Bài đăng lại ngày 15.05.2025 (Trích Lời Quê Chắp Nhặt, Ngân Triều, tác phẩm thứ 7)
***
Thứ Ba, 26 Tháng 4, 2016
Bài [1] Tĩnh Dạ Tư, Lý Bạch, (701 – 762).
Lời bình Ngân Triều
Thân mời quý bạn thưởng thức một bài thơ hay của Lý Bạch và vài cảm tác:
静 夜 思 / 李 白
牀 前 明 月 光
疑 是 地 上 霜
舉 頭 望 明 月
低 頭 思 故 鄕
*
Phiên âm:
Tĩnh dạ tư/ Lý Bạch
Sàng tiền minh nguyệt quang
Nghi thị địa thượng sương
Cử đầu vọng minh nguyệt
Đê đầu tư cố hương
Dịch nghĩa:
Trước giường ánh trăng sáng
Ngỡ là sương trên đất
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng
Cúi đầu nhớ quê xưa
Dịch thơ:
[1] Nỗi Nhớ Đêm Trăng
Đầu giường ngó bóng trăng soi,
Mơ màng ngỡ đám sương rơi mặt đường.
Ngẩng đầu trăng sáng như gương,
Cúi đầu sao nhớ quê hương nghìn trùng!
Trúc Khê, 竹溪, (1901-1947) dịch
[2] Đêm Vắng Tâm Sầu
Ánh trăng sáng tỏ đầu giường,
Lòng ta cứ ngỡ khói sương hiện về.
Trăng vàng chiêm ngưỡng đê mê,
Cố hương trầm tưởng tái tê cõi lòng.
đào anh dũng cảm tác
[3] Đêm Vắng Nặng Sầu Tư
Trước giường, trăng lồng lộng,
Ngỡ ngàng như giáng sương
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,
Cúi đầu nhớ cố hương.
Ngân Triều dịch
Sơ lược tiểu sử Lý Bạch (李白; 701 - 762):
Lý Bạch (chữ Hán: 李白; 701 - 762), tự Thái Bạch (太白), hiệu Thanh Liên cư sĩ (青蓮居士), là một trong những nhà thơ theo chủ nghĩa lãng mạn nổi tiếng nhất thời Thịnh Đường nói riêng và Trung Hoa nói chung.
Suốt cuộc đời của mình, ông được tán dương là một thiên tài về thơ ca, người đã mở ra một giai đoạn hưng thịnh của thơ Đường. Từ trẻ, ông đã xa gia đình để đi du lịch, tìm đường lập công danh sự nghiệp. Dẫu muốn góp phần cứu đời giúp dân song chưa bao giờ ông được toại nguyện. Ông cùng người bạn Đỗ Phủ trở thành hai biểu tượng thi văn lỗi lạc không chỉ trong phạm vi nhà Đường mà còn trong toàn bộ lịch sử Trung Hoa, thậm chí toàn bộ khu vực Đông Á đồng văn. Do sự lỗi lạc của mình, ông được hậu bối tôn làm Thi Tiên (詩仙) hay Thi Hiệp (詩俠). Giới thi nhân bấy giờ thì rất kính nể tài uống rượu làm thơ bẩm sinh, nên gọi Lý Bạch là Tửu Tiên (酒仙) hay Trích Tiên Nhân (謫仙人). Hạ Tri Chương gọi ông là Thiên Thượng Trích Tiên (天上謫仙).
Ông đã viết cả ngàn bài thơ bất hủ. Hơn ngàn bài thơ của ông được tổng hợp lại trong tập Hà Nhạc Anh Linh tập (河岳英靈集), một tuyển tập thơ rất đồ sộ thời Vãn Đường do Ân Phan (殷璠) chủ biên vào năm 753, và hơn 43 bài của ông được ghi trong Đường Thi Tam Bách Thủ (唐詩三百首) được biên bởi Tôn Thù (孫洙), một học giả thời nhà Thanh. Vào thời đại của ông, thơ của ông đã xuất hiện các bản dịch tại phương Tây, chủ đề của ông nhấn mạnh tán dương mối quan hệ bạn bè, sự thần bí của thiên nhiên, tâm trạng tĩnh mịch và thú vui uống rượu rất đặc trưng của ông.
Cuộc đời của ông đi vào truyền thuyết, với phong cách yêu rượu hiếm có, những truyện ngụ ngôn và truyền thuyết về tinh thần trượng nghĩa, cũng như điển tích nổi tiếng về việc ông đã chết đuối khi nhảy khỏi thuyền để bắt cái bóng phản chiếu của mặt trăng.
Đường Văn Tông ngự phong tán dương thi ca của Lý Bạch, kiếm vũ của Bùi Mân, thảo thư của Trương Húc, gọi là Tam Tuyệt (三絕).
*
Bài thơ Tĩnh Dạ Tư của Lý Bạch cũng làm chúng ta nhớ đến bài Alicante, Jacques Prevert (1900 – 1977), tác giả đã sử dụng câu bốn để bổ túc, thêm ý, tâm tình vào câu một; câu năm cho câu hai; câu sáu cho câu ba.
Có lẽ tâm trạng của Lý Bạch cũng tương tự vậy, qua bài thơ Tĩnh Dạ Tư. Tinh thần Đông Tây gặp nhau như vậy. Thật tuyệt vời!
Đào Anh Dũng
[4] Alicante
Une orange sur la table
Ta robe sur le tapis
Et toi dans mon lit
Doux présent du présent
Fraîcheur de la nuit
Chaleur de ma vie.
Jacques Prévert (1900 – 1977)
Ngân Triều dịch bài Alicante:
Quả cam ngon ngọt trên bàn,
Y trang trên thảm, chỉ nàng với ta.
Êm đềm, tươi mát giường hoa,
Mê ly đắm đuối sa đà thiên thai.
Nghe đêm mát rượi đêm dài,
Nồng nàn, ấm áp, ngất ngây trần đời.
*
Ảnh chụp bài thơ Tĩnh dạ tư/ Lý Bạch/ Google.
Ngẩng đầu trăng rạng rỡ,
Cúi đầu nhớ cố hương. Ảnh minh họa: Google
[5] Nỗi Nhớ Đêm Trăng
Đầu giường ngó bóng trăng soi,
Mơ màng ngỡ đám sương rơi mặt đường.
Ngẩng đầu trăng sáng như gương,
Cúi đầu sao nhớ quê hương nghìn trùng!
Trúc Khê, (竹溪, 1901-1947), dịch
[6] Nỗi Niềm Đêm Trăng
Đầu giường, trăng sáng tỏ,
Thoáng nhìn, ngỡ giáng sương.
Ngẩng đầu trăng rạng rỡ,
Cúi đầu nhớ cố hương.
Ngân Triều dịch
Lời bình, Ngân Triều
Bài thơ Tĩnh Dạ Tư , đã đến với Ngân Triều trong năm học Văn Khoa 1967 - 1968, lúc ra trường Sư Phạm Sai Gòn được 2 năm. Để từ đó, chàng sinh viên học Toán, mới có dịp làm quen với Thơ Đường, càng làm quen, càng mê say vì ý tại ngôn ngoại, 意 在 言 外, tứ thơ có ý nghĩa sâu sắc ở ngoài ngôn từ.
Cho nên, để dịch thoát ý có thể dịch tiêu đề là “Đêm trăng vắng nặng sầu tư”. Còn đêm trăng sáng; ánh trăng mờ ảo; ánh trăng như sương rơi; ngắm trăng; nhớ quê xưa là những chi tiết của nội dung bài thơ.
Hai câu đầu:
牀 前 明 月 光
疑 是 地 上 霜
Sàng tiền minh nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sương.
Đầu giường, trăng sáng tỏ,
Thoáng nhìn, ngỡ giáng sương.
Ánh trăng sáng, minh nguyệt quang, 明月光; trước giường, đầu giường, sàng tiền, 牀 前; ta cứ ngỡ là, nghi thị, 疑 是; sương rơi trên đất, địa thượng sương, 地 上 霜.
Ý tại 意 在 thì đơn sơ như thế. Ngôn ngoại 言 外 thì có suy ngẫm mới hiểu tỏ tường. Ta vừa tỉnh giấc sau một cơn say. Đời ta còn có lắm nỗi sầu, làm sao cho vơi hết lòng phiền muộn? Chỉ mượn tửu thôi!
Dục phá sầu thành tu dụng tửu
Tuý tự tuý đảo sầu tự sầu
Vịnh sầu tình, Nguyễn Công Trứ, 阮公著, (1778 – 1859),
欲 破 愁 城 須 用 酒,
醉 自 醉 倒 愁 自 愁.
Nghĩa là:
Muốn phá thành sầu phải dùng rượu,
(Nhưng) Say tự say túy lúy, say gục, say như chết, (mà) khi tỉnh rượu, sầu vẫn cứ sầu.
Là vậy. Phiền muộn. Nâng chén, cứ nâng chén! Khi say, có ai còn nhớ chi đâu…mà buồn? Khi tỉnh giấc men, thì hỡi ôi, “đạo quân buồn”, không biết ở đâu… lại kéo đến, lại giằng xé, cứa nát tâm hồn ta. Thân thể ta hụt hẫng, chao đảo, đầu óc ta quằn quại, thê lương!
À há! Phải chăng, cơn say đã dứt! Có gì sáng lòa trên đầu giường? Sương giáng! Không phải! Ha ha...Sáng trăng! (Đã say, quên trời đất, quên cả tấm thân hèn! Cái đầu lú lẫn, hoang mang… “sáng trăng, ta cứ ngỡ là sương giáng”. Sáng trăng à! Trăng ở phía nào vậy? Ta hãy ngắm trăng! …
Hai câu kết
舉 頭 望 明 月
低 頭 思 故 鄕
Cử đầu, vọng minh nguyệt,
Đê đầu, tư cố hương.
Ngẩng đầu trăng rạng rỡ,
Cúi đầu nhớ cố hương.
Ngẩng đầu… trăng rạng rỡ. Kìa là một vầng trăng tỏ rạng giữa trời. Ánh trăng vằng vặc, ngoạn mục, lồng lộng, nao lòng. Trăng đêm nay, có phải là trăng của ngày xưa? (32)
Ô hay! Ta lại đa nhân cách rồi! Ở đây là tâm tình của Lý Bạch, của lão-lão-tiền- bối, bậc thi tiên vĩ đại của đời nhà Đường. Ông chỉ diễn đạt đơn sơ về động thái ngẩng đầu lên xuống, ngắm nhìn vầng trăng sáng, nhìn lên cung quảng tìm chị Hằng, tìm thằng Cuội bên cây đa cổ tích; cúi đầu để nhìn trong tâm tưởng mình. Hằng Nga là một mỹ nhân tuyệt trần. Mỹ nhân xưa thường ẩn dụ cho thánh đế anh minh hay đất nước, quê hương yêu dấu xa xôi. Xin thử đọc lại mấy câu thơ của Tô Thức, (Đỗ Phủ), được trích dẫn:
Quế trạo hề lan tương,
Kích không minh hề tố lưu quang.
Diễu diễu hề dư hoài,
Vọng mỹ nhân hề thiên nhất phương.
Vịnh Tiền Xích Bích, Đỗ Phủ, 杜甫, (712 – 770); Nguyễn Công Trứ, 阮公著, (1778 – 1859), trích dẫn.
桂 掉 兮 蘭 䊢
擊 空 明 兮 泝 流 光
渺 渺 兮予 懷
望 美 人 兮 天 一 方
Nghĩa là:
Chèo ta, cây quế (hề) dầm ta, cây lan,
Khua chèo lên khoảng nước sáng (hề) ngược dòng sáng trôi. (33)
Vời vợi (hề) ta thương nhớ
Mong ngóng bóng mỹ nhân (hề) một phương trời.
Dịch thơ:
Đêm trăng, chèo quế, dầm lan,
Ngược dòng lấp lánh, trăng tan ánh ngời.
Lênh đênh mong ngóng phương trời
Mỹ nhân, vời vợi, xa xôi, đâu nào?
Ngân Triều dịch
Như vậy, phải chăng vầng trăng sáng lơ lửng trên cao như thánh đế hay quê hương yêu dấu, mà giờ đây ta đã xa cách nghìn trùng?
Cúi đầu…nhớ cố hương. (34)
Do đó, khi ta phải sống xa nhà thì nỗi nhớ quê hương trào dâng chất ngất quặn lòng:
Nhật mộ hương quan hà xứ thị,
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.(35)
Hoàng Hạc Lâu, Thôi Hiệu, (崔顥; khoảng 704–754).
日 暮 鄉 關 何 處 是
煙 波 江 上 使 人 愁
Nghĩa là:
Chiều tà rồi, không biết quê hương, giờ (ở) nơi nao?
(Nhìn) khói sóng trên sông, khiến lòng buồn (không dứt).
Quê hương khuất bóng hoàng hôn,
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?
Tản Đà, 傘沱, (1889 - 1939), dịch
Cũng cùng tâm tình ấy, nhưng suy ra chúng ta thấy có một ý thơ tân kỳ, hiện đại (36) của một nhà thơ tiền chiến theo cước chú dẫn dưới đây.
Xin hãy trở lại với hai động thái của nhân vật trữ tình. Cử đầu 舉 頭 và đê đầu, 低 頭 đối lập nhau, lại kết hợp với nhóm từ ngữ vọng minh nguyệt, 望 明 月, và tư cố hương, 思 故 鄕 rất hàm súc, gợi tả và hoa mỹ như những nét chấm phá độc đáo của nghệ thuật tranh thủy mạc, tuyệt vời.
Đó là hai động thái, ngẩng đầu nhìn sự vật cụ thể và đê đầu nhìn sự vật trong tâm tưởng để thấy tính cách của nhân vật trữ tình chan chứa những cảm xúc bâng khuâng, buồn nhớ mênh mông:
Cử đầu, vọng minh nguyệt, (37)
Đê đầu, tư cố hương.(38)
舉 頭 望 明 月
低 頭 思 故 鄕
Tóm lại, từ những chi tiết của ánh trăng sáng trước giường như trời đầy sương trắng, của một người cô lữ ngẩng đầu, cúi đầu nhìn trăng và nhớ cố hương; hòa với một tâm trạng ngỡ ngàng pha chút hoài nghi và thương nhớ miên man … người đọc có thể suy diễn nỗi lòng của nhân vật trữ tình, của tác giả. Đó là một tâm trạng bồn chồn của đêm trăng nặng sầu tư, ai hoài, thương nhớ, ngập lòng.
Có ai nhìn trăng mà không nhớ bóng trăng xưa? Trăng đêm nay, có phải là trăng của đêm ấy? Tâm hồn ai, biết có dịu dàng, trong sáng, rạng ngời, thiết tha như ánh trăng muôn thuở dạt dào?
Tĩnh dạ tư, Đêm trăng vắng nặng sầu tư, thật là một bài thơ ý tại ngôn ngoại, tả cảnh-tả tình, đơn sơ, sâu lắng, ngẩn ngơ!
Ngân Triều ֎
[30]
Ảnh Thi tiên Lý Bạch (chữ Hán: 李白; 701 - 762), tự Thái Bạch (太白), hiệu Thanh Liên cư sĩ (青蓮居士).
[31] tĩnh dạ 静 夜, “đêm lặng lẽ,
đêm quạnh vắng, đêm nặng sầu tư”. Tư 思, “lo nghĩ, buồn
nhớ”. Tĩnh dạ tư: Đêm trăng vắng nặng sầu tư
[33] Thấy
ánh trăng tan lung linh trên mặt sóng.
[34] Cố hương, 故 鄕, là quê cũ của
mình, nơi chôn nhao cắt rốn, nơi được sinh ra và lớn lên, nơi ta đã trải qua một
thời thơ ấu thú vị, thần tiên, không bao giờ quên. (village d’origine; terre
natale).
[25] Thuyền trôi, nhìn khói sóng
trên sông, trong nắng chiều tắt dần, chạnh tưởng bữa cơm chiều đoàn tụ, dưới
mái ấm gia đình hạnh phúc, tấm thân giờ phiêu bạt phương trời, nỗi nhớ nhà, (niềm
thương nhớ quê hương) dậy sóng miên man, làm sao kể xiết
[36] Tân kỳ và hiện đại ở chỗ, không
khói hoàng hôn cũng nhớ nhà, tâm tình cao hơn một bậc, vì có khói hoàng
hôn, nhớ nhà là thường tình.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều
sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Tràng Giang, Huy Cận, (1919-2005)
[37] Vọng minh nguyệt, 望 明 月, nhìn vầng trăng sáng bằng mắt thường, để thấy cái đẹp xa vời, ngoài tầm tay trong hiện thực bấy giờ.
[38] Tư cố hương, 思 故 鄕, là “nhớ” cố hương, cũng chính là nhìn, nhìn trong tâm khảm, nhìn trong tâm tưởng để thấy lại những nỗi nhớ thương, ray rứt…trong những kỷ niệm vui buồn, yêu dấu, dâu bể, đa đoan.