổ mới được thăng Đốc Phủ Sứ. 

[17] Tham biện Alix Salicetty bị nghĩa quân ở Vũng Liêm phục binh giết chết. Xem chi tiết ở trang Lê Cẩn. 

[18] Theo Quốc triều hương khoa lục của Cao Xuân Dục.

[19] Phong trào tị địa là trào lưu bất hợp tác với Pháp sau khi Pháp chiếm đóng Sài Gòn và ba tỉnh Miền Đông Nam Kỳ của tầng lớp quan lại, nho sĩ, những người yêu nước Việt Nam. Họ lánh khỏi các vùng bị Pháp chiếm đóng, đến lập nghiệp tại các nơi khác ở Nam Kỳ và Nam Trung Kỳ chờ thời cơ xây dựng lực lượng chống Pháp sau này.

[20]  Trích lời nói đầu trong tác phẩm Phan Văn Trị, cuộc đời và tác phẩm của Nguyễn Khắc Thuần và Nguyễn Quảng Tuân, NXB T.P HCM, 1986, tr.10-11.

[21] Vùng Ba Láng - Trà Niềng, khi xưa được gọi là Láng Hầm, nay thuộc thành phố Cần Thơ. Trà Niềng là tên một con rạch ở thị trấn Phong Điền, nằm cách khu đền mộ của nhà thơ Phan Văn Trị khoảng vài trăm mét.

[22] Bạch Mai thi xã gây được tiếng vang vào khoảng giữa thập niên 1850. Đó là nơi hội tụ của các vị khoa bảng như: Phan Hiển ĐạoBùi Hữu NghĩaHuỳnh Mẫn ĐạtNguyễn Đình ChiểuNguyễn Thông... Xu hướng chung của nhóm là ca ngợi thiên nhiên đất nước, đề cao thú vui của kẻ sĩ. Khi quân Pháp đánh chiếm vùng Gia Định thì thi xã cũng tan rã luôn.

[23] Thanh Lãng, Bản lược đồ văn học VN (quyển 2), Nxb Trình Bày, Sài Gòn, không ghi năm xuất bản, tr.56-57.

[24] Gió chiều nào theo chiều ấy.

[25]  Lê Chí Dũng, mục từ “Phan Văn Trị” trong Từ điển văn học, Nxb Thế Giới, 2004, tr. 1403.

[26]  Sau này, Cai tổng Chiểu cũng bỏ luôn quyền chức, đứng về phía những sĩ phu và nhân dân yêu nước. Trong trận bút chiến giữa Phan Văn Trị và Tôn Thọ Tường, ông Chiểu cũng có làm 10 bài thơ họa lại để đả kích Tôn Thọ Tường.

[27] Năm 1942, hai ông là Kiều Thanh Quế và Lê Thọ Xuân đã đến Phong Điền, gặp được học trò của Phan Văn Trị là Hồ Kim Đính, khi ấy đã già yếu và đang lâm bệnh nặng. Nhờ ông Đính chỉ dẫn, hai ông mới tìm ra ngôi mộ Phan Văn Trị đang nằm ở sau nhà ông Lê Quang Thừa. Đó là một nấm mộ "không có bia, không tam cấp đá, không có gò đất đắp vun lên…" (theo Kiều Thanh Quế, Hoài niệm vong linh Cử Trị: ngôi mả hoang. Tạp chí Tri TânHà Nội, số 75, 1949, tr.19-20). Như vậy, tấm bia rêu phong (ảnh), chắc có sau cuộc viếng thăm này. 

[28] Lẫm liệt là rét dữ, nghĩa bóng nói phong cách trang nghiêm, uy nghi làm cho mọi người tôn trọng và kính sợ.

[29] Thờ ơ: chểnh mảng, không thiết tha, nhạt nhẽo.

[30] Tích Ông Địch Nhân Kiệt, đời Đường, làm Tham Quân ở Tinh Châu, bận việc quân, nhiều năm chưa về vấn an cha mẹ ở Hà Dương.  Một hôm, lên núi Thái Hàng, Ông chợt nhìn thấy một đám mây trắng ở cuối chân trời.  Lòng bồi hồi, ngậm ngùi bảo thủ hạ: “Nhà cha mẹ già yếu của ta ở dưới đám mây trắng đó”...Rồi giọt ngọc tuôn rơi.

        Bốn phương mây trắng một màu,

Trông vời cố quốc biết đâu là nhà.

Kiều - Nguyễn Du, câu 1787-1788), 

[31] Thủy chung: thủy là đầu tiên, chung là cuối cùng. Ý đề cao một tấm lòng trước sao, sau vậy, mãi mãi không hề đổi thay.

[32] Kết phát, nghĩa là khi đến 20 tuổi kết tóc để đội mũ gọi là lễ gia quan 加冠 (thêm nón); con gái đến tuổi 15 thì được cài trâm (kê) để thể hiện mình là thiếu nữ trưởng thành có thể đem gả chồng được. Giảng nghĩa đen bám sát theo từ tố thì có thể hiểu đại khái “cập kê” 及笄 (cập) là tới[thời điểm cài] trâm(kê).

[33] Trích chú thích đã ghi bên trên số [64].

Tam cươngtam là ba, cương ( cang) là giềng mối. Tam cương là ba mối quan hệ: quân thần (vua tôi), phụ tử (cha con), phu thê (chồng vợ). Trong xã hội phong kiến, những mối quan hệ này được các vua chúa lập ra trên những nguyên tắc “chết người”.

1. Quân thần: ("Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung" nghĩa là: dù vua có bảo cấp dưới chết đi nữa thì cấp dưới cũng phải tuân lệnh, nếu cấp dưới không tuân lệnh thì cấp dưới không trung với vua)Trong quan hệ vua tôi, vua thưởng phạt luôn luôn công minh, tôi trung thành một dạ.

2. Phụ tử: ("phụ sử tử vong, tử bất vong bất hiếu nghĩa là: cha khiến con chết, con không chết thì con không có hiếu)").

3. Phu thê: ("phu xướng phụ tùy" nghĩa là: chồng nói, vợ phải nghe theo).

Ngũ thườngngũ là năm, thường là hằng có. Ngũ thường là năm điều phải hằng có trong khi ở đời, gồm: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.

1. Nhân: (tính người) Lòng yêu thương đối với muôn loài vạn vật.

2. Nghĩa: Cư xử với mọi người công bình theo lẽ phải.

3. Lễ: Sự tôn trọng, hòa nhã trong khi cư xử với mọi người.

4. Trí: Sự thông biết lý lẽ, phân biệt thiện ác, đúng sai.

5. Tín: Giữ đúng lời, đáng tin cậy. 

[34] Họ Tôn của Tôn Quyền cũng là họ Tôn của Tôn Thọ Tường. Như thế TTT mới đau.

[35] Thời Tây Sơn chúng ta cũng thấy có một cuộc bút chiến giữa một bên ca ngợi triều đại Tây Sơn và một bên đả kích Tây Sơn với thái độ hoài Lê. Đó là nội dung hai bài phú: Tụng Tây Hồ phú của Nguyễn Huy Lượng và Chiến tụng Tây Hồ phú của Phạm Thái, rất nổi tiếng.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét