Mời quý bạn đọc bài thơ Cẩm Sắt của Lý Thương Ẩn, Ngân Triều chú giải:
Tiếng thơ nghẹn ngào trong Cẩm Sắt, phải chăng là tiếng hát yêu thương của ngàn năm
thương nhớ, giai điệu bất hủ của mối tình tha thiết đầu đời, vì hoàn cảnh phải
sinh ly nhưng tình yêu đó, vẫn mãi còn phảng phất bên lòng?
*
Tiểu sử Lý Thương Ẩn,
Lý Thương Ẩn,李商隱 [813-858], tự là Nghĩa Sơn, hiệu là Ngọc Khê Sơn. Người Huyện Hà Nội nay (1957) là phủ Hoài Khánh, Tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Ông sinh năm thứ 8, đời Đường Hiến Tông, hiệu Nguyên Hòa, năm 813 và mất năm thứ 8, đời Đường Huyền Tông, hiệu Đại Trung, năm 858, hưởng dương 45 tuổi, (theo truyền thống Á Đông cộng thêm 1 tuổi), tức là 46 tuổi.
Lúc thiếu thời, nhờ giỏi văn thơ nên được Lệnh Hồ Sở yêu, cho phép giao du với các con của mình.
Năm 837, 25 tuổi, nhờ thế lực của Lệnh Hồ Đào, con của Lệnh Hồ Sở, Thương Ẩn được chấm dỗ Tiến sĩ. Khi ấy, Vương Mậu Nguyên, trấn thủ Hà Dương, đối thủ chính trị của Lệnh Hồ Sở cũng nến tài của Thương Ẩn, cho ông giữ chức thư ký và gã con gái cho. Vì chuyện nầy, lệnh Hồ Đào cho ông là người vong ân.
Sau khi Mậu Nguyên qua đời, Thương Ẩn có đến kinh sư nhưng triều đình không ai tiến cử làm việc gì cả.
Sau đó, nhờ Trịnh Á, Thương Ẩn được bổ làm Phán quan. Khi Trịnh Á bị biếm ra đất Lĩnh Biểu, Thương Ẩn cũng đi theo. Sau ba năm, về triều, được bổ làm truyện Tào tại Kinh Triệu.
Khi Lệnh Hồ Đào lên làm Tể Tướng, ông có dâng thơ trần tình nhiều lần nhưng Hồ Đào không xem xét chi cả.
Cuối cùng, Liễu Trọng Hĩnh, trấn thủ miền Đông Thục dùng ông làm Tiết Độ Phán quan kiêm Hiệu Công Bộ viên ngoại lang.
Về sau, họ Liễu bị bãi quan, ông cũng mất chức.
Ông trở về đất Oanh Dương, bệnh nặng, qua đời.
*
Lý Thương Ẩn nổi tiếng ngang với Ôn Đình Quân và Độ Mục. Người đương thời mến mộ, còn gọi ông vớicái tên Ôn Lý và Lý Đỗ.
Tương truyền Thương Ẩn đã yêu nữ đạo sĩ Tống Hoa Dương và các cung nữ Lư Phi Loan, Khinh Phụng. Những bài thơ Vô đề do ông sáng tác đều do cảm hứng từ những mối tình bí ẩn nầy.
Về tác phẩm:
-Phàn Nam Giáp tập (20 quyển)
-Ất tập (20 quyển)
-Ngọc Khê Sinh thi ( 3 quyển)
= Phú (1 quyển) và (1) quyển văn.
*
Vương An Thạch khen thơ ông có cái vẻ tài tình của thơ Đỗ Phủ.
Đời Tống, Dương Ức và Lư Tử Nghi mô phỏng thơ ông, soạn ra tập thơ Tây Côn thù Xướng nên thơ ông còn có tên là Tây Côn Thể.
Lý Thương Ẩn,李商隱 [813-858], tự là Nghĩa Sơn, hiệu là Ngọc Khê Sơn. Người Huyện Hà Nội nay (1957) là phủ Hoài Khánh, Tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Ông sinh năm thứ 8, đời Đường Hiến Tông, hiệu Nguyên Hòa, năm 813 và mất năm thứ 8, đời Đường Huyền Tông, hiệu Đại Trung, năm 858, hưởng dương 45 tuổi, (theo truyền thống Á Đông cộng thêm 1 tuổi), tức là 46 tuổi.
Lúc thiếu thời, nhờ giỏi văn thơ nên được Lệnh Hồ Sở yêu, cho phép giao du với các con của mình.
Năm 837, 25 tuổi, nhờ thế lực của Lệnh Hồ Đào, con của Lệnh Hồ Sở, Thương Ẩn được chấm dỗ Tiến sĩ. Khi ấy, Vương Mậu Nguyên, trấn thủ Hà Dương, đối thủ chính trị của Lệnh Hồ Sở cũng nến tài của Thương Ẩn, cho ông giữ chức thư ký và gã con gái cho. Vì chuyện nầy, lệnh Hồ Đào cho ông là người vong ân.
Sau khi Mậu Nguyên qua đời, Thương Ẩn có đến kinh sư nhưng triều đình không ai tiến cử làm việc gì cả.
Sau đó, nhờ Trịnh Á, Thương Ẩn được bổ làm Phán quan. Khi Trịnh Á bị biếm ra đất Lĩnh Biểu, Thương Ẩn cũng đi theo. Sau ba năm, về triều, được bổ làm truyện Tào tại Kinh Triệu.
Khi Lệnh Hồ Đào lên làm Tể Tướng, ông có dâng thơ trần tình nhiều lần nhưng Hồ Đào không xem xét chi cả.
Cuối cùng, Liễu Trọng Hĩnh, trấn thủ miền Đông Thục dùng ông làm Tiết Độ Phán quan kiêm Hiệu Công Bộ viên ngoại lang.
Về sau, họ Liễu bị bãi quan, ông cũng mất chức.
Ông trở về đất Oanh Dương, bệnh nặng, qua đời.
*
Lý Thương Ẩn nổi tiếng ngang với Ôn Đình Quân và Độ Mục. Người đương thời mến mộ, còn gọi ông vớicái tên Ôn Lý và Lý Đỗ.
Tương truyền Thương Ẩn đã yêu nữ đạo sĩ Tống Hoa Dương và các cung nữ Lư Phi Loan, Khinh Phụng. Những bài thơ Vô đề do ông sáng tác đều do cảm hứng từ những mối tình bí ẩn nầy.
Về tác phẩm:
-Phàn Nam Giáp tập (20 quyển)
-Ất tập (20 quyển)
-Ngọc Khê Sinh thi ( 3 quyển)
= Phú (1 quyển) và (1) quyển văn.
*
Vương An Thạch khen thơ ông có cái vẻ tài tình của thơ Đỗ Phủ.
Đời Tống, Dương Ức và Lư Tử Nghi mô phỏng thơ ông, soạn ra tập thơ Tây Côn thù Xướng nên thơ ông còn có tên là Tây Côn Thể.
Bức tranh có bài thơ Cẩm sắt của Lý Thương Ẩn, Google.
*
|
Cẩm sắt
Cẩm sắt vô đoan ngũ thập huyền, (1)
Nhất huyền nhất trụ tứ hoa niên. (2)
Trang sinh hiểu mộng mê hồ điệp, (3)
Vọng đế xuân tâm thác đỗ quyên. (4)
Thương hải nguyệt minh châu hữu lệ, (5)
Lam điền nhật noãn ngọc sinh yên. (6)
Thử tình khả đãi thành truy ức, (7)
Chỉ thị đương thì dĩ võng nhiên (8)
Lý Thương Ẩn [813-858]
.*
Bản chữ Hán
Cẩm sắt vô đoan ngũ thập huyền, (1)
Nhất huyền nhất trụ tứ hoa niên. (2)
Trang sinh hiểu mộng mê hồ điệp, (3)
Vọng đế xuân tâm thác đỗ quyên. (4)
Thương hải nguyệt minh châu hữu lệ, (5)
Lam điền nhật noãn ngọc sinh yên. (6)
Thử tình khả đãi thành truy ức, (7)
Chỉ thị đương thì dĩ võng nhiên (8)
Lý Thương Ẩn [813-858]
.*
Bản chữ Hán
Ngân Triều chép
theo bức tranh trúc bên trên:
錦 瑟
錦 瑟 无 端 五 十 弦
一 弦一 柱 思 华 年
庄 生 曉 夢 迷 蝴 蝶
望 帝 春 心 托 杜 鵑
錦 瑟
錦 瑟 无 端 五 十 弦
一 弦一 柱 思 华 年
庄 生 曉 夢 迷 蝴 蝶
望 帝 春 心 托 杜 鵑
沧 海 月 明 珠 有 泪
蓝 田日 暖 玉 生 烟
此 情可待 成 追 忆
只 是当時 已 惘 然
李商隱 [813-858]
蓝 田日 暖 玉 生 烟
此 情可待 成 追 忆
只 是当時 已 惘 然
李商隱 [813-858]
*
Chú
giải
Cẩm sắt, 錦 瑟 : Có người dịch là đàn gấm, nhưng trên thực tế là cây đàn sắt có chạm trổ. Ðàn sắt là loại đàn lớn làm bằng gỗ cây ngô đồng. Ðàn sắt và đàn cầm là hai loại đàn cổ, chữ cầm sắt ,loan phụng hòa minh, sắt cầm hảo hiệp: 鸞 鳯和 鳴/ 瑟 珡 好 合 thường dùng nhằm chỉ vợ chồng hoà hợp, như đàn sắt đàn cầm hoà nhau. Theo Daijigen (Ðại từ nguyên), cẩm sắt là mỹ danh của cây đàn sắt.
Vô đoan : 无 端 do đâu, từ đâu, không có lý do.
Ngũ thập huyền : 五 十 弦 Theo truyền thuyết, khi Tố Nữ gẩy đàn sắt tế trời theo lệnh vua Phục Hy, đàn này có 50 dây. Nhưng vì tiếng đàn quá ai oán não nùng, Phục Hy cấm không cho sử dụng đàn này nữa. Sau đó, vì dân chúng vẫn không chịu tuân lệnh, Phục Hy mới cho phép dùng nửa số dây, từ đó đàn sắt chỉ có 25 dây (theo ‘Phong thiền thư’, Sử ký của Tư Mã Thiên; hoặc ‘Giao tự chí’, Hán thư của Ban Cố đời Hậu Hán).
Trụ : 柱 trụ; trục; hay ‘con nhạn’ đỡ dây đàn (huyền).
Hoa niên : 华年 Thanh xuân; tuổi trẻ; thời kỳ tươi đẹp nhất của đời người,
Tư, tứ : 思 nghĩ, nhớ; ở đây dùng theo nghĩa ‘gợi nhớ’. Mỗi dây đàn, mỗi trục, chạnh nhớ lại tuổi hoa niên. Ðọc hai câu mở đầu, ta không khỏi liên tưởng đến hai câu hát ru con Việt Nam:
Hai tay cầm bốn tao nôi,
Tao thẳng tao dùi, tao nhớ tao thương
Ca dao (Nguyễn Xuân Kính, Đăng Nhật Phan,Kho tàng ca dao người Việt, NXB Văn hoá thông tin, 2001) – tuy dân dã mộc mạc nhưng có sức gợi cảm cũng vô cùng mãnh liệt.
Trang sinh : 荘 生 tức Trang Chu, nhà tư tưởng thời Chiến Quốc. Sách Trang Tử ghi lại những ngôn thuyết của Trang Tử cùng những người cùng phái, chủ trương là mọi việc trên đời như lớn nhỏ, khôn dại, sống chết, v.v. chẳng có gì khác nhau cho lắm; xem vô vi, tự nhiên là đạo đức cao nhất. Thuyết giải về sự khó phân biệt giữa tỉnh và mộng, sống và chết, thiên ‘Tề vật luận’ trong Trang Tử viết :
Ngày xưa, Trang Chu chiêm bao thấy mình hóa bướm bay nhởn nhơ khắp nơi, tự lấy làm thích chí, quên mình là Chu. Bất giác tỉnh giấc, thấy hình thù mình vẫn là Chu. Không biết Chu chiêm bao là bướm, hay bướm chiêm bao là Chu!(Hoài nghi là bản chất của triết học)
Vọng Đế : 望 帝 đế hiệu của vua Ðỗ Vũ nước Thục cuối đời Chu (nên còn gọi là Thục Đế). Tương truyền Vọng Đế ra lệnh bộ hạ là Biết Linh đi cứu lũ ở xa nhằm thừa dịp tư tình với vợ của Biết Linh. Sau đó Vọng Đế tự hổ thẹn về hành vi bất chính của mình, từ ngôi rồi mai danh ẩn tích hối hận mà chết. Hồn biến thành con chim cuốc, hay đỗ quyên. Tiếng kêu tiếc nước rất bi ai. Mỗi năm cứ vào tháng hai âm lịch (Vọng Đế rời đất Thục cũng vào tháng này), đêm đêm chim đỗ quyên lại cất tiếng sầu thảm. Bởi vậy, người nước Thục mỗi lần nghe tiếng chim đỗ quyên lại nhớ đến Vọng Đế.
Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc,
Cẩm sắt, 錦 瑟 : Có người dịch là đàn gấm, nhưng trên thực tế là cây đàn sắt có chạm trổ. Ðàn sắt là loại đàn lớn làm bằng gỗ cây ngô đồng. Ðàn sắt và đàn cầm là hai loại đàn cổ, chữ cầm sắt ,loan phụng hòa minh, sắt cầm hảo hiệp: 鸞 鳯和 鳴/ 瑟 珡 好 合 thường dùng nhằm chỉ vợ chồng hoà hợp, như đàn sắt đàn cầm hoà nhau. Theo Daijigen (Ðại từ nguyên), cẩm sắt là mỹ danh của cây đàn sắt.
Vô đoan : 无 端 do đâu, từ đâu, không có lý do.
Ngũ thập huyền : 五 十 弦 Theo truyền thuyết, khi Tố Nữ gẩy đàn sắt tế trời theo lệnh vua Phục Hy, đàn này có 50 dây. Nhưng vì tiếng đàn quá ai oán não nùng, Phục Hy cấm không cho sử dụng đàn này nữa. Sau đó, vì dân chúng vẫn không chịu tuân lệnh, Phục Hy mới cho phép dùng nửa số dây, từ đó đàn sắt chỉ có 25 dây (theo ‘Phong thiền thư’, Sử ký của Tư Mã Thiên; hoặc ‘Giao tự chí’, Hán thư của Ban Cố đời Hậu Hán).
Trụ : 柱 trụ; trục; hay ‘con nhạn’ đỡ dây đàn (huyền).
Hoa niên : 华年 Thanh xuân; tuổi trẻ; thời kỳ tươi đẹp nhất của đời người,
Tư, tứ : 思 nghĩ, nhớ; ở đây dùng theo nghĩa ‘gợi nhớ’. Mỗi dây đàn, mỗi trục, chạnh nhớ lại tuổi hoa niên. Ðọc hai câu mở đầu, ta không khỏi liên tưởng đến hai câu hát ru con Việt Nam:
Hai tay cầm bốn tao nôi,
Tao thẳng tao dùi, tao nhớ tao thương
Ca dao (Nguyễn Xuân Kính, Đăng Nhật Phan,Kho tàng ca dao người Việt, NXB Văn hoá thông tin, 2001) – tuy dân dã mộc mạc nhưng có sức gợi cảm cũng vô cùng mãnh liệt.
Trang sinh : 荘 生 tức Trang Chu, nhà tư tưởng thời Chiến Quốc. Sách Trang Tử ghi lại những ngôn thuyết của Trang Tử cùng những người cùng phái, chủ trương là mọi việc trên đời như lớn nhỏ, khôn dại, sống chết, v.v. chẳng có gì khác nhau cho lắm; xem vô vi, tự nhiên là đạo đức cao nhất. Thuyết giải về sự khó phân biệt giữa tỉnh và mộng, sống và chết, thiên ‘Tề vật luận’ trong Trang Tử viết :
Ngày xưa, Trang Chu chiêm bao thấy mình hóa bướm bay nhởn nhơ khắp nơi, tự lấy làm thích chí, quên mình là Chu. Bất giác tỉnh giấc, thấy hình thù mình vẫn là Chu. Không biết Chu chiêm bao là bướm, hay bướm chiêm bao là Chu!(Hoài nghi là bản chất của triết học)
Vọng Đế : 望 帝 đế hiệu của vua Ðỗ Vũ nước Thục cuối đời Chu (nên còn gọi là Thục Đế). Tương truyền Vọng Đế ra lệnh bộ hạ là Biết Linh đi cứu lũ ở xa nhằm thừa dịp tư tình với vợ của Biết Linh. Sau đó Vọng Đế tự hổ thẹn về hành vi bất chính của mình, từ ngôi rồi mai danh ẩn tích hối hận mà chết. Hồn biến thành con chim cuốc, hay đỗ quyên. Tiếng kêu tiếc nước rất bi ai. Mỗi năm cứ vào tháng hai âm lịch (Vọng Đế rời đất Thục cũng vào tháng này), đêm đêm chim đỗ quyên lại cất tiếng sầu thảm. Bởi vậy, người nước Thục mỗi lần nghe tiếng chim đỗ quyên lại nhớ đến Vọng Đế.
Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc,
Thương nhà mỏi
miệng cái gia gia,
Qua Đèo Ngang, Bà Huyện Thanh Quan.
*
Khắc khoải sầu đưa giọng lửng lơ
Ấy hồn Thục Đế thác bao giờ.
Năm canh máu chảy đêm hè vắng
Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ
Có phải tiếc Xuân mà đứng gọi,
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ.
Thâu canh ròng rã kêu ai đó?
Giục khách giang hồ dạ ngẩn ngơ!
Cuốc kêu cảm hứng, Nguyễn Khuyến
*
Xuân tâm : 春 心 , lòng xuân, còn có nghĩa như “xuân tình” : 春情tình yêu trai gái, tình yêu lứa đôi. Nguyễn Du cũng đã dùng chữ “xuân tình”, 春 情,tình mùa Xuân, tình của tuổi xuân thì, khi phỏng dịch đoạn thơ này trong Truyện Kiều:
Khúc đâu êm ái xuân tình,
Ấy hồn Thục Đế hay mình đỗ quyên.
ĐTTT, Nguyễn Du câu 3201-3202
*
Thương hải : 滄 海 Biển xanh, còn có nghĩa là biển rộng, biển cả. Thương hải cũng có khi dùng để chỉ tên một biển hư cấu ở cõi tiên.
Nguyệt minh châu hữu lệ : 月 明 珠 有 淚 Theo Văn tuyển (Lý Thiện chú thích), “khi trăng đầy, trai có ngọc (châu), khi trăng khuyết trai không có ngọc” (nguyệt mãn tức châu toàn, nguyệt khuy tức châu khuyết; 月滿卽珠全, 月虧卽珠缺). Theo cuốn Biệt quốc động minh ký thời Lục Triều, ngày xưa có người lặn xuống đáy biển tìm ngọc, lạc vào cung điện của nhân ngư, tìm được bảo ngọc do nước mắt của nhân ngư đọng lại. Ngoài ra, câu này còn có thể hiểu theo điển tích thương hải di châu, 滄海 移 珠 (hạt ngọc bỏ rơi trong biển cả), ngụ ý là người có tài mà không có chỗ thi thố.
Ngoài ra, thương hải còn có thể hiểu theo thành ngữ thương hải, tang điền, 蒼海桑田, biển xanh, ruộng dâu hay bể dâu, chỉ những biến cố ngoài sức tưởng tượng của con người, thương hải biến vi tang điền 蒼海變爲桑田, Biển xanh hóa thành nương dâu, bể dâu hay dâu bể
Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
ĐTTT, Nguyễn Du câu 3-4
*
Cơ trời dâu bể đa đoan,
Một nhà để chị riêng oan một mình.
ĐTTT, Nguyễn Du câu 715-716
*
Lam điền : 籃田tên một ngọn núi ở Thiểm Tây (Lam điền sơn), còn gọi là Ngọc sơn, nổi tiếng có nhiều ngọc đẹp và quý. Theo Sơn hải kinh, Ngọc sơn là nơi bà tiên Tây Vương Mẫu ở – chi tiết này khiến người đọc liên tưởng đến một cõi tiên hư cấu, giống như “Thương hải” trong câu 5.10
Ngọc sinh yên : 玉生烟 Theo Lục dị truyện, con gái Ngô Phù Sai là Tử Ngọc yêu
người lính hầu là Hàn Trọng nhưng không được Ngô vương chấp thuận, mang mối bi tình xuống tuyền đài. Một sáng, khi Ngô vương đang dùng lược chải tóc, nhìn ra vườn thấy có viên ngọc lớn màu tím chiếu sáng, phu nhân nghe nói chạy ra vườn, khi vừa ôm chầm hòn ngọc thì ngọc tan thành khói biến mất. Lại có thuyết cho rằng tứ thơ trong câu này lấy từ ý câu sau đây của nhà thơ Ðái Thúc Luân (732-789) thời Trung Ðường :
Thi gia chi cảnh như Lam Ðiền
nhật noãn lương ngọc sinh yên,
khả vọng nhi bất khả trí ư mi tiệp chi tiền dã.
詩 家 之 景 如 籃田
日暖良玉生烟
可 望 而 不可 知於眉睫之前也
(Cảnh đẹp đối với nhà thơ, tựa như viên ngọc quý bốc tan thành khói khi Lam Ðiền hửng nắng, chỉ có thể đứng nhìn từ xa chứ không được lại gần)
Khả đãi, 可待: khả đãi trợ từ có nghĩa là: phải, nên, đáng, có thể, chắc có thể, có lẽ, hình như…; hoặc là trợ từ nghi vấn: làm sao có thể…
Võng nhiên : 惘然 không biết gì cả, ngơ ngác như mất hồn, phôi pha.
Câu 7 có thể dịch là Tình này có thể trở thành một cái gì để ghi nhớ;
hoặc
tình nầy còn một chút gì, để nhớ để thương.
Câu 8 thời gian trôi qua, hàn gắn vết thương lòng thì tình duyên đó cũng đã nhạt nhòa, phôi pha.
*
Dịch nghĩa bài thơ Cẩm sắt:
Cây đàn gấm
Các cụ xưa thường cho bài nầy rất khó hiểu. Thật ra là bài thơ gồm những hình ảnh tượng trưng, ẩn dụ. Giải được những ẩn dụ hợp lý ấy ra, tức là hiểu được tiếng lòng của tác giả.
*
Cẩm sắt là một loại nhạc cụ bằng dây, đàn không có đầu, có 50 dây, mỗi dây buộc vào một trụ.
Mỗi dây mỗi trụ như gợi nhớ về lứa tuổi hoa niên ngày xưa.
Có lúc, giai điệu tiếng đàn êm ả như Trang sinh mơ giấc buổi sáng, thấy hóa thành con bướm bay lượn thanh thản, nhởn nhơ.
Có khi não nuột như tiếng kêu bi thiết của chim đỗ quyên thác lòng Vua Thục tiếc thương nước mất.
Còn tưởng, như âm vang thánh thót của những hạt châu nhỏ lệ, chạm nhau,
khi trăng sáng đầy trời, trên biển xanh xao động mênh mông.
Lại còn tưởng như trời hửng nắng ấm, chiếu tan những viên ngọc bốc khói ở núi Lam Điền.
Những nỗi niềm ấy, còn chăng là những ký ức xa mờ,
Mà lúc đương thời ta đã thờ ơ, hờ hững, vô tâm (hoặc ta tuyệt vọng, trong nỗi bất phùng thời trong thổn thức cam lòng, purs sanglots dịch thoát là những thổn thức cam lòng, tức là cam đành không oán hận):
Qua Đèo Ngang, Bà Huyện Thanh Quan.
*
Khắc khoải sầu đưa giọng lửng lơ
Ấy hồn Thục Đế thác bao giờ.
Năm canh máu chảy đêm hè vắng
Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ
Có phải tiếc Xuân mà đứng gọi,
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ.
Thâu canh ròng rã kêu ai đó?
Giục khách giang hồ dạ ngẩn ngơ!
Cuốc kêu cảm hứng, Nguyễn Khuyến
*
Xuân tâm : 春 心 , lòng xuân, còn có nghĩa như “xuân tình” : 春情tình yêu trai gái, tình yêu lứa đôi. Nguyễn Du cũng đã dùng chữ “xuân tình”, 春 情,tình mùa Xuân, tình của tuổi xuân thì, khi phỏng dịch đoạn thơ này trong Truyện Kiều:
Khúc đâu êm ái xuân tình,
Ấy hồn Thục Đế hay mình đỗ quyên.
ĐTTT, Nguyễn Du câu 3201-3202
*
Thương hải : 滄 海 Biển xanh, còn có nghĩa là biển rộng, biển cả. Thương hải cũng có khi dùng để chỉ tên một biển hư cấu ở cõi tiên.
Nguyệt minh châu hữu lệ : 月 明 珠 有 淚 Theo Văn tuyển (Lý Thiện chú thích), “khi trăng đầy, trai có ngọc (châu), khi trăng khuyết trai không có ngọc” (nguyệt mãn tức châu toàn, nguyệt khuy tức châu khuyết; 月滿卽珠全, 月虧卽珠缺). Theo cuốn Biệt quốc động minh ký thời Lục Triều, ngày xưa có người lặn xuống đáy biển tìm ngọc, lạc vào cung điện của nhân ngư, tìm được bảo ngọc do nước mắt của nhân ngư đọng lại. Ngoài ra, câu này còn có thể hiểu theo điển tích thương hải di châu, 滄海 移 珠 (hạt ngọc bỏ rơi trong biển cả), ngụ ý là người có tài mà không có chỗ thi thố.
Ngoài ra, thương hải còn có thể hiểu theo thành ngữ thương hải, tang điền, 蒼海桑田, biển xanh, ruộng dâu hay bể dâu, chỉ những biến cố ngoài sức tưởng tượng của con người, thương hải biến vi tang điền 蒼海變爲桑田, Biển xanh hóa thành nương dâu, bể dâu hay dâu bể
Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
ĐTTT, Nguyễn Du câu 3-4
*
Cơ trời dâu bể đa đoan,
Một nhà để chị riêng oan một mình.
ĐTTT, Nguyễn Du câu 715-716
*
Lam điền : 籃田tên một ngọn núi ở Thiểm Tây (Lam điền sơn), còn gọi là Ngọc sơn, nổi tiếng có nhiều ngọc đẹp và quý. Theo Sơn hải kinh, Ngọc sơn là nơi bà tiên Tây Vương Mẫu ở – chi tiết này khiến người đọc liên tưởng đến một cõi tiên hư cấu, giống như “Thương hải” trong câu 5.10
Ngọc sinh yên : 玉生烟 Theo Lục dị truyện, con gái Ngô Phù Sai là Tử Ngọc yêu
người lính hầu là Hàn Trọng nhưng không được Ngô vương chấp thuận, mang mối bi tình xuống tuyền đài. Một sáng, khi Ngô vương đang dùng lược chải tóc, nhìn ra vườn thấy có viên ngọc lớn màu tím chiếu sáng, phu nhân nghe nói chạy ra vườn, khi vừa ôm chầm hòn ngọc thì ngọc tan thành khói biến mất. Lại có thuyết cho rằng tứ thơ trong câu này lấy từ ý câu sau đây của nhà thơ Ðái Thúc Luân (732-789) thời Trung Ðường :
Thi gia chi cảnh như Lam Ðiền
nhật noãn lương ngọc sinh yên,
khả vọng nhi bất khả trí ư mi tiệp chi tiền dã.
詩 家 之 景 如 籃田
日暖良玉生烟
可 望 而 不可 知於眉睫之前也
(Cảnh đẹp đối với nhà thơ, tựa như viên ngọc quý bốc tan thành khói khi Lam Ðiền hửng nắng, chỉ có thể đứng nhìn từ xa chứ không được lại gần)
Khả đãi, 可待: khả đãi trợ từ có nghĩa là: phải, nên, đáng, có thể, chắc có thể, có lẽ, hình như…; hoặc là trợ từ nghi vấn: làm sao có thể…
Võng nhiên : 惘然 không biết gì cả, ngơ ngác như mất hồn, phôi pha.
Câu 7 có thể dịch là Tình này có thể trở thành một cái gì để ghi nhớ;
hoặc
tình nầy còn một chút gì, để nhớ để thương.
Câu 8 thời gian trôi qua, hàn gắn vết thương lòng thì tình duyên đó cũng đã nhạt nhòa, phôi pha.
*
Dịch nghĩa bài thơ Cẩm sắt:
Cây đàn gấm
Các cụ xưa thường cho bài nầy rất khó hiểu. Thật ra là bài thơ gồm những hình ảnh tượng trưng, ẩn dụ. Giải được những ẩn dụ hợp lý ấy ra, tức là hiểu được tiếng lòng của tác giả.
*
Cẩm sắt là một loại nhạc cụ bằng dây, đàn không có đầu, có 50 dây, mỗi dây buộc vào một trụ.
Mỗi dây mỗi trụ như gợi nhớ về lứa tuổi hoa niên ngày xưa.
Có lúc, giai điệu tiếng đàn êm ả như Trang sinh mơ giấc buổi sáng, thấy hóa thành con bướm bay lượn thanh thản, nhởn nhơ.
Có khi não nuột như tiếng kêu bi thiết của chim đỗ quyên thác lòng Vua Thục tiếc thương nước mất.
Còn tưởng, như âm vang thánh thót của những hạt châu nhỏ lệ, chạm nhau,
khi trăng sáng đầy trời, trên biển xanh xao động mênh mông.
Lại còn tưởng như trời hửng nắng ấm, chiếu tan những viên ngọc bốc khói ở núi Lam Điền.
Những nỗi niềm ấy, còn chăng là những ký ức xa mờ,
Mà lúc đương thời ta đã thờ ơ, hờ hững, vô tâm (hoặc ta tuyệt vọng, trong nỗi bất phùng thời trong thổn thức cam lòng, purs sanglots dịch thoát là những thổn thức cam lòng, tức là cam đành không oán hận):
« Les plus désespérés sont les chants les
plus beaux,
Et j'en sais d'immortels qui sont de purs sanglots ».
Alfred de Musset, La nuit de Mai.
*
Tuyệt vọng nhứt là tiếng ca đẹp nhứt,
Bất hủ thay những thổn thức cam lòng!
*
Lôøi bình cuûa Ngaân Trieàu
Et j'en sais d'immortels qui sont de purs sanglots ».
Alfred de Musset, La nuit de Mai.
*
Tuyệt vọng nhứt là tiếng ca đẹp nhứt,
Bất hủ thay những thổn thức cam lòng!
*
Lôøi bình cuûa Ngaân Trieàu
Lời thơ trong bài
“Cẩm sắt” đượm nét buồn man mác, trải rộng mênh mông trong không gian hữu hạn,
thời gian vô cùng, chuyên chở một tình sầu muôn thuở. Có phải chăng
đây là tiếng khóc cho người vợ hiền thục chẳng may quá cố? Hay là những lời
thương tiếc đầy ân hận về một người tình tên là Cẩm đã đi qua cuộc đời tác giả
thuở hoa niên? Ngoài ra, còn có biết bao
giả thuyết khác về hoàn cảnh sáng tác của bài thơ nầy…
(1) Hai
câu đề: Giới thiệu cây đàn gấm, Cẩm sắt.
錦 瑟
無 端
五 十
弦
一 弦 一 柱 思 華 年
一 弦 一 柱 思 華 年
*
Cẩm sắt vô đoan ngũ thập huyền,
Nhất huyền nhất trụ tứ hoa niên.
Nhất huyền nhất trụ tứ hoa niên.
*
Cây đàn gấm là một nhạc cụ có dây để
gảy, hình dáng và cấu trúc hơi lạ. Đàn không có đầu như các loại nhạc cụ bằng
dây khác mà có nhiều trụ, nhiều dây. Năm mươi dây được căng trên năm mươi trụ
theo thứ tự từ thấp đến cao.
Ờ nhỉ! Năm mươi dây thấp cao, sao lại
giống số năm tháng chồng chất trên cuộc đời ta quá vậy? Phải chăng
những dây đàn như những chương khúc sâu lắng của hồn ta vì
ta đang ở lứa tuổi năm mươi, tuổi ngũ thập nhi tri thiên mệnh, 五十而知天命,
nghĩa là năm mươi tuổi mới hiểu mệnh trời.
Còn nhớ, Đức Khổng Tử đã kể lại các giai đoạn của cuộc đời ngài như sau:
Ngô
thập hữu ngũ nhi chí vu học: 吾十有五而志于學
tam
thập nhi lập, 三十而立
tứ
thập nhi bất hoặc, 四十而不惑
ngũ
thập nhi tri thiên mệnh,
五十而知天命
lục
thập nhi nhĩ thuận, 六十而耳順
thất thập nhi tùng tâm sở dục bất du củ. 七十而樷心所 欱不遊 矩
*
Nghĩa
là:
Ta
mười lăm tuổi mới chuyên chú vào việc học,
ba
mươi tuổi mới tự lập,
bốn
mươi tuổi mới hiểu hết mọi sự trong thiên hạ,
năm
mươi tuổi mới biết mệnh trời,
sáu mươi tuổi mới có kiến thức và kinh
nghiệm hoàn hảo để có thể phán đoán ngay được mọi sự của con người và sự việc
mà không có gì trúc trắc khi nghe;
bảy mươi tuổi mới có thể nói hay làmnhững
điều đúng theo ý muốn của lòng mình, đúng theo khuôn khổ của đạo lý).
Ứng xử ở mỗi độ
tuổi là một việc,nhưng nếu con người không đượcthừa hưởng một nền giáo dục tốt,
không tự trau dồi kiến văn (những điều trông thấy và những điều nghe thấy,
không có bản lĩnh thì sống đến cuối đời với cái tuổi bảy mươi đi nữa, cũng
không biết tự lập, không hiể sự đời, chẳng biết mệnh trời, chẳng biết phán đoán
những điều nghe thấy và chẳng biết ứng xử thế nào cho phù hợp với dư luận đạo
lý xã hội.
Điều quan trọng nhất là ở tuổi ba mươi mà nếu không biết tự lập, vững vàng thì cuộc đời sẽ lắm gian
truân; lo cho bản thân không nổi thì làm sao giúp ích cho đời!
*
(2)
Bốn câu thực luận: Đặc tả tiếng đàn
荘 生
曉 夢
迷 蝴
蝶
望 帝 春 心 託 杜 鵑
滄 海 月 明 珠 有 淚
籃 田 日暖 玉生 烟
望 帝 春 心 託 杜 鵑
滄 海 月 明 珠 有 淚
籃 田 日暖 玉生 烟
*
Trang sinh hiểu mộng mê hồ điệp, (3)
Vọng đế xuân tâm thác đỗ quyên. (4)
Vọng đế xuân tâm thác đỗ quyên. (4)
Thương hải nguyệt minh châu hữu lệ, (5)
Lam điền nhật noãn ngọc sinh yên. (6)
Lam điền nhật noãn ngọc sinh yên. (6)
*
Ôi! Tiếng đàn
khi tấu lên nghe nôn nao, xao xuyến, não nùng, ngẩn ngơ biết bao!
Nào là tiếng đàn êm ái, nhớ chuyện Trang
sinh trong giấc sáng mơ, thấy mình hóa bướm, nhởn nhơ hoa ngàn, khinh đời ô trọc,
lầm than… tỉnh ra mới thấy ngỡ ngàng, phân vân. Rồi tự hỏi, con bướm ấy chính
là ta, vong thân ảo mộng, hay ta đây là bướm, trầm tư trong triết lý vong thân,
phi ngã. (Lòng hoang mang
nghi hoặc, thẫn thờ, miên man).
Nào là tấu khúc du dương, trầm bổng
đau đớn, thiết tha, như tiếng kêu não nuột của con chim đỗ quyên, oan hồnVua Thục,
trải qua mấy ngàn năm rồi mà vẫn còn khóc thương nước mất.(Thục
Vọng Đế, Nước Thục cổ,蜀 là một quốc gia cổ ở
vùng Tứ Xuyên, Trung Quốc.
Xuất phát quyền lực của nước Thục là đồng bằng Thành Đô (成都), với lãnh thổ
chủ yếu nằm ở vùng Trung và Tây bồn
địa Tứ Xuyên, cũng như vùng thượng thung lũngsông Hán Thủy (漢水). Dân tộc chủ yếu ở Thục là người
Khương. Nước Thục bị Tần đánh bại vào năm 316 TCN. Khi đó kinh đô của Thục
đặt tại Thành Đô).
Lại nghe những tiếng thánh thót, bồn
chồn như tiếng của dòng nước nhỏ trong
lành, từ trên cao rơi xuống; xôn xao như
âm vang của những lệ châu rơi chạm nhau, khi trăng sáng đầy trời, trên biển
xanh mênh mông; trăng cười nhìn biển cất cao tiếng hát qua giàn nhạc đại hòa tấu
thiên thu.
Còn nghe những tiếng đục ấm áp, nhớ
mong, như thả hồn bay bổng về khung trời mơ màng đầy nắng vàng rực rỡ; nắng làm tan thành khói những viên ngọc
lóng lánh ở núi Lam Điền.
(3), Hai câu kết: những nuối tiếc, nhớ
thương:
此情可待成追憶
只是當時已惘然
只是當時已惘然
Thử tình khả đãi thành truy ức, (7)
Chỉ thị đương thì dĩ võng nhiên (8)
Những nỗi niềm ấy,
tình cảm ấy, thử tình, đối với người
xưa, khả đãi, còn chăng là những ký ức
xa mờ, mà lúc đương thời ta đã vô tình, hờ hững, vô tâm.
Cụ thể, hình ảnh của
năm mươi dây đàn như khơi dậy nỗi nhớ về tuổi hoa niên, tình yêu đầu đời; cái
thuở ban đều lưu luyến ấy, nghìn năm hồ dễ đã ai quên; mà có thể nào quên, cho
dẫu bây giờ đã là đầu râu tóc bạc! Mối tình đầu cho dẫu được yêu hay chỉ rung động
một một chiều, đắm đuối ngẩn ngơ trải qua đời nhau rồi, như một vết thương
lòng, còn hằn vết sẹo trong hồn…thì sao lại có thể phôi pha.
Tiếp theo là lòng
hoài nghi trong cuộc sống. Hoài nghi giữa mộng và thực đời nầy. Chuyện Trang
Chu tĩnh mộng phân vân, con bướm là ta hay ta là bướm, nếu không muốn nói cuộc
đời nầy; cũng như hồn vua Thục hay chim đỗ quyên,
không biết là thực hay mơ?
Trong bối cảnh mơ hồ, ngoạn mục trong cảnh trăng sáng trên biển xanh, lệ châu
vương vấn. Và cảnh nắng ấm, ngọc tan thành khói bay cao ở núi Lam Điền.
Cuối cùng, tình
yêu đến, lẽ ra phải trân quý nắm bắt, trang điểm đời mình thì hỡi ôi, tình
duyên dang dở, lỡ làng, ngăn cách, chia xa; tình cảm ấy chỉ còn trong hối tiếc,
trong ký ức xa mờ, mãi tận cuối trời quên.
Phải chăng đời người
mong manh như giấc mộng và tâm sự thầm kín của
tác giả như tiếng tơ lòng còn mãi đọng ở năm mươi dây đàn réo rắt, ngất
ngây.
Tóm lại, Cẩm Sắt
của Lý
Thương Ẩn là giai điệu của tiếng đàn réo rắt, tiếc nhớ, là tiếng tơ
lòng u ẩn, buồn thương về mối tình tha thiết của tuổi thanh xuân đã xa mờ tận cuối
trời quên, và cũng là một bi khúc về những chặng đường đời đã qua, những chặng
đường đời vui ít, buồn nhiều, trong hoàn cảnh sống không gặp thời của tác giả.
Bên cạnh đó, Nhớ
Bóng Trăng Xưa của Ngân Triều cũng là một niệm khúc về một nữ sĩ tài sắc, bạc phận, mà đến nay, cuộc đời và sự nghiệp văn
chương của Bà có nhiều nhiều nghi vấn cũng như chưa tìm được những chứng cứ để tôn vinh.
Phải chăng những điều đó
vẫn còn là những điều khó khăn, khi nghiên cứu về một nữ sĩ trong cổ văn học sử?
*****
Tham
khảo vườn thơ không tên về bài Cẩm Sắt:
(1) Bản dịch bài 1 của
Vĩnh Sinh:
Cẩm sắt vì đâu năm chục dây ?
Mỗi dây mỗi trục nhớ thương đầy.
Trang sinh sớm mộng mê thành bướm,
Thục Đế tình xuân tiếng cuốc chầy.
Thương hải trăng thanh châu nhỏ lệ,
Lam Điền nắng ấm ngọc tan bay.
Tình này ví thử sau còn nhớ,
Lúc đã tàn phai với tháng ngày !
*
(2) Bản dịch bài 2 của Vĩnh Sinh:
Cẩm sắt vì đâu ngũ thập huyền ?
Mỗi dây mỗi trục gợi hoa niên.
Trang sinh sớm mộng mê thành bướm,
Thục đế xuân tình gửi tiếng quyên.
Bể cả trăng thanh châu đẫm lệ,
Ðồng xanh nắng ửng ngọc tan liền.
Tình này ví thử sau còn nhớ,
Khi đã qua rồi thuở lứa duyên !
*
(3) Bản dịch của Huỳnh Minh Đức
Gửi bởi Vanachi ngày 11/07/2005 19:35
Cẩm sắt vì sao ngũ thập huyền
Mỗi dây mỗi trụ, nhớ hoa niên
Trang Chu tỉnh mộng, mơ hồ điệp
Vọng Đế lòng xuân, gởi đỗ quyên
Trăng sáng biển xanh, châu đổ lệ
Khói vương nắng ấm, ngọc Lam Điền
Tình này sớm tạo niềm nhung nhớ
Là buổi đầu tiên, chút nỗi niềm
*
(4) Bản dịch của Nguyễn Hùng Lân
Gửi bởi Vanachi ngày 11/07/2005 19:36
Đàn năm mươi sợi tơ đồng
Mỗi dây khảy lại nhớ nhung thuở nào
Trang sinh mộng bướm sớm nao
Lòng xuân Thục Đế gởi vào đỗ quyên
Trăng soi biển lệ châu miền
Nắng lên hạt ngọc Lam Điền khói xây
Tình này đáng lẽ đẹp đây
Tiếc thay ngày nọ đã đầy đau thương
*
(5) Bản dịch của Lê Nguyễn Lưu
Gửi bởi Vanachi ngày 11/07/2005 19:37
Đàn gấm gồm năm chục sợi liền,
Mỗi dây mỗi trụ nhớ hoa niên.
Trang Sinh mộng sớm ngờ thân bướm,
Vọng Đế lòng xuân gửi tiếng quyên.
Trăng sáng lệ giàn châu đại hải,
Nắng xông ngọc bốc khói Lam Điền.
Tình xưa hãy để thành lưu niệm,
Một thưở yêu đương luống hão huyền!
Nguồn: Đường thi tuyển dịch, NXB Thuận Hoá, 1997
*
(6) Bản dịch của (Không rõ)
Gửi bởi ngất ngưởng ngày 10/08/2010 05:47
Cẩm sắt vì đâu năm chục dây ?
Mỗi dây mỗi trục nhớ thương đầy.
Trang sinh sớm mộng mê thành bướm,
Thục Đế tình xuân tiếng cuốc chầy.
Thương hải trăng thanh châu nhỏ lệ,
Lam Điền nắng ấm ngọc tan bay.
Tình này ví thử sau còn nhớ,
Lúc đã tàn phai với tháng ngày!
*
(7) Bản dịch của Huyền Lâm
Gửi bởi HuyenLam Tran ngày 14/02/2013 00:37
Huyền ảo năm mươi sợi dây tơ
Từng dây nốt phím gợi ngày thơ
Trang Chu xưa ngủ mơ thành bướm
Quyên vọng lòng xuân nhớ cõi bờ
Biển buồn trăng sáng khơi dòng lệ
Lam Điền nắng ngọc khói như mơ
Tình xưa nay đã thành ký ức
Nhưng mãi nhớ thương đến tận giờ
*
(8) Bản dịch của Huyền Lâm
Gửi bởi HuyenLam Tran ngày 14/02/2013 00:50
Năm mươi huyền ảo đàn cầm
Từng dây từng nốt gợi thầm ngày thơ
Bướm xưa Trang Tử còn mơ
Quyên sầu Thục Đế cõi bờ không quên
Lệ sầu nhìn biển trăng lên
Lam Điền khói quyện phủ trên nắng ngày
Tình xưa nào dễ phôi phai
Vẫn thương nhớ bóng hình ai đến giờ
*
(9) Bản dịch của Cổ Phong
Gửi bởi Cổ Phong ngày 25/04/2013 21:17
Cẩm sắt không dưng năm chục dây
Mỗi dây mỗi trụ nhớ những ngày
Trang Sinh mộng đẹp mơ hồ điệp
Vọng Đế lòng xuân gửi đỗ quyên
Trăng soi thương hải châu đổ lệ
Nắng sưởi Lam Điền ngọc nhả mây
Tình này đành đợi thành ký ức
Chỉ tội ban xưa lỡ ngẩn ngơ
*
(10) Bản dịch của Trần Trọng San
Gửi bởi Vanachi ngày 03/01/2014 22:22
Cây đàn năm chục đường dây
Mỗi dây mỗi trụ nhớ ngày còn xanh
Mơ màng giấc bướm Trang Sinh
Lòng xuân Vọng Đế đỗ quyên gửi vào
Biển xanh trăng chiếu lệ châu
Ngọc phơi nắng ấm khói cao Lam Điền
Tình này đợi nhớ nên niềm
Thế nhưng đã ngậm ngùi duyên bấy giờ
Trần Trọng San dịch
*
(11) Nguyễn Du đã mượn tứ câu này để tả tiếng đàn của Thúy Kiều lúc gặp lại Kim Trọng thể hiện qua 4 câu Thực-luận trên:
Khúc đâu đầm ấm dương hòa
Ấy là hồ điệp hay là Trang sinh ?
Khúc đâu êm ái xuân tình
Ấy hồn Thục Đế hay hình đỗ quyên ?
Trong sao trăng rỏ duềnh quyên !
Ấm sao hạt ngọc Lam Điền mới đông
(ĐTTT Nguyễn Du câu 3199-3204)
*
(12) Bản dịch của Trần Trọng Kim
Gửi bởi Vanachi ngày 03/01/2014 22:23
Đàn cẩm sắt mấy chục dây
Một dây một trục nhớ ngày thanh niên
Trang Sinh hồ điệp mộng quên
Lòng xuân Thục Đế đỗ quyên gửi mình
Trăng soi châu đỏ duềnh xanh
Lam Điền trời ấm ngọc lành khói bay
Tình kia còn nhớ có ngày
Hiện nay chỉ thấy gắt gay nỗi lòng
Nguồn: Trần Trọng Kim, Đường thi, NXB Văn hoá thông tin, 1995
*
(13) Bản dịch của Phạm Thanh Cải
Gửi bởi Phạm Thanh Cải ngày 26/05/2014 19:52
Cây đàn năm chục dây tơ
Mỗi dây một trụ hoa thưa phím đàn
Trang Sinh hồn bướm mơ tiên
Nhớ về Thục Đế đỗ quyên gọi hè
Biển xanh trăng sáng bốn bề
Lam Điền ngọc sáng vọng về ngọc trai
Tình nay còn nhớ dằng dai
Nỗi lòng thoáng chốc nhạt phai hay là
*
(14) Bản dịch của Nguyễn Minh
Gửi bởi Lâm Xuân Hương ngày 07/06/2016 21:49
Đàn gấm vì sao năm chục dây?
Mỗi dây mỗi trụ nhớ thơ ngây
Trang sinh mộng sớm mơ thành bướm
Vọng đế hồn xuân nhập cuốc đây
Trăng sáng biển xanh soi ngọc khóc
Lam Điền nắng ấm khói châu bay
Tình kia có thể thành nhung nhớ
Chỉ tiếc chán chường ngay lúc này.
*
Cẩm sắt vì đâu năm chục dây ?
Mỗi dây mỗi trục nhớ thương đầy.
Trang sinh sớm mộng mê thành bướm,
Thục Đế tình xuân tiếng cuốc chầy.
Thương hải trăng thanh châu nhỏ lệ,
Lam Điền nắng ấm ngọc tan bay.
Tình này ví thử sau còn nhớ,
Lúc đã tàn phai với tháng ngày !
*
(2) Bản dịch bài 2 của Vĩnh Sinh:
Cẩm sắt vì đâu ngũ thập huyền ?
Mỗi dây mỗi trục gợi hoa niên.
Trang sinh sớm mộng mê thành bướm,
Thục đế xuân tình gửi tiếng quyên.
Bể cả trăng thanh châu đẫm lệ,
Ðồng xanh nắng ửng ngọc tan liền.
Tình này ví thử sau còn nhớ,
Khi đã qua rồi thuở lứa duyên !
*
(3) Bản dịch của Huỳnh Minh Đức
Gửi bởi Vanachi ngày 11/07/2005 19:35
Cẩm sắt vì sao ngũ thập huyền
Mỗi dây mỗi trụ, nhớ hoa niên
Trang Chu tỉnh mộng, mơ hồ điệp
Vọng Đế lòng xuân, gởi đỗ quyên
Trăng sáng biển xanh, châu đổ lệ
Khói vương nắng ấm, ngọc Lam Điền
Tình này sớm tạo niềm nhung nhớ
Là buổi đầu tiên, chút nỗi niềm
*
(4) Bản dịch của Nguyễn Hùng Lân
Gửi bởi Vanachi ngày 11/07/2005 19:36
Đàn năm mươi sợi tơ đồng
Mỗi dây khảy lại nhớ nhung thuở nào
Trang sinh mộng bướm sớm nao
Lòng xuân Thục Đế gởi vào đỗ quyên
Trăng soi biển lệ châu miền
Nắng lên hạt ngọc Lam Điền khói xây
Tình này đáng lẽ đẹp đây
Tiếc thay ngày nọ đã đầy đau thương
*
(5) Bản dịch của Lê Nguyễn Lưu
Gửi bởi Vanachi ngày 11/07/2005 19:37
Đàn gấm gồm năm chục sợi liền,
Mỗi dây mỗi trụ nhớ hoa niên.
Trang Sinh mộng sớm ngờ thân bướm,
Vọng Đế lòng xuân gửi tiếng quyên.
Trăng sáng lệ giàn châu đại hải,
Nắng xông ngọc bốc khói Lam Điền.
Tình xưa hãy để thành lưu niệm,
Một thưở yêu đương luống hão huyền!
Nguồn: Đường thi tuyển dịch, NXB Thuận Hoá, 1997
*
(6) Bản dịch của (Không rõ)
Gửi bởi ngất ngưởng ngày 10/08/2010 05:47
Cẩm sắt vì đâu năm chục dây ?
Mỗi dây mỗi trục nhớ thương đầy.
Trang sinh sớm mộng mê thành bướm,
Thục Đế tình xuân tiếng cuốc chầy.
Thương hải trăng thanh châu nhỏ lệ,
Lam Điền nắng ấm ngọc tan bay.
Tình này ví thử sau còn nhớ,
Lúc đã tàn phai với tháng ngày!
*
(7) Bản dịch của Huyền Lâm
Gửi bởi HuyenLam Tran ngày 14/02/2013 00:37
Huyền ảo năm mươi sợi dây tơ
Từng dây nốt phím gợi ngày thơ
Trang Chu xưa ngủ mơ thành bướm
Quyên vọng lòng xuân nhớ cõi bờ
Biển buồn trăng sáng khơi dòng lệ
Lam Điền nắng ngọc khói như mơ
Tình xưa nay đã thành ký ức
Nhưng mãi nhớ thương đến tận giờ
*
(8) Bản dịch của Huyền Lâm
Gửi bởi HuyenLam Tran ngày 14/02/2013 00:50
Năm mươi huyền ảo đàn cầm
Từng dây từng nốt gợi thầm ngày thơ
Bướm xưa Trang Tử còn mơ
Quyên sầu Thục Đế cõi bờ không quên
Lệ sầu nhìn biển trăng lên
Lam Điền khói quyện phủ trên nắng ngày
Tình xưa nào dễ phôi phai
Vẫn thương nhớ bóng hình ai đến giờ
*
(9) Bản dịch của Cổ Phong
Gửi bởi Cổ Phong ngày 25/04/2013 21:17
Cẩm sắt không dưng năm chục dây
Mỗi dây mỗi trụ nhớ những ngày
Trang Sinh mộng đẹp mơ hồ điệp
Vọng Đế lòng xuân gửi đỗ quyên
Trăng soi thương hải châu đổ lệ
Nắng sưởi Lam Điền ngọc nhả mây
Tình này đành đợi thành ký ức
Chỉ tội ban xưa lỡ ngẩn ngơ
*
(10) Bản dịch của Trần Trọng San
Gửi bởi Vanachi ngày 03/01/2014 22:22
Cây đàn năm chục đường dây
Mỗi dây mỗi trụ nhớ ngày còn xanh
Mơ màng giấc bướm Trang Sinh
Lòng xuân Vọng Đế đỗ quyên gửi vào
Biển xanh trăng chiếu lệ châu
Ngọc phơi nắng ấm khói cao Lam Điền
Tình này đợi nhớ nên niềm
Thế nhưng đã ngậm ngùi duyên bấy giờ
Trần Trọng San dịch
*
(11) Nguyễn Du đã mượn tứ câu này để tả tiếng đàn của Thúy Kiều lúc gặp lại Kim Trọng thể hiện qua 4 câu Thực-luận trên:
Khúc đâu đầm ấm dương hòa
Ấy là hồ điệp hay là Trang sinh ?
Khúc đâu êm ái xuân tình
Ấy hồn Thục Đế hay hình đỗ quyên ?
Trong sao trăng rỏ duềnh quyên !
Ấm sao hạt ngọc Lam Điền mới đông
(ĐTTT Nguyễn Du câu 3199-3204)
*
(12) Bản dịch của Trần Trọng Kim
Gửi bởi Vanachi ngày 03/01/2014 22:23
Đàn cẩm sắt mấy chục dây
Một dây một trục nhớ ngày thanh niên
Trang Sinh hồ điệp mộng quên
Lòng xuân Thục Đế đỗ quyên gửi mình
Trăng soi châu đỏ duềnh xanh
Lam Điền trời ấm ngọc lành khói bay
Tình kia còn nhớ có ngày
Hiện nay chỉ thấy gắt gay nỗi lòng
Nguồn: Trần Trọng Kim, Đường thi, NXB Văn hoá thông tin, 1995
*
(13) Bản dịch của Phạm Thanh Cải
Gửi bởi Phạm Thanh Cải ngày 26/05/2014 19:52
Cây đàn năm chục dây tơ
Mỗi dây một trụ hoa thưa phím đàn
Trang Sinh hồn bướm mơ tiên
Nhớ về Thục Đế đỗ quyên gọi hè
Biển xanh trăng sáng bốn bề
Lam Điền ngọc sáng vọng về ngọc trai
Tình nay còn nhớ dằng dai
Nỗi lòng thoáng chốc nhạt phai hay là
*
(14) Bản dịch của Nguyễn Minh
Gửi bởi Lâm Xuân Hương ngày 07/06/2016 21:49
Đàn gấm vì sao năm chục dây?
Mỗi dây mỗi trụ nhớ thơ ngây
Trang sinh mộng sớm mơ thành bướm
Vọng đế hồn xuân nhập cuốc đây
Trăng sáng biển xanh soi ngọc khóc
Lam Điền nắng ấm khói châu bay
Tình kia có thể thành nhung nhớ
Chỉ tiếc chán chường ngay lúc này.
*
(15) Ngân Triều diễn thơ (1):
Đàn gấm lạ lùng năm chục liên?
Mỗi dây mỗi trụ tình hoa niên!
Như Trang Chu sáng mơ thành bướm,
Như Thục vương hồn nhớ nước quyên.
Như biển sáng trăng, châu đọng lệ,
Như hương nắng khói, ngọc Lam Điền.
Khối tình vương vấn ngàn năm nhớ,
Hồn đến bây giờ vẫn vẹn nguyên.
Mỗi dây mỗi trụ tình hoa niên!
Như Trang Chu sáng mơ thành bướm,
Như Thục vương hồn nhớ nước quyên.
Như biển sáng trăng, châu đọng lệ,
Như hương nắng khói, ngọc Lam Điền.
Khối tình vương vấn ngàn năm nhớ,
Hồn đến bây giờ vẫn vẹn nguyên.
*
(16) Ngân Triều diễn thơ (2):
Cẩm sắt tâm dao động,(1)
Mỗi trụ một đường
tơ,
Năm mươi dây ngẩn ngơ.
Chạnh lòng thời hoa mộng…
*
Tiếng đàn trong êm ả,
Giấc mơ sáng Trang sinh.
Hóa bướm bay xinh xinh,
Mộng tan, phân vân lạ? (2)
*
Tiếng đàn đục đê mê,(3)
Lòng giăng sầu lê thê.
Bơ vơ hồn Thục Đế,
Mong nước cũ quay về.
*
Nào âm vang thánh thót,
Xôn xao tiếng thủy tinh.
Trăng sáng biển mông mênh,
Bồi hồi châu giọt ngọc.
*
Âm vực nào tha thiết,
Trời hửng nắng ấm đầy!
Ngọc Lam (4)đùn (5)khói biếc,
Tuyệt vời khắp trời mây!
*
Ơi! Nhớ thuở thương thầm!
Ngàn năm ươm ký ức.
Vẫn nghe lòng rạo rực,
(16) Ngân Triều diễn thơ (2):
Cẩm sắt tâm dao động,(1)
Năm mươi dây ngẩn ngơ.
Chạnh lòng thời hoa mộng…
*
Tiếng đàn trong êm ả,
Giấc mơ sáng Trang sinh.
Hóa bướm bay xinh xinh,
Mộng tan, phân vân lạ? (2)
*
Tiếng đàn đục đê mê,(3)
Lòng giăng sầu lê thê.
Bơ vơ hồn Thục Đế,
Mong nước cũ quay về.
*
Nào âm vang thánh thót,
Xôn xao tiếng thủy tinh.
Trăng sáng biển mông mênh,
Bồi hồi châu giọt ngọc.
*
Âm vực nào tha thiết,
Trời hửng nắng ấm đầy!
Ngọc Lam (4)đùn (5)khói biếc,
Tuyệt vời khắp trời mây!
*
Ơi! Nhớ thuở thương thầm!
Ngàn năm ươm ký ức.
Vẫn nghe lòng rạo rực,
Đôi
mắt biếc cài trâm.
*
(1)tâm dao động:心摇動 , lay động trái tim, tâm hồn người nghe.
*
(1)tâm dao động:心摇動 , lay động trái tim, tâm hồn người nghe.
(2) phân vân , 紛紜hoài nghi, bối rối không biết sự việc ra sao. Ngã - phi ngã, 我 非 我 , có
phải chính là ta hay không phải ta vậy nhỉ?
(3)
đê mê 低迷; 低 đê là thấp, mê 迷là
không tỉnh;đê mê 低迷là
mê mẫn, đắm đuối, chìm ngập trong nỗi thích thú, say mê.
(4) Ngọc Lam 玉籃, tức thứ ngọc ở Lam Điền, 籃田.
(5) đùn xô đẩy khắp mọi hướng, mọi chiều, ở đây là bay nhẹ nhàng , lan tỏa khắp nơi.
Đây rừng xanh, rừng xanh,
Đây rừng xanh, rừng xanh,
Bụi
đùn quanh ngõ vắng,
Khói
đùn quanh nóc tranh,
Gió đùn quanh mây trắng,
Gió đùn quanh mây trắng,
Và…lửa
loạn xây thành.
Tha
La Xóm Đạo, Vũ Anh Khanh
*
(17) Ngân Triều diễn thơ (3):
Cẩm Sắt đa đoan (1), cảm xúc huyền,(2)
Chạnh lòng tiếc nhớ tuổi hoa niên. (3)
Trang sinh mơ sáng (4) tiêu dao bướm,
Thục đế hồn tan khắc khoải quyên.
Dâu bể, trăng thanh (5), châu nhỏ lệ,
Nắng vàng khói ngọc quyện Lam Điền.
Nỗi niềm vương vấn xa mờ tủi,
Sao lúc bấy giờ chẳng có duyên?
*
(1) đa đoan 多端 , nhiêu mối, nhiều dây, còn có ý rắc rối.
*
(17) Ngân Triều diễn thơ (3):
Cẩm Sắt đa đoan (1), cảm xúc huyền,(2)
Chạnh lòng tiếc nhớ tuổi hoa niên. (3)
Trang sinh mơ sáng (4) tiêu dao bướm,
Thục đế hồn tan khắc khoải quyên.
Dâu bể, trăng thanh (5), châu nhỏ lệ,
Nắng vàng khói ngọc quyện Lam Điền.
Nỗi niềm vương vấn xa mờ tủi,
Sao lúc bấy giờ chẳng có duyên?
*
(1) đa đoan 多端 , nhiêu mối, nhiều dây, còn có ý rắc rối.
(2)
cảm xúc huyền 感 觸絃,tiếng
đàn khi nghe, khơi gợi những nỗi niềm bồi hồi thương nhớ chạnh lòng.
(3)
Hoa niên:花 年 ,
tuổi trẻ, tuổi thanh xuân, tươi đẹp nhất đời người.
(4) mơ sáng = hiểu mộng: 曉 夢 giấc ngủ buổi sáng, nằm mơ.
(5) trăng thanh = nguyệt quang: 月 光 , ánh trăng tỏa sáng khắp trời.
(4) mơ sáng = hiểu mộng: 曉 夢 giấc ngủ buổi sáng, nằm mơ.
(5) trăng thanh = nguyệt quang: 月 光 , ánh trăng tỏa sáng khắp trời.
*
Trích Nhớ Bóng Trăng xưa, Chương VIII, Ngân Triều.
*****
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét