Tường Việt: Trở Về Miền Quá Khứ
LTS. DĐTK hân hạnh giới thiệu bài viết đầu tay của tác giả Tường Việt,
> > tức Nguyễn Tường Việt, con trai trưởng của nhà văn Nhất Linh. Ông viết
> > bài này để đóng góp vào cuốn sách “Tự Lực Văn Đoàn và các cây bút hậu
> > duệ”, được ra mắt tại Nam California vào 15 tháng 9, 2019.
Chuyến bay của hãng hàng không Nhật Bản đáp xuống phi trường Tân Sơn
> > Nhất vào lúc nửa đêm. Mục đích chuyến trở về lần này của chúng tôi
> > (năm 2018) là muốn cháu Maya biết về quê nội của nó. Sau chuyến bay
> > dài mệt mỏi tôi ngủ một giấc ngon lành. Sáng hôm sau, trong lúc gia
> > đình Tường Anh, cậu con trai của tôi lấy taxi đi tham quan Sài Gòn,
> > tôi một mình tản bộ xuống phố tìm quán cà-phê. Mới sáng sớm mà xe cộ
> > đã chạy ngược xuôi, mọi người đi lại hối hả. Cả thành phố bừng bừng
> > như chạy đua với thời gian. Đàn bà thì khẩu trang che kín mặt mũi chỉ
> > chừa đôi mắt. Thật khó mà tìm được một cô gái đẹp! Thoáng một giây tôi
> > ngỡ ngàng và ngậm ngùi: còn đâu nữa một Sài Gòn ngày xưa, còn đâu nữa
> > “nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát, bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông”?
> >
> > Ngày hôm sau chúng tôi bay ra Đà Nẵng, thuê xe đi Hội An thăm Dinh
> > phái 1 và Từ Đường phái 2 của dòng họ Nguyễn Tường, sau đó viếng nghĩa
> > trang riêng của gia tộc. Đứng trước hàng bia mộ, nơi yên nghỉ của
> > những người thân yêu, cảm giác này thật khó diễn tả! Cảm giác ấy vừa
> > mơ hồ lại vừa cụ thể như phảng phất đâu đây cái kì bí giữa hai cõi âm
> > dương.
> >
> > Sau hai ngày ở Đà Nẵng và Hội An chúng tôi ra Huế. Không khí ở đây có
> > phần mát mẻ và tĩnh lặng hơn. Tôi tiếc là chưa có dịp đi đò trên sông
> > Hương để nghe nhạc cung đình Huế. Đọc tác phẩm “Mưa trên cây sầu đông”
> > của Nhã Ca, tôi định bụng ra Huế lần này sẽ coi thử “cây sầu đông”
> > (còn gọi là “cây xoan”) xem nó ra thế nào, và tại sao người ta hay ví
> > con gái đẹp với khuôn mặt trái soan? Vậy mà Huế đã vào đông rồi mà cây
> > sầu đông tôi vẫn chưa có dịp nhìn thấy.
> >
> > Vì gia đình cháu Tường Anh chỉ có gần hai tuần lễ ở Việt Nam mà chương
> > trình kéo dài từ Nam ra Bắc nên chúng tôi đến nơi nào cũng chỉ “cưỡi
> > ngựa xem hoa” rồi lại vội vã lên đường đi nơi khác.
> >
> > Đến phi trường Nội Bài chúng tôi lấy taxi về khách sạn. Hà Nội bây giờ
> > cũng đông đúc y như Sài Gòn. Hai bên đường chung cư nhà cửa hàng quán
> > san sát. Giọng bắc của người Hà Nội bây giờ, nghe lạ tai lắm! Âm điệu
> > gần giống nhau, thiếu sự ngọt ngào, êm ái của người Hà Nội ngày xưa.
> > Đến khách sạn tôi gọi điện thoại nói chuyện với anh Nguyễn Tô, một
> > người bạn ngày xưa học cùng lớp trường Chu Văn An, anh Phạm Hoàng Đạo,
> > một người em họ, báo là tôi đã đến Hà Nội và hẹn gặp vì tôi có mang
> > một số quà từ Mỹ để biếu họ. Buổi trưa tôi mời tất cả đến ăn tại một
> > nhà hàng gần khu phố cổ. Cuộc họp mặt rất thoải mái vui vẻ. Tôi bàn
> > với Đạo chương trình của mình và nhờ Đạo thuê xe để ngày hôm sau đi
> > nghĩa trang Yên Kỳ (Sơn Tây, ngoại ô Hà Nội) thăm mộ những người thân
> > chôn cất tại đó: trước hết là mộ bà ngoại tôi, mộ chú thím Thạch Lam
> > rồi đến mộ đứa em út của tôi Nguyễn Tường Thái cùng một số những người
> > trong họ đã yên nghỉ tại đây. Nghĩa trang Yên Kỳ bây giờ khác xưa
> > nhiều lắm, có lối đi thoáng mát, có đường cho xe chạy, cây cối hoa cỏ
> > đủ màu sắc nên trông cũng bớt lạnh lẽo ảm đạm.
> >
> > Chuyến về Hà Nội lần này tôi còn có mục đích đến thăm thôn Lê Dương,
> > thăm lại căn nhà lánh nạn, thăm mộ anh Tý, người đã bất chấp nguy hiểm
> > không sợ liên lụy để mẹ tôi và tôi ẩn nấp trong căn nhà của anh. Ơn
> > cứu mạng đó làm sao mà quên được? Vào thời đó cuối năm 1946 bố tôi
> > Nguyễn Tường Tam, Bộ trưởng ngoại giao trong chính phủ Liên hiệp Kháng
> > chiến, đã bỏ sang Tàu. Trong nước Việt Minh lùng bắt thân nhân bố tôi.
> > Mẹ tôi, bác Nguyễn Tường Cẩm, cậu Phạm Hoàng Tín và tôi (lúc đó 15
> > tuổi) bị quân du kích Việt Minh bắt tại quê mẹ tôi Phượng Vũ. Chúng
> > giải bốn người đến giam trong một cái đồn ở phủ Thường Tín nói là để
> > điều tra. Đúng lúc đó thì máy bay Pháp xuất hiện thả bom. Lợi dụng cơ
> > hội lộn xộn này bốn chúng tôi chạy thoát ra khỏi đồn. Khi máy bay
> > ngưng thả bom, mẹ tôi nói với bác Cẩm và cậu Tín thừa cơ hội này trốn
> > đi. Nhưng cậu Tín trả lời: “Chị và cháu trốn đi còn tôi và anh Cẩm
> > phải trở lại đồn vì họ đã còng tay hai người với nhau có trốn cũng sẽ
> > bị bắt lại. Mẹ con tôi chạy thoát và sau đó tá túc tại nhà anh Tý, một
> > người làm công trung thành của mẹ tôi. Còn cậu Tín (bố cuả anh Đạo),
> > bác Cẩm (bố của Nguyễn Tường Tâm) sau đó bị Việt Minh thủ tiêu.
> >
> > Hai ngày sau khi thăm nghĩa trang Đạo hướng dẫn chúng tôi lên đường đi
> > thôn Lê Dương. Đến nơi chúng tôi phải thăm hỏi nhiều người mới tìm ra
> > được đúng địa điểm và may quá căn nhà của anh Tý vẫn còn nguyên chưa
> > bị phá hủy. Đứng trước căn nhà ấy tôi đã kể cảnh Việt Minh bố ráp và
> > nỗi sợ hãi khi chạy trốn, sợ bị bắt lại, nó kinh hoàng như thế nào. Nó
> > ám ảnh tôi cho đến tận bây giờ hơn 70 năm qua mà tôi vẫn nhớ từng chi
> > tiết như thể chuyện mới xẩy ra ngày hôm qua. Anh Tý yên nghỉ trong
> > nghĩa trang của thôn Lê Dương. Trước ngôi mộ tôi bùi ngùi thắp cho anh
> > một nén nhang. Nhớ lại những ngày ấy đã bao lần tôi tự hỏi nhưng không
> > có câu trả lời là tại sao mẹ tôi lại bình tĩnh và can đảm đến thế;
> > trong lúc chạy trốn mẹ tôi như đã nắm trước địa đồ, dắt tôi chạy qua
> > đê, băng qua đồng ruộng, bất chấp cái chết đang lơ lửng trên đầu. Tôi
> > cũng tự hỏi người ta đã nhân danh cái gì để gán cho chúng tôi hai chữ
> > “Việt gian” khiến biết bao người phải hy sinh, chết oan, bị tra tấn,
> > bị thủ tiêu, như trường hợp của bác Cẩm và cậu Tín, hai người chỉ có
> > mỗi cái “tội” duy nhất là anh ruột, là em vợ của bố tôi.
> >
> > Xe lăn bánh. Chúng tôi từ giã thôn Lê Dương. Tôi bâng khuâng nhìn cảnh
> > cũ mà người xưa không còn.
> >
> > Ngày sau đó gia đình Tường Anh kéo nhau đi Sapa và vịnh Hạ Long. Tôi
> > chọn ở lại Hà Nội. Sức đâu mà theo kịp tụi nó! Tôi nghĩ bụng mình mời
> > anh Tô hay gia đình anh Đạo đi ăn uống và tâm sự với nhau còn vui hơn
> > nhiều.
> >
> > Cái ngày tôi sang Pháp du học đã trôi vào dĩ vãng xa xăm. Hà Nội bây
> > giờ không còn dáng vẻ êm đềm thanh thản như khi tôi lìa xa nó năm
> > 1950. Và tôi cũng không còn là chàng trai trẻ đầy nhiệt huyết, ra đi
> > với chiếc va-li nhẹ tênh mà lòng thì trĩu nặng nhớ thương, nhớ quê
> > hương, nhớ gia đình. Tiếc rằng lúc đó chàng trai 19 tuổi chưa có một
> > “bóng hồng” nào để mang theo. Nhưng khi tàu nhổ neo rời vịnh Hạ Long
> > thì tôi lại thấy lòng nhẹ nhõm, cảm được cái mùi tự do rạng rỡ giữa
> > trời biển mênh mông. Tầu lênh đênh gần một tháng mới nhập cảng
> > Marseille. Trên tàu tôi cũng có quen với một cô gái tên Lan, nhưng có
> > lẽ vì chưa đủ duyên nên khi xuống tàu là đường ai nấy đi!
> >
> > Thoáng một cái mà đã gần hết một đời người! Bao năm qua mải mê với
> > cuộc sống, ít thì giờ suy nghĩ viển vông, nay đã về già mọi thứ ổn
> > định, mới thảnh thơi mà thả hồn về chốn cũ. Rời Hà Nội từ thời niên
> > thiếu tôi tưởng đã quên hết nhưng đi giữa lòng Hà Nội bước chân vẫn
> > dẫn tôi về những nơi xưa cũ: đây là cây đa ngày xưa ở Hồ Gươm, kia là
> > căn nhà cũ ở phố Hàng Bè, đó là khu thương xá Tràng Tiền với những
> > khung cửa kính lớn, rồi những ngõ nhỏ ấm cúng nối kết Hà Nội 36 phố
> > phường, rồi Hồ Tây, hồ Trúc Bạch và con đường Cổ Ngư, nơi ghi dấu bao
> > mối tình lãng mạn! Tình yêu luôn là thứ lãng đãng trong tâm tưởng
> > chàng trai mới lớn. Phải như hồi đó, tìm được một giai nhân, để có mối
> > tình mang theo sang Pháp, có lẽ trời sẽ bớt lạnh và tâm hồn ấm áp hơn
> > khi nhâm nhi những bức thư thăm hỏi: “Paris có gì lạ không anh?”. Tiếc
> > quá! Thời trai trẻ đã qua... Nhưng không sao, tâm hồn chưa già là được
> > rồi!
> >
> > Chúng tôi bay về lại Sài Gòn. Sợ kẹt xe nên thuê khách sạn ở gần phi
> > trường vì ngày hôm sau các cháu phải về Mỹ. Thấy chúng nó vui vẻ thích
> > thú, lại còn cám ơn rối rít, tôi biết là đã thành công khi tổ chức
> > chuyến đi này.
> >
> > Bọn trẻ đi rồi buổi trưa tôi thuê xe vào quận 5 Chợ Lớn, tìm khu chung
> > cư An Đông có cửa hàng Cẩm Lợi của mẹ tôi, có căn nhà mà gia đình đã
> > sống suốt trên 20 năm. Tôi nhìn lên căn gác, nó đã cũ lắm rồi, chung
> > quanh chợ vẫn ồn ào tấp nập đúng như em tôi Nguyễn Tường Thiết đã tả
> > trong tập truyện “Căn nhà An Đông của mẹ tôi”. Tôi đang tập trung nhớ
> > lại hình ảnh mẹ tôi, người đàn bà tần tảo lo toan hết mọi chuyện trong
> > gia đình để chồng yên tâm theo đuổi chí lớn, tôi bỗng giật mình. Có
> > tiếng người đàn bà hỏi lớn: “Ông muốn kiếm gì?”. Tự nhiên tôi buột
> > miệng: “Tôi kiếm quán cơm gà Siu Siu”. Bà ấy lắc đầu: “Dẹp lâu rồi!
> > Gần đây cũng có một tiệm ngon lắm!” Theo Thiết tả thì quán cơm gà Siu
> > Siu ở bên cạnh cửa hàng mẹ tôi rất ngon và nổi tiếng, các em tôi trong
> > bao nhiêu năm được ăn thoả thích, không phải trả tiền, vì trừ vào tiền
> > mẹ tôi cho chủ quán câu điện.
> >
> > Cuộc sống vẫn tiếp diễn... nhưng những người muôn năm cũ đã từng gắn
> > bó với căn nhà này như bố mẹ tôi, như chị Thư tôi, như các em tôi
> > Thạch, Thoa, thì hồn ở đâu bây giờ?
> >
> > Còn lại mấy ngày ở Việt Nam tôi định bụng lên Đà Lạt thì may quá anh
> > bạn đồng hành rủ tôi cùng đi. Xe đò Phương Trang có giưòng nằm. Tôi
> > ngủ thiếp đi. Lúc tỉnh dậy thì xe sắp qua đèo Bảo Lộc. Những cây thông
> > thấp thoáng hai bên đường. Cái khoảng khắc núi rừng chìm trong hoàng
> > hôn sao mà âm u vậy? Anh bạn tôi nói là chỉ khoảng 40 phút nữa là sẽ
> > đến Phinom, vùng đất cao nguyên, nơi cha tôi, nhà văn Nhất Linh, đã
> > định dừng chân, sống với mây ngàn gió núi, vào rừng tìm những giò lan
> > đẹp, tiếp tục trả cho hết cái nợ văn chương, cái nợ chữ nghĩa. Tôi
> > mường tượng căn nhà mang tên một loài lan quý Thanh Ngọc Đình qua bài
> > văn của Thiết, nó nằm giữa rừng thông bát ngát, bên bờ suối Đa Mê thơ
> > mộng cách quốc lộ 20 khoảng nửa cây số, do ông vẽ kiểu và nếu căn nhà
> > không sập đổ trong một cơn bão lớn thì biết đâu ông sẽ trở thành một
> > ẩn sĩ, cống hiến thêm nhiều tác phẩm cho đời? Trước khi đi tôi đọc lại
> > tập san Thế Kỷ 21 số 201và 202 bài Thiết viết vào mùa xuân năm 2006.
> > Đọc xong cái tên Phinom khiến tôi tò mò như bị cuốn hút vào vùng đất
> > hoang vu lặng lẽ nhưng lại rất sinh động này. Khung cảnh ở đây chắc
> > hẳn có gì đặc biệt lắm nhà văn Nhất Linh mới chọn để xây căn nhà mộng
> > ước?
> >
> > Vì vậy, ngay ngày hôm sau khi đến Đà Lạt tôi háo hức thuê xe đi ngược
> > lại quốc lộ 20 đến Phinom. Qua ngã ba Đơn Dương tôi bảo tài xế taxi đi
> > thêm hai cây số thì rẽ phải trên con đường dẫn đến suối Đa Mê. Nhưng
> > thực tế hoàn toàn trái với trí tưởng tượng của tôi, không giống những
> > gì Thiết tả trong hồi ký. Đã 60 năm qua rồi còn gì! Phinom chẳng còn
> > vẻ gì hoang vu nữa, lối cũ bị xoá mờ, khá nhiều nhà cửa san sát. Tôi
> > hỏi thăm đường vào suối Đa Mê chẳng ai biết rõ cả, người chỉ đường
> > này, kẻ chỉ đường kia, tôi không biết đi ngả nào, thôi thì cứ theo
> > trực giác mà đi tìm. Tôi hẹn tài xế thả tôi ở đây một giờ nữa quay lại
> > đón rồi tôi tiếp tục hỏi thăm, may ra có người biết miếng đất mà xưa
> > kia nhà văn Nhất Linh đã từng ở? Chẳng ai cho tôi một thông tin nào
> > chính xác. Mà cũng phải thôi. Một số người sống ở đó đã tản mác đi nơi
> > khác, một số có thể đã về với ông bà rồi. Tôi vào một quán nước bên
> > đường ngồi nghỉ cảm thấy tê tê trong đầu. Phảng phất đâu đây trên vùng
> > đất này, trên khúc đường này, đã in dấu chân của bố mẹ tôi, của các em
> > tôi, vào một mùa xuân nào xa lắc, mẹ tôi ở Sài Gòn lên, có cả một số
> > bạn bè thân quen của bố tôi cùng đón giao thừa trong rừng bên suối Đa
> > Mê trong một cái Tết xưa năm Kỷ Hợi. Tôi nghĩ chắc năm đó cha tôi đã
> > ăn một cái Tết bình an và vui vẻ nhất trong đời ông.
> >
> > Đang mơ màng thì xe đến đón tôi quay trở về thành phố. Từ xa những căn
> > nhà cao thấp ẩn hiện trong sương mù. Phải nói dù thế nào Đà Lạt vẫn có
> > vẻ gì mời gọi quyến rũ đủ để lòng người có một chút bâng khuâng. Có lẽ
> > phố núi vừa mau tối vừa lạnh lẽo cần sưởi ấm nên người ta tìm đến nhau
> > sớm hơn. Thành phố của tình yêu mà!
> >
> > Mấy ngày ở Đà Lạt trời mưa liên miên, gió lạnh và đường phố ẩm ướt
> > nhưng tôi vẫn muốn đến toà nhà số 12 đường Yersin (nay đổi tên là Trần
> > Phú) để nhìn lại căn gác nơi bố tôi từng sống với hai em tôi là Thoa
> > và Thiết. Tiếc là quán Café de la poste mà Thiết tả trong hồi ký “Chai
> > rượu khai xuân” đã không còn nữa để tôi có thể ngồi trong căn nhà mà
> > bố tôi ngày xưa đã từng ở.
> >
> > Hôm sau ngủ dậy nhìn xuống phố, trời đã hết mưa, buổi sáng có nắng
> > đẹp, tôi thấy vui lây cái vui của thiên hạ đông đúc dưới kia. Để thử
> > sức trai tráng còn được bao nhiêu, tôi không lấy taxi mà đi bộ từ
> > đường Phan Đình Phùng hướng về phía chùa Linh Sơn. Dọc đường tôi ghé
> > vào quán gọi một tô bún cá rô ăn ngon lành, rồi theo lời chỉ dẫn tôi
> > leo lên một con dốc cao qua những bậc tam cấp, qua những nhà cửa cao
> > thấp theo triền đá; ra khỏi con dốc là đường Minh Mạng xưa. Tôi ngồi
> > nghỉ uống một ly sữa đậu nành nóng, thấy trong người không mệt mỏi,
> > không thở dốc, vậy là còn lâu viện dưỡng lão mới lấy được tiền của
> > tôi! Lại lang thang hết khu Hòa Bình, vòng xuống Hồ Xuân Hương, hướng
> > mắt tìm một cây Mimosa như trong thơ Nhất Tuấn: “Đường khuya mưa bay
> > bay, Mimosa thôi nở trong hồn anh đêm nay” nhưng không tìm thấy. Hay
> > là tôi chưa tìm kỹ? Hay nó chỉ còn lãng đãng đâu đó trong hồn người?
> > Tôi tần ngần đứng trước một ngôi biệt thự. Sao nó giống ngôi biết thự
> > ở ngoại ô thành phố Paris năm nào, mà hai bố con tôi hay đến đấy trong
> > những dịp nghỉ lễ.
> >
> > Kỷ niệm xưa lại hiện về trong tâm trí.
> >
> > Năm 1950 khi tôi rời Hà Nội thì bố tôi còn ở Hồng Kông. Năm 1974 khi
> > tôi trở về Sài Gòn lần đầu tiên thì bố tôi không còn trên dương thế.
> > Tôi sẽ không có một kỷ niệm thân thương nào với ông cụ tôi nếu không
> > có chuyến Đi Tây thứ hai trong đời ông vào năm 1954.
> >
> > Tôi được ở với bố khoảng 6 tháng ở Paris. Thời gian này với tôi thật
> > là tuyệt vời. Tôi cảm nhận cái hạnh phúc được sống trong mái ấm gia
> > đình. Tại sao Đà Lạt lại có hương vị của Paris nhỉ? Không khí nơi đây
> > nhắc nhở tôi những ngày hai bố con sống với nhau, cùng ăn, cùng ngủ,
> > cùng nói chuyện, tất cả đã xa lắm mà tưởng như mới hôm nào. Tôi mỉm
> > cười nhớ tới lời dặn của bố tôi: “Con yêu ai thì yêu, nhưng lấy vợ
> > Việt Nam thì tốt hơn!” Rất tế nhị, không cấm đoán, ông chỉ nhẹ nhàng
> > đưa ý kiến của mình.
> >
> > Buổi tối cuối ở Đà Lạt tôi xuống trả phòng, nói dăm ba câu chuyện với
> > ông chủ khách sạn. Khi nói về việc đối tên đường tôi mới biết là đường
> > Huỳnh Thúc Kháng bây giờ ngày xưa đã có một thời mang tên Nguyễn Tường
> > Tam.
> >
> > *
> >
> > Là con trai trưởng trong gia đình tôi qua Pháp từ hồi rất trẻ trước
> > khi có hiệp định chia đôi đất nước. Hai mươi bốn năm sau khi tôi trở
> > về thăm Sài Gòn lần đầu thì miền Nam Việt Nam đã gần mất về tay Cộng
> > Sản. Cả hai nền Cộng Hòa của miền Nam tôi không được biết, được sống.
> > Tôi như người đứng ngoài lịch sử, không trực diện với bối cảnh chiến
> > tranh, không phải đối phó với những hoàn cảnh khó khăn với tâm trạng
> > ngổn ngang đau thương mất mát của gia đình như các em tôi đã phải
> > đương đầu. Như vậy có phải là may mắn? Cuộc đời thì hữu hạn, nhưng
> > hoài niệm thì chẳng có giới hạn nào, chúng cứ lơ lửng theo ta đến cuối
> > đời.
> >
> > Tôi không có thiên khiếu văn chương để viết được những tác phẩm đầy đủ
> > và xúc tích như em tôi Nguyễn Tường Thiết. Chỉ xin ghi lại nơi đây một
> > vài cảm nghĩ chuyến về quê này. Chuyến đi cho tôi những trải nghiệm
> > rất thật mà từ hồi nào tôi như sống ngoài nó. Có lẽ khi người ta chưa
> > thực sự trải qua những thăng trầm của cuộc sống thì những suy nghĩ
> > cũng chẳng có thể chững chạc được. Một người đã vốn nghèo về văn
> > chương thì đâu có dư chữ nghĩa để viết được những bài văn bóng bẩy?
> > Cũng thích viết lắm nhưng cứ lần lữa hoài ngần ngại hoài, lại chưa tìm
> > được đề tài để viết. Sự khuyến khích của Thiết, của Cường, đã cho tôi
> > cảm hứng viết bài bút ký này, hy vọng sẽ được đón nhận.
> >
> > Tường Việt
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét