Thứ Tư, 7 tháng 10, 2020

Những giai thoại về cuộc đời Bùi Giáng/ Hồ Khánh Dũng chia sẻ

 

Những giai thoại về cuộc đời Bùi Giáng

Khả năng sáng tác vô tiền khoáng hậu và không thể giải thích

Bùi Giáng đã đi qua đời sống như một cuộc dạo chơi, cách ông viết, dịch sách, hay làm thơ đều nhẹ tâng, không chủ đích, không màng danh lợi. Không ai biết chính xác Bùi Giáng có bao nhiêu tác phẩm, dù chẳng mấy khi người ta thấy Bùi Giáng tỉnh táo và sáng tác, nhưng ông là tác giả có tác phẩm in ra đứng vào hàng kỷ lục ở miền Nam trước 1975 với hàng trăm đầu sách. Gia tài thơ văn hàng ngàn tác phẩm của ông rơi rớt khắp nơi mà ông từng bước chân qua.

Tuy nhiên, Bùi Giáng hoàn toàn không phải một học giả cần mẫn, suốt ngày giam mình trong thư phòng để miệt mài bên trang sách như chúng ta thường hình dung về một tác giả viết sách nổi tiếng, kiểu như là Nguyễn Hiến Lê hay Sơn Nam.

Ngược lại, nhiều người bạn của Bùi Giáng đã ngạc nhiên nói rằng họ chỉ thấy ông suốt ngày lang thang rong chơi nhàn nhã, nhưng một khi nhà xuất bản cần, chưa đến một ngày ông đã mang đến cả năm bảy trăm trang sách. Ông viết sách vào thời gian nào, cho đến nay vẫn là một bí ẩn khó giải thích.

Nhà văn Mai Thảo là một người rất gần gũi với Bùi Giáng trước năm 1975, kể lại chuyện viết sách của ông như sau:

“…Suốt thời kỳ đó, có thể nói, thầy Thanh Tuệ (Giám đốc Nhà xuất bản An Tiêm) vì một tấm lòng liên tài đặc biệt, chỉ mê thích thơ văn Bùi Giáng, đã dành trọn phương tiện cho ưu tiên xuất bản tác phẩm của Bùi Giáng trước mọi tác giả khác. Và giai đoạn có thể đặt tên là giai đoạn Bùi Giáng này, An Tiêm đã in đêm in ngày, in mệt nghỉ, vì những năm tháng đó chính là những năm tháng đánh dấu cho thời kỳ sáng tác kỳ diệu sung mãn nhất của Bùi Giáng, cõi văn cõi thơ Bùi Giáng bấy giờ ào ạt vỡ bờ, bát ngát trường giang, mênh mông châu thổ, Bùi Giáng bấy giờ mỗi tuần viết cả ngàn trang khiến chúng tôi bàng hoàng khiếp đảm, ngôn ngữ và tư duy của Bùi Giáng hiển lộng tới không bến không bờ, vô cùng vô tận, và tài năng ông cũng vậy.

Bùi Giáng chất ngất một trời chữ nghĩa, Bùi Giáng trùng trùng một biển văn chương. Vậy mà mỗi lần gặp thi sĩ hồi đó, cảm tưởng bao giờ cũng giữ được là đã gặp một Bùi Giáng rất nhàn rỗi, rất rong chơi.

Bước chân vào nhà Thanh Tuệ chúng tôi đã thấy Bùi Giáng ngồi trước đó, tươi cười, ung dung, trong cái phong thái của một người nhàn nhã nhất thế giới, chẳng có một dấu vết nào của một người viết đang gió táp mưa rơi trên ngàn ngàn trang sách.

Vắn tắt là Bùi Giáng chẳng làm gì hết, chẳng ai một lần nhìn thấy Bùi Giáng đang làm gì hết. Mà hoàn toàn phiêu bông, hoàn toàn rong chơi. Vậy mà cái sức viết hồi đó đến như Bùi Giáng là tột đỉnh, là không tiền khoáng hậu. Vậy mà cái lực viết đến như Bùi Giáng và thấy Bùi Giáng là ngàn người không một, là phi phàm, là vô địch rồi”.

Cũng nhà văn Mai Thảo kể lại, khi ông làm số báo Văn đặc biệt về Bùi Giáng, muốn có thơ của ông nhưng chưa biết kiếm ông ở đâu thì bất ngờ ông ghé tòa soạn. Mai Thảo kể:

“Ông ấy chỉ còn là da bọc xương trong quần áo thùng thình, mái tóc dài đạo sĩ, cái túi vải còn thêm cây gậy. Kéo ông ra trước báo quán chụp chung một tấm hình làm kỷ niệm rồi tôi hỏi xin ông những bài thơ mới nhất. Ông gật. Tưởng lấy ở túi vải ra. Hoặc nói về lấy, hoặc nói hôm sau.

Tất cả đều không đúng. Ông hỏi mượn một cây bút, xin một xấp giấy, một chai bia lớn nữa, đoạn ngồi xuống, và trước sự kinh ngạc cực điểm của chúng tôi, bắt đầu tại chỗ làm thơ. Ông không chép lại thơ đã làm. Ông làm thơ tại chỗ. Lần đầu tiên tôi thấy Bùi Giáng viết, thoăn thoắt, vùn vụt, nhanh không thể tả. Như thơ không thể từ đầu, từ tim chảy xuống, xa quá, lâu quá, mà ngay từ đầu ngọn bút từ đầu ngón tay thôi. Làm thơ ứng khẩu, làm thơ tại chỗ, nhiều người cũng làm được nhưng là thơ thù tạc và chỉ dăm bảy câu và một bài thôi. Bùi Giáng khác. Chai bia còn sủi bọt, ông ngồi viết không ngừng, tự dạng nắn nót chỉnh đốn, thấy bài nào cũng khác lạ, cũng thật hay, cũng đích thực là từng hạt ngọc của cái thơ thượng thừa Bùi Giáng.

Lần đó, tôi đã hiểu tại sao Bùi Giáng cứ cánh bướm rong chơi, cứ phiêu bồng lãng du mà vẫn có ngay nghìn câu một buổi. Đúng là ngủ ra thơ, thở ra thơ, uống la-de, hút thuốc lá ra thơ. Mà thơ không ai sánh bằng, thơ không ai đuổi kịp. Ông uống cạn chai la-de, lập lại ba tiếng bất hủ “Vui thôi mà” rồi đứng lên từ biệt”. (Trích bài Vài kỷ niệm với Bùi Giáng – Mai Thảo)

Hai lần bỏ học đại học khi nhìn thấy danh sách giáo sư giảng dạy

Mặc dù sinh ra và lớn lên trong thời điểm loạn lạc, Bùi Giáng vẫn gặp may mắn trong con đường học vấn, nhưng ông luôn phá ngang con đường đó bởi vì những lý do hết sức dị thường.

Bùi Giáng học tiểu học ở quê hương Quảng Nam, sau đó ra Huế học Thành Chung. Thi đậu bằng Thành Chung của Pháp, ông đã thông thạo được tiếng Pháp, am tường lịch sử, văn hoá. Sau đó ông lên đường theo kháng chιến. Năm 1950, Liên Khu V tổ chức cuộc thi tú tài đặc biệt, Bùi Giáng dự thi và đậu tú tài 2 văn chương, rồi lên đường ra Liên khu IV, tới Hà Tĩnh, để tiếp tục vào học đại học. Từ Quảng Nam thuộc Liên khu V ra tới Hà Tĩnh thuộc Liên khu IV phải đi bộ theo đường mòn trên núi hơn một tháng rưỡi trời. Nhưng khi ra đến nơi, không hiểu sao ngay trong ngày khai giảng, Bùi Giáng đã quyết định bỏ học để quay ngược trở về Quảng Nam để đi… chăn bò.

Lần thứ 2 Bùi Giáng bỏ học đại học là năm 1952, sau 2 năm về quê chăn bò, ông ra Huế lấy bằng Tú tài Pháp để sau đó vào Sài Gòn ghi danh học đại học Văn Khoa. Tuy nhiên khi nhìn thấy danh sách giáo sư giảng dạy của trường này, ông quyết định không học nữa vì thấy “không phục”.

Sau lần đó, Bùi Giáng không bao giờ đi học nữa và bắt đầu viết khảo luận, sáng tác, dịch thuật và đi dạy học tại các trường tư thục.

Thi nhân chăn bò

Sau khi bỏ ngang việc học lần đầu tiên như đã kể ở trên, Bùi Giáng về quê và trở thành mục đồng đi chăn bò ở khắp vùng đồi núi. Có lẽ đây là quãng thời gian lãng mạn và thong thả nhất trong đời Bùi Giáng. Ông viết về những tháng ngày này như sau:

“Tôi bỏ học, chẳng biết chi sách vở. Chạy về quê làm thằng chăn bò. Bao nhiêu thơ làm ra, tôi âm thầm tặng hết cho chuồn chuồn châu chấu!”.

Vì yêu mến nhân vật Tô Vũ chăn dê thời Hán Vũ Đế, nên dù chỉ có 2 năm chăn bò, Bùi Giáng gọi đây là 15 năm chăn dê cho giống Tô Vũ. Ông đã ghi lời tựa là: “Kỷ niệm một đoạn đời 15 năm chăn dê ở núi đồi Trung Việt Nam Ngãi – Bình Phú” trong bài thơ mang tên Nỗi Lòng Tô Vũ dài 60 câu, viết về những nàng thơ đặc biệt: Những con bò (mà ông gọi là dê). Ông đã xưng “anh” và gọi dê là “em”:

Ngẩng đầu lên! Dê ơi anh thong thả
Đeo vòng vào em nghển cổ cong xinh
Ngẩng đầu lên! Đây lòng anh vàng đá
Gửi gắm vào vòng mây nhuộm tơ duyên.

Tặng xong kỷ vật cho các nàng dê, Bùi Giáng bắt đầu thề thốt những lời vàng đá sắt son:

Và giờ đây một lời thề đã thốt
Nghìn thu sau đồi núi chứng cho ta
Cao lời ca “bê hê” em cùng thốt
Hoà cùng lời anh nghẹn nỗi thiết tha.

Dĩ nhiên là loài dê không thể trả lời “Yes, I do” như những cô gái thường hay e thẹn khi nhận được lời tỏ tình, chúng chỉ có thể “bê hê” để đáp lại thi sĩ mà thôi. Quả thật là thơ của Bùi Giáng đã dị thường ngay từ thuở tuổi còn đôi mươi như vậy.

Trong khoảng thời gian đi chăn bò từ 1950-1952, chàng thi sĩ trẻ đã thả hồn mình rong ruổi trên những thảo nguyên rộng lớn, những đồi núi chập chùng theo dấu chân du mục. Để ghi lại những tháng ngày diễm tuyệt đó, ngoài bài thơ Nỗi Lòng Tô Vũ, còn có bài Anh Lùa Bò Vào Đồi Sim Trái Chín:

“Anh nằm xuống để nhìn lên cho thoả
Anh thấy lòng mở rộng đón trời xanh
Chìm ngây ngất vào trong đôi mắt lả
Anh lim dim cho chết lịm hồn mình

Cây lá bốn bên song song từng lứa
Sánh đôi nhau như ứa lệ ngàn ngàn
Hạnh phúc trời với đất mang mang
Với bò giữa rừng hoang đương gặm cỏ

Với người ngó ngất ngây đương nằm đó
Không biết trời đất có ngó mình không”.

Thật là một tâm hồn tự do và khoáng đạt.

Người vợ xinh đẹp của Bùi Giáng

Lâu nay, người ta chỉ nói nhiều về Bùi Giáng cùng những bóng hồng xa xôi, những người tình viễn mộng đã đi vào trong thơ ca, ít người biết rằng khi mới 19 tuổi, ông đã từng có một người vợ hiền rất xinh đẹp. Câu chuyện này được cố nhà báo – nhạc sĩ Vũ Đức Sao Biển ghi lại theo lời kể của người em ruột Bùi Giáng, tên là Bùi Luân:

“Phải nhận là chị xinh đẹp, cởi mở, vui tính, hồn nhiên… Gương mặt chị, hình ảnh chị đã nổi bật, sáng ngời mãi trong ký ức tôi. Duy có điều bất cứ ai, dù không biết gì nhiều về tướng số, gặp chị là cũng nhận ra ngay: Chị không thể ở lâu với chúng ta trên cõi đời này, dù cõi đời vốn đã ngắn ngủi. Lấy chồng được ba năm, chị đã đột ngột lìa đời lúc mới ngoài hai mươi tuổi… Chị trút hơi thở một cách bình thản”.

Hôn nhân ngày trước thường do cha mẹ đôi bên sắp đặt, và có lẽ cuộc hôn nhân của Bùi Giáng cũng không đi ra ngoài quy luật đó. Bùi Giáng với tính tình khác người, lại ham chơi, nên có lẽ bà Bùi Giáng đã chịu không ít khổ sở. Ông Bùi Luân kể:

 “Chỉ một thời gian ngắn sau ngày cưới, người vợ trẻ đã phải lặn lội từ cái thung lũng ngoạn mục nhất đó, xuôi sông Thu Bồn êm đềm với ngàn dâu xanh ngát, về nhà bố mẹ chồng ở Thanh Châu cách hàng mấy chục cây số. Trên chiếc đò bé nhỏ, chàng trai nói với người vợ trẻ: Nếu em không đổi ý quay về, không bỏ qua chuyện cũ thì tôi sẽ… nhảy ra khỏi đò!

Khách xuôi đò tưởng người con trai đùa dọa người vợ mảnh dẻ. Để nguyên quần áo, ngay lập tức anh mình gieo xuống giữa dòng sông Thu. Và bơi theo đò. Để rồi thả trôi theo dòng nước hết chỗ mấy chục cây số đó, tới tận bến nhà”.

“Bỏ qua chuyện cũ” là chuyện gì? Đó là một chuyện rất… trẻ con. Ông Bùi Luân tiết lộ: “Cô con dâu đứng bên bà mẹ chồng sụt sùi: Anh cho con ăn toàn khoai lang và rau luộc. Anh không cho con mua cá mua thịt…”

Người vợ qua đời năm 1948 khi Bùi Giáng vắng nhà và ở tận mãi trong chιến khu.“Phút lâm chung, chị không thấy mặt chồng… Tôi chỉ biết là anh có mặt vào phút chót của buổi tiễn đưa chị về nơi an nghỉ cuối cùng – anh đứng bên cạnh chiếc quan tài với vành khăn trắng trên đầu”. (Trích lời ông Bùi Luân)

Hai năm sau sự ra đi của vợ, Bùi Giáng dẫn bò đi chăn như đã nhắc đến ở trên, đã có nhiều lúc ông nhơ đến người vợ quá cố, và khóc thương trong bài thơ tràn ngập không khí bi ai và hoài cảm:

“Em chếƭ bên bờ lúa. 
Để lại trên lối mòn. 
Một dấu chân bước của
Một bàn chân bé con!

Anh qua trời cao nguyên. 
Nhìn mây buồn bữa nọ. 
Gió cuồng mưa khóc điên. 
Trăng cuồng khuya trốn gió.

Mười năm sau xuống ruộng. 
Đếm lại lúa bờ liền. 
Máu trong mình mòn ruỗng. 
Xương trong mình rả riêng.

Anh đi về đô hội. 
Ngắm phố thị mơ màng.
Anh vùi thân trong tội lỗi. 
Chợt đêm nào, gió bờ nọ bay sang”.

Một thời “điên rực rỡ”

Bùi Giáng từng ghi tiểu sử của mình rằng: Từ năm 1969 – Bắt đầu điên rực rỡ.

Việc Bùi Giáng có điên thật sự hay không thì đã có nhiều bài viết nói đến. Nhiều người khẳng định Bùi Giáng là người điên, một số khác lại nói ngược lại.

Bộ dạng bên ngoài của ông những năm về sau luôn trong ở tình trạng giống một người điên. Hoặc là ông giả điên trước những nhân tình thế thái, hoặc là đó chỉ là hình hài bình thường của một kỳ nhân mà những người trần như chúng ta không thể nào hiểu nổi.

Trong một bài viết, tác giả Trần Đới khẳng định: “Một sự thực là Bùi Giáng chưa bao giờ điên. Cũng như anh chẳng bao giờ giả điên. Càng chưa bao giờ Bùi Giáng bất mãn trước bất cứ thời thế nào. Bởi lẽ dễ hiểu là Bùi Giáng chẳng sống theo thời thế, mà chỉ biết sống từ cõi văn nghệ luý tuý càn khôn của anh. Thời kỳ của Bùi Giáng bộc phát ra bên ngoài mà chúng ta gọi là điên, ấy là thời kỳ tỉnh lại và hưng phấn cùng độ của người nghệ sĩ. Tất cả lẽ chân thiện mỹ của nghệ thuật thi ca từ nhiều đời nhiều kiếp đều dồn về lúc đó… Bây giờ người thi sĩ này chỉ còn một cách duy nhất để sáng tác nguồn cảm hứng kia là sống”.

Tác giả Nhất Thanh thì viết: “Ồ, chẳng có ngôn từ nào thích hợp với Bùi Giáng cả. Ông chỉ là một ông già bình thường nhất, dễ thương nhất. Nếu có điên chăng, có lẽ là tất cả chúng ta”.

Nhà văn – nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn thì nhận xét:

Nếu ai đã có dịp nhìn thấy ông mang trên mình đủ các thứ: nồi, niêu, xoong, chảo, vành bánh xe đạp, đầu đội mũ sắt, vắt trên vai những miếng băng vệ sinh nhặt được ở đâu đó, tay cầm một chiếc gậy, đứng giữa đường, thổi còi, vung tay chỉ lối cho xe cộ, thì coi ông là một người điên cũng không có gì quá đáng.

Còn chính Bùi Giáng cũng nói về sự điên như sau:

“Nó điên? Vâng nhưng điên một cách vui vẻ. Bạ đâu gọi đó là mẫu thân bát ngát của con. Người ta bảo rằng nó không điên. Có kẻ bảo rằng nó giả vờ điên. Muốn biết nó điên hay không điên, hay giả vờ điên, thì trước hết phải đáp vào câu hỏi: Sao gọi là điên? Nhưng mà? Nhưng mà đó là một câu hỏi chưa hề có một lời giải đáp dưới gầm trời và suốt xưa nay vậy”.

Đọc xong những lời này của chính đương sự, có lẽ là càng làm cho người ta cảm thấy bối rối. Phải chăng sự dị thường mà ông thể hiện ra là bởi vì ông là một bậc kỳ nhân hiếm có, nên cái nhìn, cái cảm quan của ông không hề giống với thiên hạ, nên khi người ta thấy một người không giống mình cho lắm thì nói rằng đó là người điên?

Bùi Giáng có điên hay không thì chưa biết, nhưng việc ông bị người ta đẩy vô “nhà thương điên” thì hoàn toàn là có thật. Thời gian sau này, ông đã có những hành động cổ quái giữa thanh thiên bạch nhật, ngay trên đường phố Sài Gòn càng làm cho nhiều người quả quyết rằng là ông bị điên, đó là những hình ảnh thường được kể lại như sau:

“Có những buổi chiều đông đặc xe cộ, tôi ngồi uống cà phê bên đường nhìn ông đứng làm cảnh sát giao thông nơi đầu cầu Trương Minh Giảng. Ông đội một chiếc quần lót đỏ chói trên đầu, áo quần te tua, tay cầm chiếc roi tre dài, xoay ngang xoay dọc chỉ đường cho xe cộ. Người ta đi qua, cố gắng tránh xa ngọn roi tre dài, nhưng không ai chú ý đến ông. Ông loay hoay như vậy giữa dòng xe cộ hàng giờ liền, rồi chán, bỏ đi.

Có lần tôi thấy ông mặc một chiếc áo chim cò rộng thùng thình. Chiếc áo rất mới có vẻ hàng ngoại đắt tiền, chắc ai đó ở nước ngoài về tặng ông. Nhưng chỉ vài hôm đã thấy chiếc áo trở nên cũ bẩn. Ðôi khi tôi bắt gặp ông ngồi dưới hành lang trong sân Vạn Hạnh, chỗ gần cổng. Ông nửa ngồi nửa nằm, tựa lưng vào cột. Dưới bóng cây phượng xanh mát, những lúc như vậy trông ông có vẻ tỉnh và buồn. Ông ngồi một mình, ánh mắt sau cặp kính cận dày nhìn xa xăm ra dòng xe cộ bên ngoài cổng trường.

Hình như Bùi Giáng không chỉ lang thang trong “lãnh địa” chợ Trương Minh Giảng và trường Vạn Hạnh. Một lần tôi thấy ông ở một chỗ khác, khá xa “nhà”. Hôm đó trời mưa to, tôi đứng chơi trên lầu nhà một anh bạn ở đường Nguyễn Thiện Thuật, đối diện một cái chợ, không nhớ rõ là chợ Vườn Chuối hay chợ Nguyễn Thiện Thuật. Trước chợ có một đống rác cao nghệu, đen xì, bục ướt và rất hôi thối. Bùi Giáng đang đứng cãi nhau với một bà bán hàng ngay cạnh đống rác.

Chắc ông phá phách gì nên bị bà này mắng xối xả, còn ông thì chỉ la ó những câu vô nghĩa để đáp lại. Nhưng ông cũng hoa tay múa chân vẻ khá hung hăng. Cuối cùng người đàn bà xô mạnh Bùi Giáng. Ông ngã chỏng gọng vào đống rác đen, miệng la bai bải. Cặp kính cận dày và cái thân hình lèo khoèo trong tư thế nằm ngửa khiến ông trông giống một con bọ ngựa bị bẻ chân. Dưới trời mưa tầm tã, ông có vẻ không gượng dậy được vì đống rác quá nhão. Còn người đàn bà vẫn tiếp tục chửi bới.

Tôi cũng đã thấy Bùi Giáng trong một trường hợp khác, rất đáng nhớ. Một buổi sáng chỉ mới khoảng 6 giờ, sinh viên ký túc xá bỗng nghe tiếng la hét từ phía dãy phòng các sinh viên nữ. Thỉnh thoảng chúng tôi vẫn nghe những tiếng la như vậy khi có trộm lẻn vào bên khu nữ. Tôi vội chạy ra hành lang. Nhìn qua bên dãy nữ, thấy các mái tóc dài thò ra rồi thụt vào, hết người này đến kẻ khác. Tiếng la oai oái vẫn không ngớt, nhưng bây giờ xen lẫn tiếng cười khoái trá của các sinh viên nam. Nhìn xuống, tôi thấy giữa sân trường, Bùi Giáng đang trong tư thế trồng chuối, nhưng hoàn toàn… khỏa thân, quần áo cởi hết ra để bên cạnh. Mấy sinh viên bảo vệ từ ngoài cổng vội chạy đến, nhét quần áo vào tay ông lôi ra khỏi sân trường. Thật là một buổi “điểm tâm” đặc biệt cho cả ký túc xá. (Trích Bùi Giáng Như Tôi Thấy – Phan Nhiên Hạo)

“Một ông lão ăn mặc thời thượng đang nhảy múa trên đường Duy Tân, nay là đường Phạm Ngọc Thạch. Quần áo lếch thếch, dơ dáy, màu sắc lung tung. Tay cầm một ống sáo, đầu đội khăn có cắm lông gà lua tua. Râu ria xồm xoàm. Ống sáo trên đầu bịt một chiếc bong bóng đỏ, mỗi lần thổi bung lên tóp xuống, không phát ra một thứ âm thanh nào. Đang từ ở một mé đường ông lại chạy tông ra giữa đường nhảy múa. Chiếc bong bóng cứ liên tiếp phùng ra tóp vào. Lũ trẻ chạy theo bu quanh hò reo thích chí. Cứ thế ông diễu hành dọc theo đường Duy Tân lên đường Hiền Vương, nay là đường Võ Thị Sáu. Đám trẻ cứ bu theo ông chọc ghẹo. Ông rượt đuổi chúng chửi rủa thậm tệ và miệng lẩm nhẩm những gì không ai hiểu nổi. Đứng ngoài nhìn ông diễu hành, tôi thấy cám cảnh nên đã trờ xe đến gần gọi ông, nhưng ông không hề nghe vẫn tiếp tục nhảy múa. Vài đứa trẻ nhìn tôi lấy làm lạ. Tôi tiếp tục gọi ông. Lần này ông quay lại nhìn và nhận ra tôi rồi nhờ tôi chở đến nhà Đinh Cường. Khi ngồi ở sau xe tôi, Bùi Giáng trở nên hiền khô. Tôi thấy hai đòn bánh treo tòn teng ở cổ kỳ kỳ. Bùi Giáng hiểu và cho tôi hay là mẹ Trịnh Công Sơn vừa mới cho”. (Trích lời Nguyễn Văn Thức)

Những giai thoại vui về Bùi Giáng

Một ngày vào năm 1963, thi sĩ Viên Linh chở Bùi Giáng đi thăm người tình. Ông rất trang trọng trong cuộc đi thăm này.

Trước khi đi, ông mặc gần một chục chiếc sơ mi chồng lên nhau, áo sạch giặt ủi đàng hoàng. Ra khỏi cửa ông lột chiếc sơ mi đầu tiên ném xuống đường, hối Viên Linh đi, rồi lần lượt ném gần hết áo, tới trước nhà người yêu ông cởi đến chiếc kế chót, còn lại chiếc chót ông mới bước vào nhà người yêu.

Một lúc sau ông trở ra hí hửng. Viên Linh hỏi ông:

– Sao ông mặc nhiều áo thế rồi cứ cởi ra vứt đi vậy?

– Tau phải làm thế, đến với người yêu thì phải trong sạch từ tâm hồn đến thể xác. Những chiếc áo bận đi đường bị nhuốm bụi hồng trần, tau đến với nàng phải là chiếc áo tinh khiết nhất… như tâm hồn tau vậy!

Một hôm Bùi Giáng ghé trụ sở hội Nhà Văn chơi. Lúc bấy giờ nhà thơ Thu Bồn, một ủy viên ban chấp hành hội Nhà Văn Việt Nam, đang đứng trò chuyện với nữ sĩ Thu Ba, trông thấy ông bèn gọi lại bảo rằng:

– Nghe đồn ông có tài xuất khẩu thành thơ, làm một bài cho anh em nghe chơi.

Bùi Giáng gãi tai trả lời:

– Lâu quá tui không có làm thơ, quên mất cả rồi.

Thu Ba năn nỉ:

– Làm đại một câu lưu niệm đi mà. Bấy lâu chỉ kiến văn kỳ thanh hôm nay mới kiến diện kỳ hình ông đó.

Bùi Giáng cười :

– Nhưng tui làm dở, đùng có cười tui nghe!

Thu Bồn giục:

– Thôi mà đừng khiêm tốn nữa, không ai cười đâu.

Bùi Giáng tằng hắng một tiếng rồi đọc:

Thu Ba khen ngợi Thu Bồn
Thu Bồn cảm động sờ vai Thu Ba

Thu Ba nhăn mặt:

– Ý dà, ông làm thơ lục bát chi mà chẳng có vần có điệu gì hết trơn.

Bùi Giáng đáp:

– Thì sức tui chỉ có vậy, cô muốn thơ có vần thì kiếm chữ khác thay vào đi.

Thu Ba bỗng đỏ mặt hứ lên một tiếng. Bùi Giáng lại cười một cách ngây thơ rồi quay đi trước cái nhìn giận dữ của Thu Bồn.

nhacxua.vn tổng hợp và biên soạn

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét