TỤNG TÂY HỒ PHÚ
Nguyễn Huy Lượng
Tụng Tây Hồ phú
http://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%A5ng_T%C3%A2y_H%E1%BB%93_ph%C3%BA
Tây Hồ phú hay còn gọi là Tụng Tây Hồ Phú hoặc Tây Hồ cảnh tụng,
là một bài phú của Nguyễn Huy Lượng ca ngợi cảnh Hồ Tây, thông qua đó
ca ngợi sự nghiệp, công lao của triều đại Tây Sơn.
Hoàn cảnh ra đời
Năm 1801 vua Bảo Hưng nhà Tây Sơn ra thăm Thăng Long. Nhân tiết hạ
chí, ông làm lễ tế mùa hè ở đền Phương Trạch tại Hồ Tây, sai Nguyễn
Huy Lượng lúc bấy giờ đang là Chương lĩnh hầu, giữ chức quan Phụng
nghị bộ Lễ, soạn một bài thơ và một bài phú, đọc trong buổi lễ tế
ngày 21 tháng 6 năm Tân Dậu (1801). Bài thơ và bài phú này được nhà
vua rất tâm đắc và đã ban thưởng cho Nguyễn Huy Lượng hai quan tiền đồng.[1]
Tên gọi
Sau khi hai bài thơ và phú này ra đời, dân Hà thành ai cũng muốn có một
bản, nếu đã không đi tìm mua lại được họ mua giấy mực về chép lại. Do
đó sau này có nhiều dị bản và tên gọi khác nhau. Những tên gọi còn
ghi trong văn bản giữ lại được đến ngày nay là: Phong cảnh biệt chí;
Tây Hồ phú; Tây Hồ cảnh tụng... Nhưng người dân khi nói đến bài phú
này thì người ta thường gọi là Phú ông Lượng
Văn bản
Đây là bài phú chữ Nôm, gồm 86 liên, dùng chỉ một vần "hồ"
(độc vận). Do những văn bản của bài phú này đều là những bản chép
tay nên chúng không tránh khỏi có nhiều chỗ chép khác nhau. Hiện thư
viện Hán Nôm có bốn dị bản khác nhau về bài phú này.
1. Phong cảnh biệt chí (ký hiệu AB.377)
2. Tây Hồ phú được Vũ Khắc Tiệp cho đăng trên Vĩnh
Long Hưng thư quán, Hà Nội, 1931 (ký hiệu AB.299) [2]
3. Tây Hồ cảnh tụng (ký hiệu VNv.184) được in trong
sách: (Phú Việt Nam cổ và kim, Nxb. Văn hóa, H. 1962.)
4. Hợp tuyển thơ văn Việt Nam (TK. XVIII - TK XIX),
Nxb. Văn hóa, HN, 1963, Trang 155-162.[3]
Trong đó bản thứ nhất được cho là bản gần với nguyên tác hơn cả. Tạp
chí Hán Nôm tháng 2 năm 1988 đã cho đăng những khảo cứu về bài thơ và
bài phú này. Trong việc khảo cứu này lấy bản 1 làm bản nền. Các bản
còn lại sẽ được dùng để đối chiếu với bản 1. Nơi nào mà bản 1 tối
nghĩa thì thay vào bằng chữ có nghĩa ở bản khác. Trong việc chú
thích, có chú thích của nguyên bản (chủ yếu là Bản 2 và Bản 3, người
chú thích cũng có thể là chính tác giả, mà cũng có thể một ai đó về
sau) và chú thích bổ sung của những người khảo cứu.
Đánh giá
Cuốn "Thăng Long – Hà Nội ngàn năm văn hiến" viết: "Có
thể nói, trước và sau Nguyễn Huy Lượng, chưa hề có một tác phẩm nào
viết về non sông đất nước Thăng Long Hà Nội hay đến thế, đẹp đến thế.
Chỉ với một danh tác ấy cũng đủ xếp Nguyễn Huy Lượng vào hàng những
văn nghệ sĩ tài hoa bậc nhất Thăng Long. Áng văn Nôm trác tuyệt tân kỳ,
dân Hà thành hồi ấy gọi là "Phú ông Lựợng" trong khi đổ xô
đi tìm mua bản chép tay này… Người ta mua giấy mực về chép lại khiến
cho giá giấy phường Hàng Giấy, Hàng Gai vọt hẳn lên."[4]
Tụng Tây Hồ phú, một áng văn khiến người đọc say mê, rù rì đọc
từng chữ từng câu. Cái dư âm của nó quấn quýt mãi không rời. Những từ
láy lần đầu phát ra từ bài văn Nguyễn Huy Lượng và chẳng bao giờ lặp lại
nữa. Nghĩ đến văn chương vùng đất Thăng Long, người ta nhớ ngay đến
bài văn ấy, tác giả ấy. Thạc sĩ Phùng Hoài Ngọc nhận
xét.
Ngay cả đến Phạm Thái người đã làm bài phú mang tên Chiến tụng Tây Hồ
phú để đối lại bài Phú này của Nguyễn Huy Lượng cũng phải công nhận
đây là một bài phú rất hay qua chính lời dẫn của ông ta: Ta thấy ban
đầu thoạt đọc, ông cũng lấy làm hay, hỏi ngay: "Ai làm bài ấy mà
hay thế?"..."Bạn rằng: Chương Lĩnh hầu Hữu hộ Lượng
làm" thì ông thay đổi thái độ: "Ta rằng: Chao ôi! Hữu hộ Lượng
à! Xưa hắn làm tôi triều Lê, nay ra làm nguỵ lại còn tụng Tây Hồ mà
chẳng thẹn mặt... Nay nhân bỉ kẻ làm bài tụng, ta cũng làm bài Chiến
tụng để góp chút trò cười với đời"[5]
Chú thích
1. ^ Nguyên văn chú thích chữ Hán của văn bản
"Tây Hồ Phú" như sau: Hạ chí tiết, hành hạ chi lễ. Hoàng
triều Bảo Hưng Tân dậu niên, ngự tế Phương Trạch đàn tại Tây Hồ,
nhưng mệnh Lê triều Hương cống Hành Lễ bộ phụng nghị quan. Chương
lĩnh hầu soạn thi, phú các nhất thể, phụng ngự ban bao thưởng thanh
tiền nhị thập quán 2. Dịch: (Tiết hạ chí, làm lễ tế mùa hè. Năm Tân dậu
(1801) triều Bảo Hưng, nhà vua đến tế ở đền Phương Trạch tại Hồ Tây,
sai quan Phụng nghị bộ Lễ, đỗ hương cống triều Lê, là Chương lĩnh hầu
soạn thơ và phú, mỗi thứ một bài, được vua khen thưởng, ban cho 2
quan tiền đồng).
2. ^ Cuối bài phú này có ghi "Kiến Phúc Giáp
thân chi niêm, Nhị Thuỷ Nhị Cân Hương Đình Băng Mã lão phu bút thảo"
(Nhị Thuỷ Nhị Cân Hương Đinh Băng Mã lão phu chép lại vào năm Giáp
thân 1884 niên hiệu Kiến Phúc).
3. ^ Vũ Thanh Hằng, Bài thơ và bài phú ca ngợi cảnh
Hồ Tây của Nguyễn Huy Lượng, đăng trong tạp chí Hán Nôm 2-1988
4. ^ Thăng Long – Hà Nội ngàn năm văn hiến, Nxb Lao
động, 2009, trang 312
5. ^ Thăng Long –Hà Nôi ngàn năm văn hiến, Nxb Lao động,
tái bản lần 3-2009, trang 342.
Sách tham khảo
• Thăng Long –Hà Nôi ngàn năm văn hiến, Nxb Lao động,
tái bản lần 3, năm2009
• Tạp chí Hán Nôm 2-1988
*
TỤNG
TÂY HỒ PHÚ
Nguyễn Huy Lượng
邏 処 景 西 湖
1-Lạ thay cảnh Tây Hồ
邏 処 景 西 湖 .
Lạ thay cảnh Tây Hồ
謭 仌 挆 坦 勚 佂 憥
3-Trộm nhớ thuở đất chia chín cõi
牐 浪 低 廏 仺 沒 潄.
Nghe rằng đây đá mọc một gò
苉 白 猢 侟 於 刬 乄 缊 ,龍 王 阻 戼 潂 大 澤
5-Trước Bạch Hồ vào ở đó làm hang, long vương trở nên vùng đại trạch
畱 金 牛 由 侟 低 化 域 ,高 王 掏 振 脈 皇 都 .
Sau Kim Ngưu do vào đây hoá vực, Cao vương đào chặn mạch hoàng đô
曢 牐 噲 淫 潭 焔 泊
7-Tiếng nghe gọi Dâm Đàm, Lãng Bạc
景 噺 印 星 渚 冰 湖 .
Cảnh ngó in tinh chử, băng hồ
色 寅 寅 染 式 藍 鈎 ,肦 洞 碧 奛 瑨 匇 丠 丠
9-Sắc dờn dờn nhuộm thức lam xanh, ngỡ động bích nổi lên dòng lẻo lẻo
形 歰 歰 扝 怶 勾 昰 , 想 暈 銀 淶 笹 摼 岺 岺 .
Hình lượn lượn uốn vòng câu bạc, tưởng vầng ngân rơi xuống mảnh nhò
nhò
餘 懯 畝 搩 俼 吝 色
11-Dư nghìn mẫu nước trời lẫn sắc
钘 夝 边 花 礊 蜫 炞.
Trải bốn bên hoa cỏ nhiều mùa
盎 坦 嘑 惣 鳳 群 印 ,丗 浪 臺 上 月
13-Áng đất phơi mỏ phượng còn in, kẻ rằng đài thượng nguyệt
蠺 搩 吸 唅 纅 拯 喼 ,圤 噲 盞 中 酥 .
Vũng nước hút hàm rồng chẳng cạn, người gọi trản trung tô
座 石 塔 怒 厼 仙 底 宝
15-Toà thạch tháp nọ nơi tiên để báu
准 土 堆 箕 謩 客 畕 符 .
Chốn thổ đôi kia chỗ khách chôn bùa
笌 穆 郎 香 帞 拯 移 ,壦 歄 法 群 綋 功 扒 虎
17-Đền Mục Lang hương lửa chẳng rời, tay lưới phép còn ghi công bắt hổ
縆 真 武 顮 湄 儍 轉 ,旘 詟 煶
群 底 跡 緘 踨 .
Quán Chân Võ nắng mưa nào chuyển, lưỡi gươm thiêng còn để tích giam
rùa
崘 揼 怒 縆 千 年 妉 妉
19-Kề bến nọ quán Thiên Niên lớp lớp
隔 岸 箕 涼 万 保 乯 譍 .
Cách ngàn kia ghềnh Vạn Bảo nhấp nhô
座 金 蓮 夲 奛 味 香 ,廚 鎮 国 想 印 潂 靜 範
21-Toà kim liên sóng nổi mùi hương, chùa Trấn Quốc tưởng in vùng tĩnh
phạn
行 古 樹 闧 剹 翚 綠 ,場 奉 天 認 產 趣 沂 圩 .
Hàng cổ thụ gió rung bóng lục, tràng Phụng Thiên nhận sẵn thú Nghi Vu
玌 布 丐 繤 印 咜 府
23-Dấu Bố Cái rêu in nền phủ
境 堏 釘 花 崜 翓 廚 .
Cảnh Bà Đanh hoa khép cửa chùa
鐭 濽 忙 羕 頂 鷲 厼 箕 ,亼 組 鵲 疜 廊 叫 隻 隻
25-Trông mơ màng dường đỉnh Thứu nơi kia, vài tổ thước cuối làng kêu
chích chích
牐 彷 彿 肦 洞 桃 渉 怒 ,亖 曢 鐗 瑇 寨 漑 嗚 嗚 .
Nghe phảng phất ngỡ động đào mái nọ, mấy tiếng gà trong trại gáy o o
炉 石 塊 煵 槩 翝 怾
27-Lò Thạch Khối khói tuôn nghi ngút
涼 日 招 夲 迭 吢 籶 .
Ghềnh Nhật Chiêu sóng giật ỳ ồ
拉
垪 疜 桚 蝊 鈡 ,船 商 客 唉 氈 帆 徸 徸
29-Rập rềnh cuối bãi Đuôi Nheo, thuyền thương khách hãy chen buồm
bươm bướm
声 領 頭 湖 股
馭 ,塔 高 僧 群 螙 翓 徂 囐 .
Thanh lảnh đầu hồ Cổ Ngựa, tháp cao tăng còn hé cửa tò vò
榋 安 泰 箳 瑇 霜 整 癴
31-Chày Yên Thái nện trong sương chểnh choảng
歄 宜 蚕 啯 彮 搩 媭 禃 .
Lưới Nghi Tàm ngăn ngọn nước quanh co
柳 坡 箕 哾 絲 碧 彿 劥 ,梭 鶯 嘺 侼 坊 緈 錦
33-Liễu bờ kia bay tơ biếc phất phơ, thoi oanh ghẹo hai phường dệt gấm
蓮 蠺 怒 仼 錢 鈎 窻 蛧 ,帞 猠 慳 朩 社 啓 炉 .
Sen vũng nọ nảy tiền xanh lác đác, lửa đóm ghen năm xã gây lò
琴 覥 壋 樓 書 愌 喂
35-Cầm ve gảy lầu thư ánh ỏi
榺 陁 劸 案 偈 杁 寗
Mõ cuốc khua án kệ rì rù
潄 珠 龍 欺 彮 闧 媫 媭 ,回 戍 鼓 梄 崘 边 渉 竹
37-Gò Châu Long khi ngọn gió đưa quanh, hồi thú cổ thẳng kề bên mái
trúc
筃 伏 象 勠 暈 疩 螙 刧 ,曢 寒 砧 牐 隔 踲 槣 蘇 .
Non Phục Tượng lúc vầng trăng hé nửa, tiếng hàn châm nghe cách dải
sông Tô
圤 玩 境 矧 湶 璳 斷
39-Người ngoạn cảnh thẩn thơ đòi đoạn
客 收 閑 來 焔 曾 區
Khách thâu nhàn lai láng từng khu
摼 袄 氊 泣 泣 瑇 湄 ,歌 青 草 眷 彈 橮 我 甯
41-Mảnh áo tơi lớp xớp trong mưa, ca thanh thảo quyến đàn trâu ngã Nịnh
岞 船 竹 鄰 邏 苉 闧 ,曲 滄 良 媫 壗 檜 乴 周
Con thuyền trúc lân la trước gió, khúc thương lang đưa gánh củi chàng
Chu
圍 局 隱 每 芸 拯 少
43-Vầy cuộc ẩn mọi nghề chẳng thiếu
瀓 趣 戞 夝 伴 蘝 琘 .
Mượn thú vui bốn bạn gồm no
境 看 山 渚 擱 局 棋 峼 湶 乑 徘 徊 班 冷 兔
45-Cảnh Khán Sơn chưa gác cuộc cờ, lòng thơ đã bồi hồi ban lãnh thỏ
廊 望 市 群 冬 席 蔛 曢 琴 它 惱 訥 嶏 斜 烏
.
Làng Vọng Thị còn đông tiệc rượu, tiếng cầm đà não nuột buổi tà ô
客 吳 楚 悪 西 憹 珊 察
47-Khách Ngô Sở chợ tây ngồi san sát
圤 羲 皇 窗 北 漑 呸 哺.
Người Hi Hoàng song bắc gáy phi pho
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét