Thứ Năm, 15 tháng 5, 2025

Bài [1] Tĩnh Dạ Tư, Lý Bạch, (701 – 762).

Bài đăng lại ngày 15.05.2025 (Trích Lời Quê Chắp Nhặt, Ngân Triều, tác phẩm thứ 7)

***

Thứ Ba, 26 Tháng 4, 2016

Bài [1] Tĩnh Dạ Tư, Lý Bạch, (701 – 762). 

Lời bình Ngân Triều

          Thân mời quý bạn thưởng thức một bài thơ hay của Lý Bạch và vài cảm tác:

静 夜 思 / 李 白

牀 前 明 月 光

疑 是 地 上 霜

舉 頭 望 明 月

低 頭 思 故 鄕

*

Phiên âm:

Tĩnh dạ tư/ Lý‎ Bạch

Sàng tiền minh nguyệt quang

Nghi thị địa thượng sương

Cử đầu vọng minh nguyệt

Đê đầu tư cố hương

Dịch nghĩa:

Trước giường ánh trăng sáng

Ngỡ là sương trên đất

Ngẩng đầu nhìn trăng sáng

Cúi đầu nhớ quê xưa

Dịch thơ:

[1] Nỗi Nhớ Đêm Trăng

        Đầu giường ngó bóng trăng soi,

Mơ màng ngỡ đám sương rơi mặt đường.

        Ngẩng đầu trăng sáng như gương,

Cúi đầu sao nhớ quê hương nghìn trùng!

                                            Trúc Khê, 竹溪, (1901-1947) dịch

[2] Đêm Vắng Tâm Sầu

        Ánh trăng sáng tỏ đầu giường,

Lòng ta cứ ngỡ khói sương hiện về.

        Trăng vàng chiêm ngưỡng đê mê,

Cố hương trầm tưởng tái tê cõi lòng.

                                             đào anh dũng cảm tác

 [3] Đêm Vắng Nặng Sầu Tư

Trước giường, trăng lồng lộng,

Ngỡ ngàng như giáng sương

Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,

Cúi đầu nhớ cố hương.

                               Ngân Triều dịch

Sơ lược tiểu sử Lý Bạch   (李白; 701 - 762):

Lý Bạch (chữ Hán: 李白; 701 - 762), tự Thái Bạch (太白), hiệu Thanh Liên cư sĩ (青蓮居士), là một trong những nhà thơ theo chủ nghĩa lãng mạn nổi tiếng nhất thời Thịnh Đường nói riêng và Trung Hoa nói chung.

Suốt cuộc đời của mình, ông được tán dương là một thiên tài về thơ ca, người đã mở ra một giai đoạn hưng thịnh của thơ Đường. Từ trẻ, ông đã xa gia đình để đi du lịch, tìm đường lập công danh sự nghiệp. Dẫu muốn góp phần cứu đời giúp dân song chưa bao giờ ông được toại nguyện. Ông cùng người bạn Đỗ Phủ trở thành hai biểu tượng thi văn lỗi lạc không chỉ trong phạm vi nhà Đường mà còn trong toàn bộ lịch sử Trung Hoa, thậm chí toàn bộ khu vực Đông Á đồng văn. Do sự lỗi lạc của mình, ông được hậu bối tôn làm Thi Tiên (詩仙) hay Thi Hiệp (詩俠). Giới thi nhân bấy giờ thì rất kính nể tài uống rượu làm thơ bẩm sinh, nên gọi Lý Bạch là Tửu Tiên (酒仙) hay Trích Tiên Nhân (謫仙人). Hạ Tri Chương gọi ông là Thiên Thượng Trích Tiên (天上謫仙).

Ông đã viết cả ngàn bài thơ bất hủ. Hơn ngàn bài thơ của ông được tổng hợp lại trong tập Hà Nhạc Anh Linh tập (河岳英靈集), một tuyển tập thơ rất đồ sộ thời Vãn Đường do Ân Phan (殷璠) chủ biên vào năm 753, và hơn 43 bài của ông được ghi trong Đường Thi Tam Bách Thủ (唐詩三百首) được biên bởi Tôn Thù (孫洙), một học giả thời nhà Thanh. Vào thời đại của ông, thơ của ông đã xuất hiện các bản dịch tại phương Tây, chủ đề của ông nhấn mạnh tán dương mối quan hệ bạn bè, sự thần bí của thiên nhiên, tâm trạng tĩnh mịch và thú vui uống rượu rất đặc trưng của ông.

Cuộc đời của ông đi vào truyền thuyết, với phong cách yêu rượu hiếm có, những truyện ngụ ngôn và truyền thuyết về tinh thần trượng nghĩa, cũng như điển tích nổi tiếng về việc ông đã chết đuối khi nhảy khỏi thuyền để bắt cái bóng phản chiếu của mặt trăng.

Đường Văn Tông ngự phong tán dương thi ca của Lý Bạch, kiếm vũ của Bùi Mân, thảo thư của Trương Húc, gọi là Tam Tuyệt (三絕).

*

Bài thơ Tĩnh Dạ Tư của Lý Bạch cũng làm chúng ta nhớ đến bài Alicante, Jacques Prevert (1900 – 1977), tác giả đã sử dụng câu bốn để bổ túc, thêm ý, tâm tình vào câu một; câu năm cho câu hai; câu sáu cho câu ba.

          Có lẽ tâm trạng của Lý Bạch cũng tương tự vậy, qua bài thơ Tĩnh Dạ Tư. Tinh thần Đông Tây gặp nhau như vậy. Thật tuyệt vời!

                                                                       Đào Anh Dũng

[4] Alicante 

Une orange sur la table 

Ta robe sur le tapis

Et toi dans mon lit          

Doux présent du présent

Fraîcheur de la nuit        

Chaleur de ma vie.

Jacques Prévert (1900 – 1977)

             Ngân Triều dịch bài Alicante:

       Quả cam ngon ngọt trên bàn,

Y trang trên thảm, chỉ nàng với ta.

        Êm đềm, tươi mát giường hoa,

Mê ly đắm đuối sa đà thiên thai.

        Nghe đêm mát rượi đêm dài,

Nồng nàn, ấm áp, ngất ngây trần đời.                                  

*

 

               Ảnh chụp bài thơ Tĩnh dạ tư/ Lý Bạch/ Google.          

                             Ngẩng đầu trăng rạng rỡ,  

                             Cúi đầu nhớ cố hương. Ảnh minh họa: Google

[5] Nỗi Nhớ Đêm Trăng

        Đầu giường ngó bóng trăng soi,

Mơ màng ngỡ đám sương rơi mặt đường.

        Ngẩng đầu trăng sáng như gương,

Cúi đầu sao nhớ quê hương nghìn trùng!

                          Trúc Khê, (竹溪, 1901-1947), dịch

[6] Nỗi Niềm Đêm Trăng

       Đầu giường, trăng sáng tỏ, 

       Thoáng nhìn, ngỡ giáng sương.

       Ngẩng đầu trăng rạng rỡ,  

       Cúi đầu nhớ cố hương.

                                        Ngân Triều dịch

Lời bình, Ngân Triều

          Bài thơ Tĩnh Dạ Tư  , đã đến với Ngân Triều trong năm học Văn Khoa 1967 - 1968, lúc ra trường Sư Phạm Sai Gòn được 2 năm. Để từ đó, chàng sinh viên học Toán, mới có dịp làm quen với Thơ Đường, càng làm quen, càng mê say vì ý tại ngôn ngoại, 意 在 言 外, tứ thơ có ý nghĩa sâu sắc ở ngoài ngôn từ.

           Cho nên, để dịch thoát ý có thể dịch tiêu đề là “Đêm trăng vắng nặng sầu tư”. Còn đêm trăng sáng; ánh trăng mờ ảo; ánh trăng như sương rơi; ngắm trăng; nhớ quê xưa là những chi tiết của nội dung bài thơ.

          Hai câu đầu:

牀     前     明     月     光

疑     是     地    上      霜

Sàng tiền minh nguyệt quang,

Nghi thị địa thượng sương.

Đầu giường, trăng sáng tỏ, 

Thoáng nhìn, ngỡ giáng sương.

          Ánh trăng sáng, minh nguyệt quang, 明月光; trước giường, đầu giường, sàng tiền, 牀 前; ta cứ ngỡ là, nghi thị, 疑 是; sương rơi trên đất, địa thượng sương, 地 上 霜.

          Ý tại 意 在 thì đơn sơ như thế. Ngôn ngoại 言 外 thì có suy ngẫm mới hiểu tỏ tường. Ta vừa tỉnh giấc sau một cơn say. Đời ta còn có lắm nỗi sầu, làm sao cho vơi hết lòng phiền muộn? Chỉ mượn tửu thôi!

Dục phá sầu thành tu dụng tửu

Tuý tự tuý đảo sầu tự sầu

Vịnh sầu tình, Nguyễn Công Trứ, 阮公著, (1778 – 1859), 

欲 破 愁 城 須 用 酒,

醉 自 醉 倒 愁 自 愁.

Nghĩa là:

Muốn phá thành sầu phải dùng rượu,

(Nhưng) Say tự say túy lúy, say gục, say như chết, (mà) khi tỉnh rượu, sầu vẫn cứ sầu.

        Là vậy. Phiền muộn. Nâng chén, cứ nâng chén! Khi say, có ai còn nhớ chi đâu…mà buồn?  Khi tỉnh giấc men, thì hỡi ôi, “đạo quân buồn”, không biết ở đâu… lại kéo đến, lại giằng xé, cứa nát tâm hồn ta. Thân thể ta hụt hẫng, chao đảo, đầu óc ta quằn quại, thê lương!

      À há! Phải chăng, cơn say đã dứt! Có gì sáng lòa trên đầu giường? Sương giáng! Không phải! Ha ha...Sáng trăng! (Đã say, quên trời đất, quên cả tấm thân hèn! Cái đầu lú lẫn, hoang mang… “sáng trăng, ta cứ ngỡ là sương giáng”. Sáng trăng à! Trăng ở phía nào vậy? Ta hãy ngắm trăng! …

          Hai câu kết

舉     頭     望     明     月

低     頭     思     故     鄕

Cử đầu, vọng minh nguyệt,

Đê đầu, tư cố hương.

Ngẩng đầu trăng rạng rỡ,  

Cúi đầu nhớ cố hương.

          Ngẩng đầu… trăng rạng rỡ.  Kìa là một vầng trăng tỏ rạng giữa trời. Ánh trăng vằng vặc, ngoạn mục, lồng lộng, nao lòng. Trăng đêm nay, có phải là trăng của ngày xưa? (32) 

          Ô hay! Ta lại đa nhân cách rồi! Ở đây là tâm tình của Lý Bạch, của lão-lão-tiền- bối, bậc thi tiên vĩ đại của đời nhà Đường. Ông chỉ diễn đạt đơn sơ về động thái ngẩng đầu lên xuống, ngắm nhìn vầng trăng sáng, nhìn lên cung quảng tìm chị Hằng, tìm thằng Cuội bên cây đa cổ tích; cúi đầu để nhìn trong tâm tưởng mình. Hằng Nga là một mỹ nhân tuyệt trần. Mỹ nhân xưa thường ẩn dụ cho thánh đế anh minh hay đất nước, quê hương yêu dấu xa xôi. Xin thử đọc lại mấy câu thơ của Tô Thức, (Đỗ Phủ), được trích dẫn:

Quế trạo hề lan tương,

Kích không minh hề tố lưu quang.

Diễu diễu hề dư hoài,

Vọng mỹ nhân hề thiên nhất phương.

Vịnh Tiền Xích Bích, Đỗ Phủ, 杜甫, (712 – 770); Nguyễn Công Trứ, 阮公著, (1778 – 1859), trích dẫn.

桂 掉 兮 蘭 䊢

擊 空 明 兮 泝 流 光

渺 渺 兮予 懷

望 美 人 兮 天 一 方

          Nghĩa là: 

Chèo ta, cây quế (hề) dầm ta, cây lan,

Khua chèo lên khoảng nước sáng (hề) ngược dòng sáng trôi. (33) 

Vời vợi (hề) ta thương nhớ

Mong ngóng bóng mỹ nhân (hề) một phương trời.

           Dịch thơ:

          Đêm trăng, chèo quế, dầm lan,

Ngược dòng lấp lánh, trăng tan ánh ngời.

         Lênh đênh mong ngóng phương trời 

Mỹ nhân, vời vợi, xa xôi, đâu nào? 

                                                             Ngân Triều dịch

          Như vậy, phải chăng vầng trăng sáng lơ lửng trên cao như thánh đế hay quê hương yêu dấu, mà giờ đây ta đã xa cách nghìn trùng?

Cúi đầu…nhớ cố hương. (34)         

         Do đó, khi ta phải sống xa nhà thì nỗi nhớ quê hương trào dâng chất ngất quặn lòng:

Nhật mộ hương quan hà xứ thị,  

Yên ba giang thượng sử nhân sầu.(35)

     Hoàng Hạc Lâu, Thôi Hiệu, (崔顥; khoảng 704–754).

日 暮 鄉 關 何 處 是

煙 波 江 上 使 人 愁

Nghĩa là:

Chiều tà rồi, không biết quê hương, giờ (ở) nơi nao?

(Nhìn) khói sóng trên sông, khiến lòng buồn (không dứt).

                Quê hương khuất bóng hoàng hôn,

     Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?

                Tản Đà, 傘沱, (1889 - 1939), dịch

          Cũng cùng tâm tình ấy, nhưng suy ra chúng ta thấy có một ý thơ tân kỳ, hiện đại (36) của một nhà thơ tiền chiến theo cước chú dẫn dưới đây.

        Xin hãy trở lại với hai động thái của nhân vật trữ tình. Cử đầu 舉 頭 và đê đầu, 低 頭 đối lập nhau, lại kết hợp với nhóm từ ngữ vọng minh nguyệt, 望 明 月, và tư cố hương, 思 故 鄕 rất hàm súc, gợi tả và hoa mỹ như những nét chấm phá độc đáo của nghệ thuật tranh thủy mạc, tuyệt vời.

          Đó là hai động thái, ngẩng đầu nhìn sự vật cụ thể và đê đầu nhìn sự vật trong tâm tưởng để thấy tính cách của nhân vật trữ tình chan chứa những cảm xúc bâng khuâng, buồn nhớ mênh mông:

Cử đầu, vọng minh nguyệt, (37) 

Đê đầu, tư cố hương.(38)

舉     頭     望     明     月

低     頭     思     故     鄕                 

          Tóm lại, từ những chi tiết của ánh trăng sáng trước giường như trời đầy sương trắng, của một người cô lữ ngẩng đầu, cúi đầu nhìn trăng và nhớ cố hương; hòa với một tâm trạng ngỡ ngàng pha chút hoài nghi và thương nhớ miên man … người đọc có thể suy diễn nỗi lòng của nhân vật trữ tình, của tác giả. Đó là một tâm trạng bồn chồn của đêm trăng nặng sầu tư, ai hoài, thương nhớ, ngập lòng.

          Có ai nhìn trăng mà không nhớ bóng trăng xưa? Trăng đêm nay, có phải là trăng của đêm ấy? Tâm hồn ai, biết có dịu dàng, trong sáng, rạng ngời, thiết tha như ánh trăng muôn thuở dạt dào?

          Tĩnh dạ tư, Đêm trăng vắng nặng sầu tư, thật là một bài thơ ý tại ngôn ngoại, tả cảnh-tả tình, đơn sơ, sâu lắng, ngẩn ngơ! 

                                                                      Ngân Triều ֎

***
Chú thích:

[30]


Ảnh Thi tiên Lý Bạch (chữ Hán: 李白; 701 - 762), tự Thái Bạch (太白), hiệu Thanh Liên cư sĩ (青蓮居士). 

[31] tĩnh dạ  , “đêm lặng lẽ, đêm quạnh vắng, đêm nặng sầu tư”.   Tư , “lo nghĩ, buồn nhớ”. Tĩnh dạ tư: Đêm trăng vắng nặng sầu tư

 [32] Trăng vẫn khả ái, diệu hiền, vẫn yểu điệu thục nữ, duyên dáng, bẽn lẽn, e ấp, hồn nhiên, thơ ngây ở tuổi mới lớn, ngày xưa. Tôi vẫn mãi nhớ bóng trăng xưa ấy. Nhưng trăng sáng quá và xa xôi quá! Lòng tôi cứ khư khư giữ mãi những kỷ niệm xao xuyến, những rung động chơi vơi của tuổi học trò. Bóng trăng xưa đó đã ấp ủ trong tôi một trời mơ ước lãng mạn, xa vời. Vì một khoảng cách xa gần nhút nhát đầu đời, không dám tiếp cận, ngỏ lời, cũng là một ngăn cách vô duyên. Thế nên, vầng trăng xưa lộng lẫy, đài các, kiêu sa… sao hiểu được những tiếng tơ lòng đa cung bậc của khách mê si?! (NT)

[33] Thấy ánh trăng tan lung linh trên mặt sóng.

[34] Cố hương,  , là quê cũ của mình, nơi chôn nhao cắt rốn, nơi được sinh ra và lớn lên, nơi ta đã trải qua một thời thơ ấu thú vị, thần tiên, không bao giờ quên. (village d’origine; terre natale).

[25] Thuyền trôi, nhìn khói sóng trên sông, trong nắng chiều tắt dần, chạnh tưởng bữa cơm chiều đoàn tụ, dưới mái ấm gia đình hạnh phúc, tấm thân giờ phiêu bạt phương trời, nỗi nhớ nhà, (niềm thương nhớ quê hương) dậy sóng miên man, làm sao kể xiết

[36] Tân kỳ và hiện đại ở chỗ, không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà, tâm tình cao hơn một bậc, vì có khói hoàng hôn, nhớ nhà là thường tình.

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.

Lòng quê dợn dợn vời con nước,

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

                                             Tràng Giang, Huy Cận, (1919-2005)

[37] Vọng minh nguyệt  , nhìn vầng trăng sáng bằng mắt thường, để thấy cái đẹp xa vời, ngoài tầm tay trong hiện thực bấy giờ.

[38]   Tư cố hương,   , là “nhớ” cố hương, cũng chính là nhìn, nhìn trong tâm khảm, nhìn trong tâm tưởng để thấy lại những nỗi nhớ thương, ray rứt…trong những kỷ niệm vui buồn, yêu dấu, dâu bể, đa đoan.

Thứ Sáu, 14 tháng 6, 2024

Đọc lại bài thơ xuất thần của Hàn Mặc Tử (1912-1940): Đây Thôn Vĩ Dạ

Mời quý bạn xem lại một bài bình thơ đã lâu...

Đây Thôn Vĩ Dạ

*

Ngân Triều 15:14 12 tháng 9, 2013




                                                         Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

                                                         Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên!

                                             Thuyền ai đậu bến sông trăng đó!

                                              Có chở trăng về kịp tối nay?      Ảnh minh họa, Google.

Người bình thơ có phương pháp, có tấm lòng nên bình thơ ko chê vào đâu được. Nhưng nghĩ cho kỹ thì còn 1 điều khuất tất vì chưa nắm được hoàn cảnh sáng tác của "Đây thôn Vĩ Dạ" nên có thể chưa "thổi mạnh hồn thơ".(Sorry, xin đừng cho là tôi múa rìu nhé!)

Hàn Mặc Tử sáng tác bài thơ nầy một cách xuất thần và lúc ấy cơn bệnh ngặt của nhà thơ đang ở vào giai đoạn cuối.

Số là Tác giả có một người ngưỡng mộ ở thôn Vĩ Dạ (thôn dành cho gia tộc hoàng gia), yêu thơ và yêu người. Tuy nhiên, tình yêu đó đã chia xa vì gia đình cô gái Huế không đồng ý. Có một người bạn rất thân với cô gái Huế, khi ấy biết trường hợp của HMT và khuyên cố nhân nên gởi lời thăm hỏi để xoa dịu phần nào một tài hoa sớm nở tối tàn. Cô gái ấy liền gởi cho HMT một cánh thiệp với lời thăm hỏi đơn sơ trên một cánh thiệp bình thường nhưng ko dám ký tên vì e ngại dư luận về đường tình vẩn đục.

ánh thiệp đó có khóm trúc, có con thuyền nhỏ đang đỗ giữa dòng sông và có vầng trăng tròn.

Quả nhiên, HMT vô cùng cảm kích khi nhận được thư của người xưa và trong một thoáng đã xong ngay bài thơ chỉ có 3 khổ thơ réo rắt, trải lòng:

***

Đây Thôn Vĩ Dạ

Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên!

Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc?

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

*

Gió theo lối gió, mây đường mây,

Dòng nươc buồn thiu hoa bắp lay.

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó!

Có chở trăng về kịp tối nay?

*

Khách đường xa, mơ khách đường xa.

Áo em trắng quá nhìn không ra

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?

Hàn Mặc Tử (1912-1940)

*

Sơ lược tiểu sử Hàn Mặc Tử (1912-1940): (Theo Wikipedia).

Thân thế:

Hàn Mạc Tử và những người tình trong thơ: Thương Thương, Kim Cúc, Mộng Cầm, Ngọc Sương, Mai Đình

Tổ tiên Hàn Mặc Tử gốc họ Phạm ở Thanh Hóa. Ông cố là Phạm Chương vì liên quan đến quốc sự, gia đình bị truy nã, nên người con trai là Phạm Bồi phải di chuyển vào Thừa Thiên Huế đổi họ Nguyễn theo họ mẹ. Sinh ra ông Nguyễn Văn Toản lấy vợ là Nguyễn Thị Duy (con cụ Nguyễn Long, ngự y có danh thời vua Tự Đức), sinh hạ được 8 người con:

  1. Nguyễn Bá Nhân (nhà thơ Mộng Châu) cũng là người dìu dắt Hàn Mặc Tử trên con đường thơ văn
  2. Nguyễn Thị Như Nghĩa
  3. Nguyễn Thị Như Lễ
  4. Nguyễn Trọng Trí: 1912
  5. Nguyễn Bá Tín (người cải táng mộ Hàn Mặc Tử từ Quy Hòa về Ghềnh Ráng vào ngày 13 tháng 2 năm 1959).
  6. Nguyễn Bá Hiếu
  7. Nguyễn Văn Hiền
  8. Nguyễn Văn Thả

Thuở nhỏ:

Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí. Ông sinh ở làng Lệ Mỹ, Đồng HớiQuảng Bình.

Khi ông Nguyễn Văn Toản đang làm Chủ sự Sở Thương Chánh Nhật Lệ – Đồng Hới; lớn lên, Hàn Mặc Tử theo cha đi nhiều nơi và theo học ở các trường Tiểu học Sa Kỳ (1920), Quy Nhơn, Bồng Sơn (1921–1923), Sa Kỳ (1924)... đến năm 1926, cụ thân sinh của Hàn Mặc Tử bị bệnh và mất ở Huế, Hàn Mặc Tử được mẹ cho học tiếp ở trường Pellerin - Huế. Năm 1930, Hàn Mặc Tử mới thôi học theo mẹ vào Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Gia đình ông theo đạo Công giáo, ông được rửa tội tại Nhà thờ Tam Tòa với tên thánh là Phêrô Phanxicô.[3]

Hàn Mặc Tử mang vóc mình ốm yếu, tính tình hiền từ, giản dị, hiếu học và thích giao du bè bạn trong lĩnh vực văn thơ. Do cha ông là Nguyễn Văn Toản làm thông ngôn, ký lục nên thường di chuyển nhiều nơi, nhiều nhiệm sở, nên Hàn Mặc Tử cũng đã theo học ở nhiều trường khác nhau ở Sa Kỳ (1920), Quy NhơnBồng Sơn (19211923), Pellerin Huế (1926).

Sự nghiệp làm báo và làm thơ

Ông có tài năng làm thơ từ rất sớm khi mới 16 tuổi. Ông đã từng gặp gỡ Phan Bội Châu và chịu ảnh hưởng khá lớn của chí sĩ này. Ông được Phan Bội Châu giới thiệu bài thơ Thức khuya của mình lên một tờ báo. Sau này, ông nhận một suất học bổng đi Pháp nhưng vì quá thân với Phan Bội Châu nên đành đình lại. Ông quyết định vào Sài Gòn lập nghiệp, năm ông 21 tuổi; lúc đầu làm ở Sở Đạc điền.

Đến Sài Gòn, ông làm phóng viên phụ trách trang thơ cho tờ báo Công luận. Khi ấy, Mộng Cầm ở Phan Thiết cũng làm thơ và hay gửi lên báo. Hai người bắt đầu trao đổi thư từ với nhau, và ông quyết định ra Phan Thiết gặp Mộng Cầm.

Bệnh tật

Theo gia đình Hàn Mặc Tử, thì vào khoảng đầu năm 1935, họ đã phát hiện những dấu hiệu của bệnh phong trên cơ thể ông. Tuy nhiên, ông cũng không quan tâm vì cho rằng nó là một chứng phong ngứa gì đó không đáng kể. Cho đến năm 1936, khi ông được xuất bản tập "Gái quê", rồi đi Huế, Sài Gòn, Quảng Ngãi, vào Sài Gòn lần thứ hai, được bà Bút Trà cho biết đã lo xong giấy phép cho tờ Phụ nữ tân văn, quyết định mời Hàn Mặc Tử làm chủ bút, bấy giờ ông mới nghĩ đến bệnh tật của mình. Nhưng ý ông là muốn chữa cho dứt hẳn một loại bệnh thuộc loại "phong ngứa" gì đấy, để yên tâm vào Sài Gòn làm báo chứ không ngờ đến một căn bệnh nan y.

Năm 1938 - 1939, Hàn Mặc Tử bị đau đớn dữ dội. Tuy nhiên, ở bên ngoài thì không ai nghe ông rên rỉ than khóc. Ông chỉ gào thét ở trong thơ mà thôi. Trước ngày Hàn Mặc Tử vào trại phong Quy Hòaem ruột của nhà thơ là Nguyễn Bá Tín cho biết tình trạng bệnh tật của anh mình như sau: Da anh đã khô cứng, nhưng hơi nhăn ở bàn tay, vì phải vận dụng sức khỏe để kéo các ngón khi cầm muỗng ăn cơm. Bởi vậy, trông như mang chiếc "găng" tay bằng da thô. Toàn thân khô cứng.

Ông Nguyễn Bá Tín, trong một chuyến thăm Bệnh viện Quy Hòa, có đến thăm bác sĩ Gour Vile - Giám đốc Bệnh viện Quy Nhơn. Bác sĩ nói rằng: Bệnh cùi rất khó phân biệt. Giới y học (thời đó) chưa biết rõ lắm. Tuy triệu chứng giống nhau, nhưng lại có nhiều thứ. Đó là căn bệnh do trực khuẩn Hansen gây nên. Ông bác sĩ quả quyết bệnh cùi không thể lây dễ dàng được.

Nhiều truyện kể cho rằng, một hôm Hàn Mặc Tử đi dạo với bà Mộng Cầm ở lầu Ông Hoàng (Phan Thiết), qua một nghĩa địa có ngôi mộ mới an táng thì gặp mưa. Bỗng ông phát hiện ra từng đốm đỏ bay lên từ ngôi mộ. Sau đó ông về nhà nghỉ, để rồi sớm hôm sau ông phát hiện ra mình như vậy. Thực ra đây chỉ là truyện kể hư cấu, chứ về mặt khoa học thì quá trình lây nhiễm rồi xuất hiện triệu chứng của phong cùi phải kéo dài ít nhất là hàng tháng, không thể chỉ diễn ra chỉ trong 1 ngày như câu chuyện này.

Thời đó, kiến thức khoa học về bệnh phong chưa phổ biến rộng rãi, nhiều người cho rằng đây là căn bệnh truyền nhiễm dễ lây nên bệnh nhân thường bị hắt hủi, cách ly, xa lánh, thậm chí bị ngược đãi. Hàn Mặc Tử cũng không là ngoại lệ. Gia đình ông phải đối phó với chính quyền địa phương vì họ đã hay tin ông mắc căn bệnh truyền nhiễm, đòi đưa ông đi cách ly. Sau đó gia đình phải đưa ông chạy chữa nhiều nơi, nhưng thường là các cách chữa phản khoa học và lẽ ra phải sớm đưa ông vào nơi có đầy đủ điều kiện chữa trị nhất lúc bấy giờ là Bệnh viện phong Quy Hòa. Trong câu chuyện với người em của thi sĩ Hàn Mặc Tử, bác sĩ Gour Vile cũng nói rằng theo kinh nghiệm từ các trại cùi, không có bệnh nhân nào chỉ mắc bệnh có từng ấy năm mà chết được. Ông trách gia đình Hàn Mặc Tử không đưa nhà thơ đi trại phong sớm. Bác sĩ cho rằng Hàn Mặc Tử sớm qua đời do nội tạng hư hỏng vì uống quá nhiều thuốc tạp nham của lang băm trước khi nhập viện phong Quy Hòa.

Ông bỏ tất cả quay về Quy Nhơn vào Trại phong Quy Hòa (20 tháng 9 năm 1940) mang số bệnh nhân 1.134 và từ trần vào lúc 5 giờ 45 phút rạng sáng 11 tháng 11 năm 1940 tại đây vì chứng bệnh kiết lỵ,[4] khi mới bước sang tuổi 28.[5]

Bút danh Hàn Mặc Tử

Ngôi mộ đầu tiên của nhà thơ Hàn Mặc Tử (nay là mộ gió) tại Trại phong Quy Hòa.

Ông làm thơ từ năm 16 tuổi lấy hiệu là Phong Trần rồi Lệ Thanh. Đến năm 1936, khi chủ trương ra phụ trương báo Saigon mới đổi hiệu là Hàn Mạc Tử, nghĩa là chàng trai đứng sau bức rèm lạnh lẽo, trống trải. Sau đó bạn bè gợi ý ông nên vẽ thêm Mặt Trăng khuyết vào bức rèm lạnh lẽo để lột tả cái cô đơn của con người trước thiên nhiên, vạn vật. "Mặt Trăng khuyết" đã được "đặt vào" chữ "Mạc" thành ra chữ "Mặc". Hàn Mặc Tử có nghĩa là "chàng trai bút nghiên".

Đánh giá và bình luận

Cuộc đời Hàn Mặc Tử có duyên với 4 chữ "bình": sinh tại Quảng Bình; làm báo Tân Bình; có người yêu ở Bình Thuận và mất tại Bình Định. Ông được biết đến với nhiều mối tình, với nhiều người phụ nữ khác nhau, đã để lại nhiều dấu ấn trong văn thơ của ông - có những người ông đã gặp, có những người ông chỉ giao tiếp qua thư từ, và có người ông chỉ biết tên như Mộng Cầm, Hoàng Cúc, Mai Đình, Thương Thương, Ngọc Sương, Thanh Huy, Mỹ Thiện.

Đã có rất nhiều đánh giá và bình luận về tài thơ của Hàn Mặc Tử. Sau đây là một số đánh giá của các tác giả nổi tiếng:

Mộ Hàn Mặc Tử ở Ghềnh Ráng
  • "Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử như một ngôi sao chổi xoẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói lòa rực rỡ của mình"
  • "Tôi xin hứa hẹn với các người rằng, mai sau, những cái tầm thường, mực thước kia sẽ biến tan đi, và còn lại của cái thời kỳ này, chút gì đáng kể đó là Hàn Mạc Tử."
    (Nhà thơ Chế Lan Viên)
  • "Sẽ không thể giải thích được đầy đủ hiện tượng Hàn Mặc Tử nếu chỉ vận dụng thi pháp của chủ nghĩa lãng mạn và ảnh hưởng của Kinh thánh. Chúng ta cần nghiên cứu thêm lý luận của chủ nghĩa tượng trưng và chủ nghĩa siêu thực. Trong những bài thơ siêu thực của Hàn Mặc Tử, người ta không phân biệt được hư và thực, sắc và không, thế gian và xuất thế gian, cái hữu hình và cái vô hình, nội tâm và ngoại giới, chủ thể và khách thể, thế giới cảm xúc và phi cảm xúc. Mọi giác quan bị trộn lẫn, mọi lôgic bình thường trong tư duy và ngôn ngữ, trong ngữ pháp và thi pháp bị đảo lộn bất ngờ. Nhà thơ đã có những so sánh ví von, những đối chiếu kết hợp lạ kỳ, tạo nên sự độc đáo đầy kinh ngạc và kinh dị đối với người đọc."
    (Nhà phê bình văn học Phan Cự Đệ)
  • "Hàn Mặc Tử có khoảng bảy bài hay, trong đó có bốn bài đạt đến độ toàn bích. Còn lại là những câu thơ thiên tài. Những câu thơ này, phi Hàn Mặc Tử, không ai có thể viết nổi. Tiếc là những câu thơ ấy lại nằm trong những bài thơ còn rất nhiều xộc xệch..."
    (Nhà thơ Trần Đăng Khoa)
  • "...Theo tôi thơ đời Hàn Mặc Tử sẽ còn lại nhiều. Ông là người rất có tài, đóng góp xứng đáng vào Thơ mới."
    (Nhà thơ Huy Cận)
  • "...Một nguồn thơ rào rạt và lạ lùng..." và "Vườn thơ Hàn rộng không bờ không bến càng đi xa càng ớn lạnh..."
    (Nhà phê bình văn học Hoài Thanh)

Tác phẩm

Các sáng tác của Hàn Mặc Tử, gồm có:

  • Lệ Thanh thi tập (gồm toàn bộ các bài thơ Đường luật)
  • Gái Quê (1936, tập thơ duy nhất được xuất bản lúc tác giả chưa qua đời)
  • Thơ Điên (hay Đau Thương, thơ gồm ba tập: 1. Hương thơm2. Mật đắng3. Máu cuồng và hồn điên-1938)
  • Xuân như ý
  • Thượng Thanh Khí (thơ)
  • Cẩm Châu Duyên
  • Duyên kỳ ngộ (kịch thơ-1939)
  • Quần tiên hội (kịch thơ, viết dở dang-1940)
  • Chơi Giữa Mùa Trăng (tập thơ-văn xuôi)

Ngoài ra còn có một số bài phóng sự, tạp văn, văn tế...[6] Xem thêm chi tiết ở bên dưới.

Tuyển tập

Gái quê (1936)

Thơ điên (sau đổi thành Đau thương, 1938)

Hương thơm


Mật đắng

Máu cuồng và hồn điênXuân như ý

Thượng thanh khíCẩm châu duyên

Kịch thơ của Huỳnh Nghi

Những tác phẩm khác:

  • Biết anh
  • Bút thần khai
  • Chùa hoang
  • Đi thuyền
  • Em đau
  • Em sắp lấy chồng
  • Hồn lìa khỏi xác
  • Một cõi quên
  • Này đây lời ngọc song song
  • Nhớ Trường Xuyên
  • Nước mây
  • Rụng rồi
  • Say máu ngà
  • Siêu thoát
  • Thương
  • Tự thuật

Tác phẩm được phổ nhạc

Lời chú ấn tượng

  • Ra đời (Xuất thế gian):

Vinh danh

Ông được biết đến là chủ xướng của Trường thơ Loạn: Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Yến Lan và Bích Khê.

Nhiều địa phương Việt Nam dùng tên của ông để đặt tên đường :[7]

Sáng tác văn nghệ về Hàn Mặc Tử[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 2004, Hãng phim Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh (TFS) đã thực hiện bộ phim Hàn Mặc Tử để kỷ niệm ông.

Nhạc sĩ nổi tiếng Trần Thiện Thanh thuộc dòng nhạc vàng và nhạc trữ tình tại miền Nam Việt Nam trước 1975, sinh trưởng tại Phan Thiết, có sáng tác một bài hát nổi tiếng nói về cuộc đời Hàn Mặc Tử. Bài hát đã được chính tác giả (ca sĩ Nhật Trường) nhiều ca sĩ dòng nhạc vàng cả ở Việt Nam và hải ngoại thu âm.

Các bản dịch ra tiếng nước ngoài

Năm 2001, nhà xuất bản Arfuyen đã xuất bản tuyển tập thơ của Hàn Mặc Tử sang tiếng Pháp, lấy tên Le Hameau des roseaux (Đây thôn Vĩ Dạ) do Hélène Péras và Vũ Thị Bích dịch.[8][9][10]

Chú thích

  1. ^ Sách giáo khoa Ngữ văn 10 tập một - bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống. Nhà xuất bản Giáo Dục Việt Nam. 2022. tr. 51. ISBN 978-604-0-33960-7.
  2. ^ Trong số bạn, Hàn Mặc Tử và Quách Tấn có mối thâm tình thật đặc biệt. Xem thêm Quách Tấn và Bàn thành tứ hữu
  3. ^ “Thi nhân Hàn Mặc Tử”Cổng thông tin điện tử tình Quảng BìnhBản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 9 năm 2020.
  4. ^ Hoàng Nguyên Vũ (8 tháng 5 năm 2007). “Hàn Mặc Tử không chết vì bệnh phong?”. Báo Công An Nhân dân. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2010Bài viết có sử dụng một số tư liệu do nhà báo Trần Đình Thu cung cấp
  5. ^ Theo Hàn Mặc Tử - nhà thơ có số phận kỳ lạ: Cái chết được báo trước trong thơ Lưu trữ 2007-01-02 tại Wayback Machine trên báo Thanh Niên ngày 20/01/2005.
  6. ^ Phần liệt kê tác phẩm, căn cứ theo quyển Hàn Mặc Tử- Hương thơm và mật đắng, do Trần Thị Huyền Trang biên soạn. Nhà xuất bản Hội nhà văn, 1990, tr. 6.
  7. ^ Tra cứu mã bưu chính Lưu trữ 2012-04-29 tại Wayback Machine theo từ khóa "Hàn Mặc Tử": Bình Định (phường Ghềnh Ráng; Quy Nhơn Bà Rịa – Vũng Tàu (phường 7, Vũng Tàu); Đà Nẵng (phường Thuận PhướcHải Châu); Đắk Lắk (phường Tân AnBuôn Ma Thuột); Huế (phường Vỹ Dạ, Huế, Thừa Thiên Huế); Nghệ An (phường Trung ĐôVinh); Phan Thiết (đường dẫn lên Lầu Ông Hoàng); Quảng Bình (phường Đồng MỹĐồng Hới); Thanh Hóa (phố Hàn Mặc Tử, phường Trường ThiThanh Hóa); Thành phố Hồ Chí Minh (phường 12, Tân Bình; phường Tân ThànhTân Phú; đường Nguyễn Trọng Trí, quận Bình Tân, gần bến xe Miền Tây).
  8. ^ Thụy Khuê (27 tháng 4 năm 2002). “Hélène Péras và Hàn Mặc Tử”Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2011.
  9. ^ Arfuyen. “HAN MAC TU - Le Hameau des roseaux” (bằng tiếng Pháp). Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 11 năm 2008. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2011.
  10. ^ ISBN 2-908-82596-1

Liên kết ngoài

*
1-Khổ thơ đầu:

Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên

Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc?

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Thác lời cố nhân băn khoăn, mời mọc(Sao anh không về chơi...?). Hồi tưởng những kỷ niệm xưa (Nhìn nắng hàng cau) và nhấn thêm cảnh tươi thắm ngoạn mục của hàng cau thân rêu trắng, lá xanh trong nắng vàng (nắng mới lên) và cảnh xanh tươi, mát mẻ đặc trưng của cả vườn cây quý tộc(Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc?) Và nhớ rất rõ khuôn (mặt chữ điền), khuôn mặt của một người con gái không đẹp lắm nhưng phúc hậu, bao dung. Khuôn mặt đó như e ấp, kín đáo, rõ là một cái đẹp thuần phác, nết na. (Lá trúc che ngang mặt chữ điền.)

2- Sang khổ thơ thứ hai:

Gió theo lối gió, mây đường mây,

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay.

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó!

Có chở trăng về kịp tối nay?

Hoài niệm về cuộc tình dang dở, chia xa, ẩn dụ một cách bóng bẩy, mượt mà. (Gió theo lối gió, mây đường mây). Nỗi buồn đó đã từng réo rắt tâm tư của tác giả. Buồn như dòng nước trong tấm thiệp (thực) và hình ảnh hoa bắp lay động từng đợt cúi đầu trong cơn gió mạnh một cách vô hồn(Liên tưởng). Dòng nước buồn thiu rồi cũng trôi qua, hoa bắp cúi đầu một lúc...rồi lại đứng thẳng bình thường. Chạnh lòng về mối tình đà cất cánh bay xa đó, tôi (HMT) rất buồn nhưng có lẽ thời gian luôn làm lành những vết thương lòng. ( Gió theo lối gió, mây đường mây,Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay). Rõ ràng, lời ít ý nhiều đầy sắc thái biểu cảm!

Lại nhìn đến tấm thiệp, có con thuyền và vầng trăng sáng tỏ (thực):Thuyền ai đậu bến sông trăng đó! Là câu cảm thán nhấn mạnh. Để rồi tự hỏi một cách mộng mơ bằng một câu hỏi tu từ có màu sắc riêng chủ thể (Có chở trăng về kịp tối nay?).

3-Đọc khổ thơ cuối:

Khách đường xa, mơ khách đường xa.

Áo em trắng quá nhìn không ra

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?

Tâm tình vẫn cho người con gái ấy một cách trân trọng và bóng bẩy. Tôi (HMT) lại nhìn vào tấm thiệp, nào thấy em đâu! Chắc rằng "em" đang mặc áo trắng, làn da trắng (liên tưởng), ở nơi đó, mùa nầy có nhiều sương khói, cho dẫu hình bóng em bên khóm trúc, có in trên tấm thiệp (tác giả cứ cho là vậy/ thực) nhưng anh (HMT) nào thấy em đâu! (mộng mơ). Chỉ nhìn thấy một hình ảnh mờ (mường tượng trong tâm khảm): "Ở đây sương khói mờ nhân ảnh"

Câu cuối rất kín đáo, sâu sắc. Cuộc tình giờ đã vậy. Em biết không, rằng anh (HMT) vẫn yêu em! "Đậm đà" là tình cảm nồng nàn, trọn vẹn, không bao giờ nhạt phai. Phiếm chỉ đại từ "ai" như đã ngầm thể hiện nỗi lòng mình trước một hiện thực khó lòng bộc trực. (Ai biết tình ai có đậm đà?)

Cuối cùng, tôi (NT) xin mượn câu kết của tác giả (người đã cho tôi chút cảm hứng để hoàn thành bài bình sơ lược nầy.

"Trải qua bao năm tháng, cái tình của Hàn Mặc Tử vẫn còn tươi nguyên, nóng hổi và day dứt trong lòng người đọc. “Tình yêu trong ước mơ của con người đau đớn ấy có sức bay bổng kì lạ” nhưng nó cũng giản dị, trong sáng và tươi đẹp như làng quê Vĩ Dạ. Đây là một nghệ sĩ tài hoa, một trái tim suốt cuộc đời luôn thổn thức tình yêu, một tâm hồn thi sĩ đã biến những nỗi đau thương, bất hạnh của đời mình thành những đóa hoa thơ, mà trong đó thơm ngát nhất, thanh khiết nhất là bài “Đây thôn Vĩ Dạ”.(1)

Ngân Triều

*

Ảnh minh họa bài thơ, Google

--------------------------------------------------------------------------------------

Ghi chú: (1) Đoạn cuối nầy, trích trong bài "Đọc lại bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử do bạn Thu Ngân sưu tầm.



Đẹp ❤❤❤