* Lệ nhòa tóc rũ thẫn thờ bên song.(Hải Vân.vhp)
Còn vương nỗi
nhớ
Thơ Hải Vân.vhp
Lời bình Ngân Triều(Hậu Nghĩa)
Tự nhiên, tôi bỗng
liên tưởng đến đoạn thơ Kiều nhớ nhà lần thứ ba của chặng đường đớn đau, 15 năm
lưu lạc. Trong nỗi nhớ đó, có hai câu thơ tả tâm trạng Thúy Kiều nhớ Kim Trọng
thật hay:
Tiếc
thay chút nghĩa cũ càng,
Dẫu
lìa ngó ý còn vương tơ lòng
(Kiều 2241-2242).
Còn vương tơ lòng là chưa mất đi, chưa thể nào dứt được những sợi nhớ, sợi
thương đầy uẩn khúc, ẩn chứa trong tận đáy lòng… đối với người tình cũ.
Thế Lữ cũng đã đồng tình với tứ thơ
đó:
Cái
thuở ban đầu lưu luyến ấy,
Ngàn
năm chưa dễ đã ai quên.
(Thế Lữ-Lời than thở của nàng Mỹ Thuật-khổ
4/11).
Tình yêu đôi lứa đầu đời cho
dẫu bất tương phùng nhưng người trong cuộc cứ thường mãi nghĩ
đến nhau luôn, tình cảm đó, khó mà phôi pha với thời gian. Tình cảm đó được
chuyển tải bằng hình ảnh của một cọng ngó sen, tuy đã ngắt đôi ra, đứt lìa đi,
nhưng những sợi tơ bên trong của nó, vẫn còn quyến luyến, vương vấn như không
nỡ đứt đoạn, không muốn lìa nhau. Biểu tượng đó thể hiện một sắc thái biểu cảm
tuyệt vời trong tình yêu đầu đời trắc trở nhưng người trong cuộc tình, vẫn
thương hoài ngàn năm.
Phải chăng, bài thơ Còn
vương nỗi nhớ của chị Hải Vân, đã véo von cất cao một giai điệu nhớ
thương khắc khoải đó?
Còn Vương Nỗi Nhớ
Nhớ xưa hai đứa “Trốn-Tìm” (câu
1)
Dư âm ngày cũ, trong tim còn đầy.
“Oánh-Tù-Tì”, em thua dài,
Nên em cứ mãi tìm hoài “người ta”.
Trốn em, anh lại trốn xa, (câu
5)
Để em đêm tối sợ ma, thua hoài,
Để em nước mắt ngắn dài,
Anh lau giọt lệ, một đời khó quên!
Lớn lên chinh chiến triền
miên, (câu 9)
Anh đi biền biệt, bỏ quên quê nhà,
Mặn nồng cơm hến* miền xa,
Nhạt tình xóm nhỏ, mắm và với rau,**
Ngó sen bông súng năm nào
Còn vương nỗi nhớ, dạt dào tình thơ.
Tre vàng kẽo kẹt trăng
mơ, (Câu 15)
Lệ nhòa tóc rũ thẫn thờ bên song.
Ngày ngày gói nhớ chôn mong,
Đêm đêm hồn mộng vượt sông trèo đèo.
Tình đi dưới ánh trăng treo,
Tình về với dĩa dầu hao bấc tàn. (câu
20)
Bao năm ôm giấc mộng
vàng (câu 21)
Tỉnh ra lại thấy mộng hoàn mộng thôi.
Nỗi lòng khôn tỏ, người ơi!!!
Hải Vân
(CA. March 10-2012)
* Nội dung có thể phân thành 3 đoạn:
(1) Đoạn đầu (8 câu): tự sự, hồi
tưởng
Nhớ xưa hai đứa “Trốn-Tìm”
Dư âm ngày cũ, trong tim còn đầy.
“Oánh-Tù-Tì”, em thua dài,
Nên em cứ mãi tìm hoài “người ta”.
Trốn em, anh lại trốn xa,
Để em đêm tối sợ ma, thua hoài,
Để em nước mắt ngắn dài,
Anh lau giọt lệ, một đời khó quên!
Trong những phút giây nhớ lại về
những kỷ niệm thời thơ ấu (Nhớ xưa), nhân vật trữ tình bỗng sống lại một
trò chơi quen thuộc, phổ biến, trò chơi “trốn-tìm”. Để nhập cuộc, người
chơi thường “oánh-tù-tì” cho người thua cuộc phải “đi tìm”
người thắng cuộc (được đi trốn). Trò chơi nầy rất hồi
họp, thú vị... Hai đứa trẻ thơ, có lẽ nhà ở gần nhau (?), nên thường
chơi chung trò chơi đó và khắc sâu nhiều kỷ niệm ân tình. Lâu dần thành thân
quen và không biết tự lúc nào... khi lớn lên, cơ duyên gắn bó đầu đời ấy như đã
thắt chặt hai đứa trẻ bằng một sợi dây tơ vô hình của tình trong như đã,
phải mắc nợ nhau, phải đem lòng thương nhớ.
Người dưng khác họ, sao phải nhớ nhau? Sao phải gắn bó nhau? Sao lại
thương hoài ngàn năm? Cho dẫu bến tình là hợp tan, dâu bể, đường trần là đau
khổ, đa đoan…
Chính cái cơ duyên khi xưa
ta bé ta chơi... mà “em cứ thua dài”, phải đi “tìm hoài
người ta”, mà người ta cứ “trốn xa”... “đêm tối sợ ma”... thua cuộc
hoài... phải thắng người ta chứ, phải giả bộ phụng phịu, làm nũng chứ (?), phải
khóc lên chứ (nước mắt ngắn dài)... để anh phải năn nỉ, dỗ dành, để “anh
lau giọt lệ”… không đòi nghỉ chơi nữa, làm lành ngay thôi…
Có chuyện tình
nào đã hình thành và chớm nở một cách dễ thương như thế không? Nỗi nhớ
nhung đó, đối với người con gái, mãi đến bây giờ, vẫn không phai, vẫn còn
đầy trong tim… và chắc chắn, như vàng, như đá không bao giờ nhạt phai.
(2) Đoạn giữa (12 câu): vẫn tỏ lòng,
nâng cao lên, trải rộng ra nỗi nhớ mong, những băn khoăn và chứa chan lòng
chung thủy sắt son, đậm đà, tha thiết qua những hình ảnh gợi cảm, ân tình...
khi hoàn cảnh cách xa, đậm nhạt những “nhãn tự điểm xuyết”:
Lớn lên chinh chiến triền miên,
Anh đi biền biệt, bỏ quên quê nhà,
Mặn nồng cơm hến* miền xa,
Nhạt tình xóm nhỏ, mắm và với rau,**
Ngó sen bông súng năm nào
Còn vương nỗi nhớ, dạt dào tình thơ.
Tre vàng kẽo kẹt trăng mơ,
Lệ nhòa tóc rũ thẫn thờ bên song.
Ngày ngày gói nhớ chôn mong,
Đêm đêm hồn mộng vượt sông trèo đèo.
Tình đi dưới ánh trăng treo,
Tình về với dĩa dầu hao bấc tàn.
Chú thích:
* Cơm hến: là một đặc
sản ẩm thực Huế. Cơm hến được trình bày dưới hình thức cơm nguội trộn với hến
luộc, nước hến, mắm ruốc, rau bắp cải, tóp mỡ, bánh tráng nướng, mì xào giòn,
ớt màu, đậu phộng rang nguyên hạt, dầu ăn chính, tiêu, vị tính (bột ngọt, mì
chính). Các món ăn cải biên như bún hến, mì hến… không phải là đặc
sản Huế. / Cơm hến ở đây, còn có thêm một nghĩa khác, cơm của “thị
hến” trong Ngao, Sò, Ốc, Hến, (một vở tuồng đồ dân gian). Thị Hến,
một người con gái đẹp, lẳng lơ, khôn ngoan, sắc sảo, điêu ngoa… / Phải chăng
anh ấy đã say mê người con gái khác.
** Mắm và với rau: và động
từ, dùng đũa đưa cơm hoặc thức ăn từ chén (bát) vào miệng. “Chèo
quanh, chèo quất, chèo vô chỗ hẽm” Đố là gì? (Xuất nhân, động
tác). Đáp: và cơm.
Khói lửa chiến tranh đau thương,
trên quê hương cuốn theo chiều gió. Thời buổi chiến chinh,
thân trai dãi dầu nơi gió cát sa trường. Lâu lắm, không về thăm xóm
nhỏ! Phải chăng
anh đã “bỏ quên quê nhà”, khi mà, Chiến trường đi chẳng
tiếc đời xanh (Tây Tiến – Quang Dũng). Hay
là anh đã mặn nồng với cơm hến, nhạt tình với cơm nghèo xóm nhỏ. (Đam
mê nhiều cô gái đẹp tròn xứ lạ).
Đó chính là những nỗi niềm băn
khoăn... canh cánh bên lòng, để ngẩn ngơ trăm mối, để nuối tiếc sợi dây
dài… Và nếu quả như vậy thì e là tệ bạc với nhau quá... và như ai đó (nhungnguoibank2?) đã
lên tiếng, “đọc mà ngậm ngùi”... cho nhân tình thế thái!
Ngó sen bông súng năm nào
Còn vương nỗi nhớ dạt dào tình thơ.
Hai câu thơ gợi nhớ về hương
vị của món rau tối thiểu, cần thiết, không đắc tiền, đạm bạc, quê nghèo. Ngó
sen luộc,thân bông súng tước vỏ, hoặc chẻ ra từng đoạn nhỏ, làm rau chấm mắm
kho thịt ba chỉ, hoặc chấm nước mắm cá chiên lễnh loãng, nhiều nước ít cái. Đó
là một trong những món ăn dân dã tuyệt vời của vùng sông nước ĐBSCL, Đồng Tháp
Mười, Đức Hòa (Long An)... Món ăn ân tình như thắm đượm hồn quê
hương vời vợi! Cũng một giai điệu như món canh rau muống, món cà dầm tương…
Anh đi, anh nhớ quê nhà,
Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm
tương.
Nhớ ai dãi nắng dầm sương.
Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao!
(Ca dao)
Tiếp theo là những hình ảnh,
âm thanh khéo chọn:
Tre vàng kẽo kẹt trăng mơ
Lệ nhòa tóc rũ, thẫn thờ bên song
Hai câu thơ hàm súc nhiều điều. Đó
là một khung cảnh rộng, trông xa, nhìn gần của tầm nhìn bên cửa sổ. Hình ảnh có
màu sắc nhạt nhòa của vầng trăng khuất mây, ánh trăng huyền ảo, hữu
tình (trăng mơ). Hình ảnh ngoạn mục đến thi vị của những rặng tre
tỏa sáng, dát đầy ánh trăng (tre vàng). Thỉnh thoảng có gió
nhẹ hắt hiu. Những cây tre ngả nghiêng, đong đưa theo từng cơn gió nhẹ,
phát ra những âm thanh kẽo kẹt vô hồn, buồn tênh. Những chi
tiết đó như đã tạo nền cho một bức tranh tâm trạng buồn nhớ miên man của nhân
vật trữ tình. “Lệ nhòa” là đẫm lệ, mắt mờ, đang
khóc. Tóc rũ, tóc xỏa, biếng trang điểm vì nỗi buồn
thương.
Không có ai, mà trang điểm cho ai?
Để rồi tâm hồn đắm đuối trong thẫn thờ, xót xa. “Thẫn thờ” là đờ
đẫn, như mất hết vẻ linh hoạt của tâm hồn khi tâm sự nhớ thương ru lòng buồn
dạt dào theo tầm nhìn mông mênh bên cửa sổ (bên song), tô
điểm những nét chấm phá linh hoạt bằng những từ ngữ khéo cân nhắc
của một ngòi bút khả ái, tài hoa.
Tiếp theo là 2 câu nhớ mong vời vợi:
Ngày
ngày gói nhớ chôn mong,
Đêm
đêm hồn mộng vượt sông trèo đèo.
Nhóm từ “gói nhớ, chôn mong”
được thể hiện một cách gợi hình và sáng tạo. (Hai tổ hợp từ “gói chôn”
và “nhớ mong” được cắt đôi, đan chéo vào nhau, đặc tả thậm
xưng về sự nén lòng, cam chịu, nhớ mong). Ban ngày thì “nàng” kín đáo, vô tư, một
mình mình biết, một mình mình hay. Chỉ có đêm về, trong tĩnh lặng, riêng
tư… nhân vật trữ tình mới bộc lộ chân thực lòng mình, tâm trạng mong nhớ réo
rắt, thiết tha. Ta hãy nhớ nhau trong thời gian bất tận, trong không gian tiêu
sơ, trong buổi chiều phơn phớt lạnh, dõi theo vầng mây xa xăm:
Rồi có khi nào ngắm bóng mây,
Chiều thu đưa lạnh gió heo may
Dừng chân trên bến sông xa vắng
Chạnh tưởng tình tôi trong phút giây
(Thế Lữ - Giây
phút chạnh lòng).
Nhớ thương và hình dung những nỗi
vất vả, gian nan, nguy hiểm, (vượt sông trèo đèo), tỏ rõ một tâm
tình vẫn để hồn theo người lận đận, rất tự nhiên, rất phụ nữ.
Tứ thơ như réo rắt hơn với điệp từ (ngày ngày,
đêm đêm), với lồng lộng những hình ảnh chiêm bao của mộng (hồn mộng)
và hiện thực là hình ảnh gian nan, khổ sở (vượt
sông, trèo đèo. Từ ngữ đối lập của cả thời gian 24/24 giờ, lặp đi lặp lại
những công việc khổ sai (ngày/đêm) làm cho lời thơ không những
bóng bẩy, kín đáo trong khắc họa về tình trạng của chàng mà nó còn thắm đượm
lòng thương cảm mênh mông của người trong cuộc..
Tình
đi dưới ánh trăng treo,
Tình
về với dĩa dầu hao bấc tàn.
Vẫn là những tứ thơ trau chuốt, óng
ả như tơ vàng, vừa cổ điển vừa mới mẻ. Trăng treo là giữ chặt
một nỗi lòng trên cao (trăng = nỗi lòng)/ còn có thể hiểu đôi mắt mòn mỏi nhớ
mong (trăng treo = đôi mắt mòn dần theo biến thể của hình dáng
trăng hạ tuần: Trăng rằm mười sáu trăng treo, Đồng dao),// hằng dõi
theo người đi xa, (trăng = ánh trăng soi rọi khắp nơi, con mắt)// thi vị, trữ
tình, lãng mạn, thi vị hóa những thử thách, gian lao, trăng treo trên đầu súng:
Đầu súng trăng treo... làm cho người đọc liên tưởng đến cảnh đưa tiễn của
Kiều-Thúc Sinh/ (trăng = người thương, ½ của đôi tình nhân, tình cảm tha thiết
của đôi lứa phải cách xa nhau:
“Người
lên ngựa kẻ chia bào
Rừng
phong thu đã nhuốm màu quan san
Dặm
hồng bụi cuốn chinh an
Trông
người đã khuất mấy ngàn dâu xanh
Người
về chiếc bóng năm canh
Kẻ
đi muôn dặm một mình xa xôi
Vầng
trăng ai sẻ làm đôi
Nửa
in gối chiếc, nửa soi dặm trường”
(Kiều
câu 1519-1526).
Xin hãy quay lại với hai câu thơ dệt
gấm. Hai câu thơ đối ý giữa mộng và thực nao lòng! Cái mộng phải
chăng là hy vọng, hoài mong mòn mỏi, về một ngày tái hợp xa vời? Còn cái
thực là chợt tỉnh mộng, trở về với chính mình, với hiện thực cay đắng
để thấy sự phôi pha, héo hắt của tuổi xuân tàn úa, theo thời gian mòn mỏi, đợi
chờ? Cho hay, sầu tư như hóa đá, đối diện với hiện thực bất
định, người đi như cánh hồng bay bỗng, như lý ngư mất tăm… thì tâm hồn càng ngơ
ngẩn, càng tê tái ngập lòng…
(3) Đoạn kết (3 câu cuối): tâm
trạng của tác giả.
Bao năm ôm giấc mộng vàng(*)
Tỉnh ra lại thấy mộng hoàn mộng
thôi.
Nỗi lòng khôn tỏ, người ơi!!!
Tâm trạng đó, thật ra là một lời tâm
sự... về một cuộc tình tha thiết nhưng vô vọng, hư ảo. Tình yêu đó rất đẹp
nhưng chỉ là một giấc mộng vàng, hư không. (Mộng hoàn mộng thôi). Thật
là não nề! Đó là một sự bất khả kháng trong tình yêu rất tha thiết, đầy uẩn
khúc của một người con gái... trong thời chiến chinh của đường trần 12 bến nước,
chợ tình.
(*) “Giấc mộng
vàng” hay “giấc hoàng lương” điển
tích Lư Sinh đời Đường hõng thi, trên đường về thất chí, mệt mỏi và đói lã... Ý
nói cuộc đời là mộng ảo, phù du, ngắn ngủi... vô nghĩa.
Giấc mộng vàng là giấc mộng “hoàng lương” hay giấc mộng kê vàng. Tích
Lư Sinh đời Đường (618-907), văn hay, chữ tốt, nhiều lần ứng thí nhưng cứ hõng
thi. Lần đó, Sinh có nhiều hy vọng nhưng lại tiếp tục số đen! Đường về quê thê
lương, ngại ngùng thất thểu, não nề chân bước, nặng gánh ưu tư… vừa chán nãn,
mệt mỏi, vừa thất chí trách phận… đói lạnh… trong mưa. Duyên may, tới nơi ở của
một lão đạo sĩ, liền xin tá túc qua đêm.
“Ta đoán ngươi mệt mỏi đường xa, có
lẽ cần lót dạ. Ta đang nấu cháo kê, hãy nằm nghỉ đi! Có sẵn chiếc gối bằng đá
của ta đó. Một lát nữa, cháo kê chín, ta và nhà ngươi sẽ cùng ăn và đàm
đạo”. Vừa nói, vị đạo sĩ vừa khuấy đều nồi
cháo kê.
Vất vả, kiệt lực, khi mới ngả lưng,
đầu kê gối đá, Lư Sinh đã chìm sâu vào giấc điệp. Sinh thấy mình thi đỗ Tiến
sĩ, có vợ đẹp, con ngoan. Năm đứa con thảy đều thành nhân chi mỹ, vinh thân phì
gia… cuối đời, làm quan đến chức Tể Tướng được 10 năm… Lúc 80 tuổi, Sinh bị oan
tình phải chịu án chém… Khi người đao phủ đưa đao lên… liền giật mình thức dậy.
Vị đạo sĩ vẫn còn đang ngồi đấy, tay còn đang khuấy đều nồi kê… nồi kê chưa
chín!Sinh thẫn thờ, chợt cảm ngộ ý nghĩa đời người. Những hoài bảo vinh hoa phú
quý ở thế gian thảy đều hư ảo, phù du, vô nghĩa. Sống đến 80 quả vô
cùng hiếm thấy… nhưng quả là vô cùng ngắn ngủi, trong khoảng trăm năm trong cõi
đời người, thật như gang tấc, như khoảnh khắc của một công đoạn nhỏ, đang nấu
nồi kê… mà nồi kê chưa chín… Vậy sao cứ mê muội chen chúc vào cuộc
đời ô trọc, phù du để tự làm khổ lấy mình? Sao cứ mãi đua chen vào cái vòng
danh lợi cong cong, thiên tứ vạn chung?Sao quên đi những điều cao khiết, lòng vui? Sao không thuận
theo sự biến hóa âm dương mà về với đời thường giản dị? Những bề bộn
lo toan, sao không bỏ phứt đi?... Nghĩ vậy, Sinh chợt thấy tâm hồn mình nhẹ
nhàng, thanh thản, niềm vui phơi phới, không chút bận lòng…
Câu cuối bài thơ, nhà thơ còn cố ý
kết thúc bằng một câu lục vời vợi, điểm một sắc
thái riêng (không có câu bát như kiểu thông thường). Ý muốn nói, với chuyện
tình hoài mong buồn như lệ đá, lâm ly đó, những cảm xúc thẫm mỹ của
một tấm lòng đó... vẫn mãi là một dư âm ai hoài, một âm hưởng vang vọng, ngân
nga không bao giờ dứt, vẫn mãi còn vương nỗi nhớ vô
cùng… của những giây phút chạnh lòng.
* Tóm lại:
“Còn vương nỗi nhớ” là tiếng lòng ngân nga về một câu chuyện tình ngát hương
thời gian hoa mộng. Chuyện tình đó mới chớm nở, phải ly biệt trong
cảnh mây mờ và khói lửa chiến chinh giăng đầy đất nước…
“Còn vương nỗi nhớ” là một chuyện tình dang dở, một cung đàn nỉ non ngang
cung, một tiếng lòng u uất, phảng phất những kỷ niệm thời thơ ấu, những hồi
tưởng của ngày xanh… đầy cảm kích, tuyệt vời!
Tiếng lòng đó là một tiếng nói chung
của một thế hệ lứa đôi, trong một thời đại… một thời đại đã qua, còn chăng là
dư ba tắt dần, của một thời vang bóng.
Hậu Nghĩa, ngày 12 tháng 7 năm 2013
Một chiều mưa buồn
Ngân Triều
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét