[13]
Đề nghĩa lư nàng Long Cơ[1]
[1] Cuồn cuộn xe mây kiếp ruổi rong,
Dễ mà theo hỏi chốn hành tông[2].
Khêu sầu chín khúc chùng dây sắt[3],
Diễn thảm năm canh chạnh giọt đồng[4].
Chi kiếp trần hoàn trả chửa xong.
*
[2] Gió thu hiu hắt khóm phương tùng[11],
Thổi rụng hàng châu, nghẹn má hồng.
Cỏ biếc chẳng treo hồn Sở trướng[12],
Trúc vàng[13]
thà điểm giọt Ngu cung.
Hoa kề cổ trủng[14]
đeo tình nặng,
Trăng rạng cô lư sáng tiết trong.
Dệt gấm Thanh nê[15]
câu nhất tiếu,
Thêu nền Thúy Ái[16]
chữ tam tùng.
Phạm Thái.
*
Bản Hán Nôm, Ngân Triều soạn:
Bản Hán Nôm, Ngân Triều soạn:
題義庐娘龍幾
滚淃車𨗠刧𨆷𨀐,
易麻蹺噲坉行踪.
挑愁𠃩曲𦇮𦀊瑟,
演惨𠄼更𢤜湥銅.
唸倒𢠩恾咴戍皷,
笙簫𦖑𠻴㗂禅鐘.
玄蒼啻丕讐紅粉,
之刧塵寰把渚衝.
*
𩙋秋咻迄㯲芳松,
𠺙梇行珠, 喭媽紅.
苦碧丕招魂楚帳,
竹黄時點湥虞宮.
花倛古塚, 㧅情𥘀,
𦝄𠓁孤廬, 節𤄯.
𦂾錦清坭句一笑,
絩𡋂翆愛𡨸三從.
*
[1]
[1]
Xe
mây cuồn cuộn, đưa hồn chàng đi mất,
Dễ gì biết được chàng đi về đâu.
Muốn tỏ lòng sầu đứt ruột, dây đàn đã
chùng,
Thể hiện nỗi đau đớn xót xa thâu đêm, giọt
đồng cùng nhỏ lệ.
Khấn vái vong linh chàng tưởng chừng như
nghe vang vọng hồi trống nơi biên ải,
Tiếng sênh và tiêu vang lên nghe như tiếng
chuông chùa lắng đọng.
Phải chăng Trời đã thù ghét người má phấn,
Đã vậy làm chi, cho kiếp trần hoàn nầychưa
trả xong được.
*
[2]
[2]
Gió thu se sẻ thổi vào khóm phương tùng,
Làm rơi những giọt châu đọng trên lá,
làm cho lòng nghẹn ngào không nói được.
Thân phận hèn mọn như cỏ biếc, ta không
thể chết theo vua Sở như nàng Ngu Cơ,
Thà như hai bà Nga Hoàng và Nữ Anh, khóc
vua Thuấn mà lệ còn đọng mãi trên rặng trúc vàng.
Làm hoa bên mộ chồng, tình hoa sâu nặng
lắm thay,
Trăng soi vào lều cỏ, sáng ngời phẩm chất
thủy chung của vợ hiền.
Dệt bức gấm ở Thanh Nê, quê chồng nàng
là một thiếu phụ đẹp,
Thêu nền ở Thúy Ái, chết theo chồng chết
trận, nàng Phan Thị Thuấn ngời sáng chữ tam tùng.
*
Ngân
Triều cảm đề
[1]
Dong ruổi xe mây vùn vụt khuất,
Về đâu há biết cõi về đâu?
Đoạn trường gióng nhạc tơ chùng phím,
Đồng nhỏ thâu đêm suối lệ sầu.
Cúng vái thì thùng mơ trống thú,
Sanh tiêu trầm lắng mộng chuông mầu.
Ông Xanh sao ghét thân bồ liễu?
Dang dở nợ trần trả được đâu!
*
[2]
Gió thu phơn phớt ngọn phương tùng,
Lệ nhỏ hàng cây, lệ má hồng.
Bèo bọt chẳng theo dòng thác đổ,
Lệ hoa thà thổn thức hương cung.
Hoa tươi mộ mới tình sâu nặng,
Trăng chiếu chòi sơ tiết ánh trong.
Dệt gấm Thanh Nê trang quốc sắc,
Cùng gương Thúy Ái vẹn tam tùng.
22.09.2019
[1] Lư là lều, chòi; nghĩa là có nghĩa; nghĩa lư là lều của nàng Long Cơ, lều dựng cạnh mộ chồng
để cư tang.
[2]Hành tông, hành tung: Lý do của hành động,
việc làm.
[3]
Dây sắt: đàn sắt thường sánh với đàn cầm chỉ tình nghĩa phu thê.
[4]Giọt đồng: giọt đồng hồ nước, chỉ thời
gian trôi qua.
[5]
Niệm đảo: đọc lời khấn trong lễ cầu siêu cho chồng.
[6]
Hồi thú cổ: thú là biên ải, cổ là trống;
ẩn dụ nàng Long
Cơ theo chồng là Trương Đăng Thụ lúc ông làm trấn thủ ở Lạng Sơn.
[7]Sinh tiêu: sênh và tiêu: hai loại nhạc
khí.
[8]Thiền
chung: chuông chùa.
[9]Huyền thương: huyền là huyền nhiệm; thương
là xanh; ý nói Trời xanh huyền nhiệm,
[10]
Hồng phấn: phấn hồng chỉ người đàn
bà.
[11]
Phương tùng: Một giống tùng thơm.
[12]
Sở trướng: Trong trướng của Sở Bá
Vương, Hạng Vũ. Khi ông bị vây ở Cai Hạ, vợ là Ngu Cơ tự vận để ông khỏi vướng
bận.
[13]
Trúc vàng: Giống trúc có vân ngoằn
ngoèo; người đời cho rằng đó là nước mắt của hai bà Nga Hoàng và Nữ Anh, khóc
chồng là vua Thuấn, lệ rơi xuống mà thành ra như vậy.
[14]
Cổ trủng: Gò mả xưa.
[15]
Thanh Nê là quê hương của Thanh Xuyên
Hầu, chồng bà Long Cơ là người thủ tiết trong Nghĩa lư, thuộc trấn Sơn Nam tức
tỉnh Nam Định bây giờ. Câu nhất tiếu:
nói tắt của câu nhất tiếu thiên kim,
nụ cười đáng ngàn vàng, nghĩa hàm ẩn là ca tụng người phụ nữ đẹp.
[16]
Thúy Ái: Thúy Ái là tên con sông thuộc
huyện Thanh Trì tỉnh Hà Đông, nơi bà Phan Thị Thuấn vợ thứ ba, mới 20
tuồi, tuẩn tiết theo chồng là Thu Lĩnh hầu Ngô Cảnh Hoàn đời Hậu Lê. (nay là
phường Thúy Ái, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội), Thu Lĩnh hầu Ngô Cảnh Hoàn, thống
lĩnh thủy binh chống Tây Sơn và chết trận. (Theo Nguyễn Khắc Thuần, Việt sử
giai thoại, Truyện Bà Phan Thị Thuấn).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét